Tiếng Người

Chương 3 :

Ngày đăng: 00:50 19/04/20


Đấy là cuộc gặp mặt thường niên của công ty. Lần này, cả trụ sở Hà Nội và văn phòng Sài Gòn đều tập trung ra Đà Nẵng. Họ đặt phòng ở một resort nằm ngay trên bãi biển.



Ngày thứ nhất và thứ hai của tuần trôi qua buồn tẻ. Họp buổi sáng và buổi chiều. Rất nhiều báo cáo và phát biểu. Đến chiều tối, mọi người ăn chung trong phòng ăn lớn của resort; rồi sau đó, người đi tắm biển lạnh, người đi dạo, người đi vào trong thành phố chơi, người thuê xe chạy ra tận Hội An. Duy thường ngồi ở ngoài bãi cát một lúc rồi về phòng đọc sách và đi ngủ sớm. Anh không thích tiệc tùng. Không thích đám đông. Biển thì trên thế giới này, anh đã đến quá nhiều bãi biển rồi. Canary ở Tây Ban Nha, Bora ở Polynesia thuộc Pháp, Honolulu của Hawaii, Corfu ở Hy Lạp, East Hampton và hầu hết các bãi biển lớn ở cả bờ Đại Tây Dương lẫn bờ Thái Bình Dương của nước Mỹ.



Không có M, chỗ nào cũng vậy.



Từ lúc lấy nhau đến nay, gần bốn năm qua, hầu như anh không đi đâu xa mà không có M đi cùng. Thậm chí, họ đi chợ cũng đi cùng nhau. Bạn bè anh thường t rằng M đang biến anh thành một người đàn ông nhu nhược, quấn vợ.



Anh gật đầu, công nhận.



Anh chỉ công nhận mà không bao giờ giải thích cái cảm giác ngày Hội Hóa Trang ở New York cách đây bốn năm. Lúc đó, anh mới chuyển đến sống với M được hai tháng trong căn hộ một phòng ngủ trên phố La Salle. Lúc ấy, M còn đang học nốt chương trình thạc sỹ của nàng ở Đại học Columbia.



Căn hộ 50 mét vuông trên tầng ba của họ đã có sẵn đồ đạc lúc họ dọn vào. Một phòng khách lớn có một bộ sa lông màu nâu đỏ, sàn nhà lát gỗ nâu, tường quét sơn màu hồng nhạt và treo rải rác những bản sao tranh Renoir. Phòng ngủ có một chiếc giường đôi lớn đã có sẳn chăn và ga trải giường cũng gam hồng và nâu đỏ, tủ quần áo, bàn phấn và tủ đầu giường đều bằng gỗ màu cánh gián. Bức tranh người tàng hình – một người đàn ông không có khuôn mặt – của Jos De Mey treo ngay đầu giường. Bếp và nhà ăn liền với nhau và liền ra phòng khách. Trong nhà tắm, đối diện với bồn toilet và bồn rửa mặt là một bức tranh lớn vẽ những hình bánh xe đặt cạnh nhau để đánh lừa thị giác người nhìn. Nếu người ta nhìn vào một điểm nào đó trên bức tranh, những bánh xe ở bên cạnh điểm nhìn đó dường như sẽ quay. Sau khi họ dọn vào, anh đã thay tất cả những bức tranh Renoir và Jos De Mey trong nhà nhưng giữ lại bức tranh bánh xe. Mỗi lần nhìn nó xuyên qua gương rửa mặt, anh có một trò tiêu khiển là luyện để những bánh xe không thể chuyển động. Và quả là có thể làm cho chúng không thể chuyển động bằng cách cứ nhìn thật thẳng vào chúng – nhìn thẳng mà lại chẳng hề nhìn.



Hàng xóm cùng tầng với họ là một gia đình người Ấn Độ, hai cô gái đồng tính luyến ái người Đức đang học trình diễn jazz ở Nhạc viện Manhattan, một người da đen học tài chính và một người Nhật Bản học một ngành gì đó thuộc khoa học cơ bản, có lẽ là vật lý. Giữa những người hàng xóm này, hai cô gái đồng tính là người anh và M gặp thường xuyên nhất; họ hay mở tiệc đãi bạn và mời cả anh với M. Hai vợ chồng Ấn Độ luôn cố thủ trong nhà mặc dù mùi cà-ri và những tiếng đàn sarod trong những băng nhạc họ mở luôn tràn ra hành lang. Người da đen thường ra khỏi nhà từ sáng sớm và về muộn; nếu anh ta đi vắng, tờ Thời báo phố Wall của anh ta sẽ chất thành đống trước hòm thư.



Nhưng bí hiểm nhất là người hàng xóm Nhật Bản. Anh chưa từng gặp người này trong cả hai năm sống ở đó; chỉ có M đã gặp anh ta khi người đưa thư bỏ nhầm tạp chí Nature và Physical Review Letters của anh ta vào hòm thư của anh với M và M đã sang gõ cửa để trả lại. Hộp thư dưới sảnh đề tên anh ta là T. Fumikawa; M và anh đã gọi anh ta là Fumi cho dễ. Một vài lần, khi anh và M về nhà khuya, anh nhìn lên tầng ba và ở căn hộ của Fumi, anh thấy bóng một người đàn ông đứng bên cửa sổ nhìn ra ngoài. Từ chỗ đó, anh ta sẽ nhìn thẳng vào phòng khách nhô ra của anh và M. Người quản lý tòa nhà từng nói với anh rằng thỉnh thoảng Fumi lại hỏi thăm xem M học gì, sắp tốt nghiệp và chuyển đi chưa. Theo lời giải thích của người quản lý thì Fumi muốn chuyển vào căn hộ của anh và M để hưởng cái ban công duy nhất của cả tầng.



