Tống Y

Chương 401 : Lễ đăng cơ

Ngày đăng: 19:23 18/04/20


Chấp Sự Quan bưng Dật Sách Bảo Dư dùng để chiêu hồn, còn Minh Tinh thì dùng để viết tên hiệu của Hoàng Đế để truy phong.



Hàng trăm Chấp Sự Quan đến dự lễ đón linh cữu của Tống Thần Tông đã đứng vây quanh quan tài, dùng để khênh chiếc linh cữu của Tống Thần Tông là một chiếc đòn gỗ to và nặng, nó có tên là Độc Long Giang, phía trước có khắc trạm đầu rồng, còn phía sau thì chạm trổ đuôi rồng, phải cần một trăm hai mươi tám người mới nâng nổi nó lên.



Còn linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu thì do chín mươi sáu người khênh, những người khênh linh cữu này đã được rèn luyện vô cùng nghiêm ngặt, ngày thường tập luyện, bọn họ đều phải khênh những chiếc quan tài trên đó có đặt một bát nước đầy, khi khênh nó xuống cầu thang thì đến một giọt nước ở trong bát trên quan tài không được đổ ra ngoài, Đám Nội Thị vô cùng cẩn thận khi khênh linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, linh cữu của Tống Thân Tông ra trước, còn của Thái Hoàng Thái Hậu ra sau, trước sau đều vô cùng cẩn trọng và vững vàng.



Đám Chấp Sự Quan lúc này cũng lục đục mỗi người cầm một chiếc lọng, che lấy linh cữu của Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu.



Tiếp sau đó thì viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời linh cữu của Hoàng Thượng lên Long Tập, Long Tập thực chất là một chiếc xe chạm trổ hoa văn rồng phượng, chuyên dùng để chờ quan tài cho Hoàng Thượng.



Mấy tên Nội Thị lúc này cũng đã đặt linh cữu của Hoàng Thượng lên trên Long Tập một cách cẩn thận, sau đó dùng một tấm vải màu sắc sặc sỡ che lên linh cữu của Hoàng Thượng, Còn đám Chấp Sự Quan thì cầm lọng đứng ở hai bên, sau khi viên Tư Lễ Quan cao giọng khởi xướng xong, thì chiếc Long Tập bắt đầu lăn bánh rời khỏi hoàng cung.



Phía sau là những viên quan Chấp Sự khác bưng Dật Sách Bảo Dư, Thần Bạch Dư, Chân Đình, Minh Tinh (Những vật dùng trong tế lễ, chiêu hồn, viết truy hiệu cho Hoàng Đế) tiếp sau đó là Hoàng Thái Hậu, Hoàng Hậu, Thân Vương, Hoàng Tử, Phi Tần, Hoàng Thân Quốc Thích, ai cũng khóc lóc vô cùng đau thương.



Dọc trên đường đưa lễ đám Ngự Lâm Quân cũng mặc áo hiếu, để tang đứng trang nghiêm ở hai bên đường, Đỗ Văn Hạo cũng khoác trên người tấm áo tang, tay cầm kiếm đi bên cạnh linh cữu của Hoàng Thượng.



Toàn bộ quá trình tang lễ thì chỉ có mỗi một mình Tam Nha Đô Chỉ Huy Sứ Đỗ Văn Hạo là được phép cầm kiếm, đây là Hoàng Thái Hậu đặc cách cho hắn.



Đội khênh linh cữu ra khỏi cung từ cổng Tả Điện, sau đó đi thẳng ra cổng Ngọ Môn, nơi này cũng là nơi tổ chức nghi thức tang lễ, dĩ nhiên vẫn là Tự Hoàng Đế Triệu Hú dẫn đầu.



Tư Lễ Quan khởi xướng xong thì tất cả cùng vái lạy bốn lần, rồi lại phải lạy thêm một lần nữa, tiếng khóc than lại một lần nữa vang lên dữ dội.



Tiễn đưa linh cữu đến đây là kết thúc, cũng là thời điểm vĩnh biệt Tống Thần Tông và Thái Hoàng Thái Hậu, tất cả Hoàng Thân Quốc Thích đều khóc rống lên chấn động cả hoàng cung, có người còn nằm ngửa ra đất giãy giụa không ngừng sửa sắp chết đến nơi, có người thì chạy bổ đến linh cữu cứ như muốn theo Hoàng Thượng xuống dưới suối vàng luôn không bằng, mỗi người một kiểu không ai giống ai, đám Nội Thị phải vất vả lắm mới khuyên ngăn lôi kéo được bọn họ ra.



Trong đám người này còn có cả Ung Vương Triệu Nhan không ngừng dập đầu xuống đất kêu gào thê lương.



Tiếp sau đó, thì vẫn còn một nghi thức khác vô cùng quan trọng phải cử hành, đó là làm lễ kế vị cho Hoàng Đế mới.



Tư Lễ Quan mở to giọng hết cỡ khởi xướng mời Tự Hoàng Đế Triệu Hú lên kế vị.



Triệu Hú lững thững áo tang đứng trước linh cữu của Tống Thần Tông cúi lạy ba lạy, dập đầu chín cái, rồi chính thức nhận lệnh kế vị lên ngôi Hoàng Đế.



Tiếp theo, Tư Lễ Quan quỳ xuống trước linh cữu mời mọi người khởi giá.



Sau đó, viên quan dẫn đường liền quỳ xuống mời vị tân Hoàng Đế về cung, về cùng với Triệu Hú còn có Hoàng Thái Hậu, Hoàng Thân Quốc Thích để bắt đầu cử hành buổi nghi lễ quan trọng nhất, trang nghiêm nhất tại Đại Điện.



Tại đây Tể Tướng Vương Giai đã hoàn tất công việc cho buổi lễ đăng cơ.



Ngoài cổng Ngọ Môn, các lễ quan liền quỳ xuống trước linh cữu mời lên Long Tập để xuất phát, Ngoại trừ Tự Hoàng Đế ra, thì các Thân Vương khác đều phải đi theo cùng linh cữu, khi đi ra đến cổng Thụy Môn đến Thái Miếu thì Tào Vương Triệu Cố sẽ chủ trì buổi lễ từ biệt tổ tông tại Thái Miếu.



Vĩnh Dụ Lăng của Tống Thần Tông đến giờ vẫn chưa xây dựng xong, chính vì vậy mà bây giờ phải đặt linh cữu trong Thái Miếu, chờ lăng mộ xây xong rồi mới đưa ra đó để an táng.



Còn Thái Hoàng Thái Hậu thì chôn cùng với Tống Nhân Tông tại mộ Vĩnh Chiêu Lăng, chính vì vậy mà sau buổi lễ cáo từ tổ tông xong, thì Lễ Quan lại quỳ xuống mời linh cữu của Thái Hoàng Thái Hậu khởi giá.



Thân Vương lại tiếp tục đưa linh cữu đến cổng Đức Thắng Môn rồi quỳ xuống bái biệt tại đây, sau đó dõi mắt theo lĩnh cữu rồi lại quay lại hoàng cung tham gia buổi lễ đăng cơ của Hoàng Đế Triệu Hú.


Thái Hoàng Thái Hậu mỉm cười nhắm mắt hưởng thụ câu nói vừa rồi của Đỗ Văn Hạo.



Trời cũng dần dần tối dần.



Đúng lúc này bên tai của hai người bỗng nhiên nghe thấy gió thổi vù vù, cát bay lên tứ tung.



“Mưa rồi!”



Đỗ Văn Hạo mừng rỡ nói: “Lâu lắm rồi mà chưa có mưa! Lần này ông trời đổ mưa xuống cho chúng ta rồi, thật là sảng khoái!”



Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mở mắt ra, bà liền trông thấy những giọt mưa tí tách rơi bên ngoài chiếc đình, bà vui mừng ra mặt đứng thẳng người lên kéo lấy tay của Đỗ Văn Hạo đứng sát hiên của chiếc đình nói: “Ta thích nhất là trời mưa, khi trời mưa trái tim ta rất tĩnh lặng, nghe tiếng mưa rơi lộp bộp trên lá chuối, cái cảm giác ấy khó tả vô cùng.



“Đúng vậy! Gốc chuối bên cửa sổ....



Hứng những giọt mưa rơi, mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi....!”