Bên ngoài khu nhà của họ, đi xuôi xuống khu Tây Harlem là những đường phố ken dầy, mỗi phố chỉ cách nhau chừng 200 mét. Những hiệu sách cũ và nhỏ rất nhiều; đôi khi để vào được hiệu sách phải đi xuống cẩu thang tầng hầm một cửa hàng bán tạp hóa bên ngoài. Những cửa hàng thực phẩm nhỏ bán thịt, sữa, trứng, rau quả, đồ nhà tắm và đồ vệ sinh; quán ăn bình dân (nhất là các quán pizza, đồ ăn kiểu Caribê và Mỹ Latin, một vài quán Tàu và Nhật lẻ tẻ) rồi những tiệm cà phê chỉ đủ chỗ cho 10 người đứng, hàng kem, tiệm giặt là, hiệu cầm đồ, tiệm may, chi nhánh ngân hàng Chase, Citibank, hàng hóa, các cửa hàng băng đĩa, thậm chí cả nhà hát và bảo tàng mini. Đi ba dãy nhà sang phía Đông là ra đến công viên Morningside; đi sang phía giáp sông Hudson là công viên Riverside; và xuôi xuống phía Nam một đoạn là đã tới công viên Central Park cùng với khi thượng lưu nhiều tòa nhà cổ của Manhattan.



Cứ từ 7 rưỡi sáng, nếu anh kéo cửa sổ lên, tiếng chân dọc cầu thang, tiếng đóng mở cửa ra vào, tiếng còi xe bên ngoài đại lộ Martin Luther King và những tiếng ầm ỳ xa xa của thành phố đã vọng vào. Nhưng chỉ sau 9 giờ tối, tất cả các đường phố xung quanh nhà anh trở nên vắng vẻ. Các cửa hiệu cũng đóng sớm hơn trong các khu trung tâm của New York; và từ nhà anh nhìn ra, chỉ có những cửa sổ sáng đèn cho đến rất khuya. Sau mười hai giờ đêm, những ánh đèn tắt dần, tắt dần ở các khu nhà xung quanh, cho đến 7 rưỡi sáng ngày hôm sau, khi dòng âm thanh lại trỗi dậy. M cũng thường dậy từ trước 8 giờ sáng để đến trường, còn anh phải 8 rưỡi sáng mới ra khỏi nhà, nếu anh phải đi làm.



Suốt cả tháng đầu tiên sống chung với M, anh luôn có một cảm giác thấp thỏm. M ăn rất chậm. Anh ăn xong đã lâu rồi, M vẫn còn đang ăn. Anh đứng lên, rửa sạch bát của anh, lau, rồi cất đi, M vẫn còn đang ăn. Khi cuối cùng nàng cũng ăn xong, nàng không bao giờ rửa bát hay cốc ngay. Nàng để chúng đó. Những cái cốc còn đọng một ít nước ở đáy và những cái bát còn vương mấy hạt cơm cứ nằm chình ình trên bàn ăn.




- Hôm qua em mơ rất buồn cười – M nói.



- Em mơ thế nào? – anh hỏi.



Và họ nằm trên giường, nghe M kể lại giấc mơ của nàng. Những giấc mơ thường liên quan đến tuổi thơ của nàng. Nàng mơ gặp lại những người bạn cũ từ cấp 1, cấp 2. Họ đi trên những con đường cũ ở ngoại thành Hà Nội. Đặc biệt, có một người bạn trai từ ngày đó luôn xuất hiện trong những giấc mơ: N.



Lúc nhỏ, M và N ở cùng khu tập thể phía Mai Dịch. Hai người chơi thân với nhau. Họ hay đèo nhau lên cầu Thăng Long rồi xuống nghịch ở bãi cát dưới sông Hồng. Hai người “thích” nhau.



- Dĩ nhiên là chẳng đưa nào nhận thế cả. Lúc đấy, em nói là em sẽ không bao giờ lấy chồng (nàng cười). Còn N thì tuyên bố là N không bao giờ lấy người bằng tuổi như em vì hai vợ chồng sẽ cá mè một lứa…



- Thế à?



- Nhưng mà… ha ha… bọn em giao hẹn là nếu đến năm 25 tuổi mà chưa đứa nào có người yêu, thì bọn em sẽ thành một cặp. Hồi đấy nghĩ 25 tuổi là già lắm rồi.



Năm nay M 26. Còn anh 32.



M và N. Họ sẽ thành một cặp – không phải là người yêu nhưng sẽ là một cặp. Không ai được yêu người nào khác nữa. Họ sẽ mua nhà chung và sống với nhau như cái gì cũng được, miễn không phải là người yêu.



- Tự do! – M cười.



Nhưng sau đó thì nhà N chuyển đi Lâm Đồng trồng cà phê và M cũng chuyển đi khỏi Mai Dịch. Họ không gặp lại nhau từ hồi đó.