Đỗ Văn Hạo bỗng nhiên cao hứng ngâm một bài thơ lên, Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì kinh ngạc quay sang hắn nhìn nói: “Thơ hay quá, là chàng viết ư?”



“Ồ không, là một nữ thi sĩ thời đại Tống chúng ta có tên là Lý Thanh Chiếu viết đó! ”



Đỗ Văn Hạo nói, , “Lý Thanh Chiếu? Ai vậy nhỉ? Sao ta chưa bao giờ nghe qua tên của người này? Người ấy bây giờ đang ở đâu?”



Thái Hoàng Thái Hậu hỏi.



Đỗ Văn Hạo nghe vậy ngượng ngùng đáp: “Cái này thì ta không rõ...!”



Đỗ Văn Hạo chỉ biết Lý Thanh Chiếu sống vào những năm cuối của Bắc Tống, sau đó thì Bắc Tống bị diệt vong bà liền dời vào nam, Bắc Tống lúc đó chuyển thành Nam Tống, vậy nhưng cụ thể thời gian là bao giờ thì hắn không rõ lắm, cũng không biết Lý Thanh Chiếu là người ở đâu, Đỗ Văn Hạo lúc này cũng nghĩ, đến cả Thái Hoàng Thái Hậu cũng không biết thì chắc Lý Thanh Chiếu vẫn chưa ra đời, mà cho dù ra đời rồi thì cũng chưa nổi tiếng.



Thái Hoàng Thái Hậu lúc này liền nói: “Hình như chàng vẫn chưa đọc hết cả bài thơ thì phải, chàng đọc tiếp cho ta nghe đi!”



“ừm, được! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng, nhớ về người đó nơi trời Bắc, mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không!”



Đỗ Văn Hạo ngân lên.



Thái Hoàng Thái Hậu nghe vậy thì mê mẩn như người mất hồn lẩm nhẩm: “Gốc chuối bên cửa sổ...hứng những giọt mưa rơi! Mưa rơi hoài không ngớt, tâm trạng nỗi đầy vơi! Canh ba tí tách nỗi sầu ai, từng giọt xót xa như sương đắng! Nhớ về người đó nơi trời Bắc, mưa xa bỗng dậy nỗi lòng không ! Bài thơ này hay quá! Lúc nãy chàng nhắc ta mới nhớ, trong này ta cho đựng một cái lầu, rồi trồng thật nhiều chuối xung quanh, khi mưa xuống chúng ta tới đó uống rượu ngâm thơ, đánh đàn nghe hát, chàng thấy thế nào?”



Đỗ Văn Hạo nghe vậy liền cười nói: “Cái này tuyệt đấy, vậy nhưng ta lại không biết làm thơ, cũng không biết đàn hát, còn uống rượu thì không có vấn đề gì cả, hề hề, hay là nàng đánh đàn ngâm thơ, còn ta chỉ ngồi uống rượu thôi, nàng đánh một khúc nhạc, ta uống một cốc rượu, nàng làm một bài thơ, ta uống thêm một cốc nữa, được không hả?”



“Không được không được, chỉ một mình ta đánh đàn ngâm thơ thì có gì là hay, chàng không phải vừa ngâm một bài thơ rất hay rồi đó hay sao?”



Thái Hoàng Thái Hậu lắc đầu nguầy nguậy nói, “Nhưng đó là của Lý Thanh Chiếu, chứ có phải ta làm đâu!”



Đỗ Văn Hạo cười khổ nói, “Ta không tin! Chàng vừa ngâm một bài thơ hay như vậy, cứ nói không phải của mình, lại còn nói là do cái gì mà Lý Thanh Chiếu viết! Không phải ta nói ngoa chứ ta đọc sách ngâm thơ từ bé đến giờ, chưa từng nghe đến bài thơ này bao giờ, đừng nghĩ là ta đọc ít sách, ta đọc nhiều lắm đó, nhiều đến nỗi mà bây giờ có rất ít bài thơ nào là ta không biết! Hứ...! Chàng biết làm thơ mà cứ dối ta là Lý Thanh Chiếu viết, ta không cần biết, chàng phải làm thơ cho ta nghe cơ...! ”