Trăng Sáng Cố Hương
Chương 3 : Xót xa
Ngày đăng: 22:41 21/04/20
Tám năm sau.
Mặt trăng treo trên vòm lá, bóng cây đổ dài xuống đất, gió đêm phe phẩy, côn trùng rả rích. Giữa màn đêm tĩnh mịch mới đầu canh một, trong sân một ngôi nhà ở phía đông thành, chợt có những tiếng lạch cạch vang lên. Tiếng động ấy tựa như có người nào lấy những viên đá ném vào khung cửa sổ vậy. Thiếu nữ đang nằm trên giường, nghe tiếng động trở dậy, mau chóng lấy bộ y phục để dưới gối mặc nhanh lên người, đoạn búi gọn đầu tóc lại, nhanh nhẹn bước ra mở rộng cửa phòng.
Trong sân, hoa lê đang nở rộ. Gió nhẹ thổi, làm những cánh hoa trắng tinh lả tả rơi như những bông tuyết đang bay. Dưới những cánh hoa lê bay tan tác, một thanh niên cao gầy đang đứng. Ánh trăng mờ ảo soi lên vai y, chiếu lên cái lưng thẳng tắp, chỉ thấy y đang chắp tay sau lưng đứng đó, tay trái để ở sau lưng, còn cánh tay phải thì trống không, để mặc cho gió nhẹ thổi phất phơ. Lúc này, y đang đứng quay lưng lại phía cửa phòng thiếu nữ, ngẩng đầu nhìn vầng trăng trên ngọn cây và những cánh hoa đang bay như tuyết rơi, tựa hồ đang suy tưởng điều gì.
”Hằng ca!”
Thiếu nữ khẽ gọi một tiếng, kéo tâm tư đang sống lại với chuyện cũ từ nhiều năm trước của thanh niên ấy quay trở lại. Thanh niên quay người, đôi mắt sâu thẳm nhìn về phía cô, nhè nhẹ gật đầu.
Hai người nhìn nhau, không nói một lời. Thiếu nữ cầm chiếc đèn lồng đèn lồng treo trên giá gỗ trong sân lên, giẫm chân lấy đà nhảy một bước, cùng thanh niên tung mình vọt qua tường, hạ xuống đường phố bên ngoài, đi nhanh ra phía ngoại thành.
Hai người ấy chính là Khương Hằng và Tùy Vân Hy. Tám năm trước, hai người mới chỉ là một cậu thiếu niên và một cô bé con, trong một ngày đông giá vừa đói vừa rét, phải ngủ ngoài đường, cô bé Vân Hy đã bị phong hàn sốt cao không dứt. Khương Hằng lại là một kẻ tàn phế mất một tay, đừng nói đến việc làm thuê, ngay cả bế Vân Hy cũng khó. Trong tình cảnh khốn khổ, kêu trời trời chẳng thấu, kêu đất đất không nghe ấy, may nhờ có một người thợ làm đèn lồng trong thành đã ra tay cứu giúp họ. Ông chẳng những mua cơm ăn thuốc uống cho Vân HY, còn cho hai đứa nhỏ ở lại trong nhà mình.
Đến khi Vân Hy khỏi bệnh, Khương Hằng muốn dẫn cô bé rời đi, nhưng người đàn ông câm đeo mặt nạ quỷ ấy đã ngăn lại. Ông lấy bút mực thay lời, viết lên giấy rằng: “Ta đã phải trải nỗi đau bị mất ái nữ, nay chịu cảnh cô đơn, chỉ có một mình, hình đơn bóng chiếc. Các cháu hãy thương ta, ở lại đây với ta đi.” Thấy chú câm “nói” thống thiết như vậy, lại đối xử với chúng rất tốt, hai đứa bé cuối cùng đã ở lại tòa thành nhỏ Phàn Dương này, chớp mắt tám năm đã trôi qua.
Mấy năm nay, chú câm coi Khương Hằng và Vân Hy như con đẻ, quan tâm chúng vô cùng. Chú câm tính tình hòa nhã, lại biết chữ, lúc nhàn nhã thường dạy cho hai đứa bé đọc thơ văn, lúc bận rộn lại cho hai đứa giúp mình làm đèn, bày hàng. Mỗi năm đến dịp Nguyên tiêu và Thất tịch, ba người bận rộn vô cùng. Vân Hy cũng học cách làm đèn, còn Khương Hằng thì một vai gánh hàng theo chú câm đi hết hang cùng ngõ hẻm, bán đèn lồng.
Đối với hai đứa trẻ, chú câm cái gì cũng tốt, chỉ có một điểm cực kỳ kiên quyết, đó là không cho bọn họ luyện võ. Năm ấy, sau khi Vân Hy khỏi bệnh, Khương Hằng bèn dắt cô bé ra trước sân luyện tập mấy chiêu thức của Tùy gia thương, chú câm trông thấy, con người ông vốn xưa nay hòa nhã hiền lành, bỗng nhiên há miệng kêu to một tiếng “a”, rồi lớn tiếng quát hai đứa phải thôi. Dù có chiếc mặt nạ quỷ ngăn cách, nhưng hai đứa bé cũng có thể cảm nhận được sự tức giận của ông. Trước nay chưa từng thấy chú câm nổi nóng như vậy bao giờ, cô bé Vân Hy sợ hãi giật nảy mình, cây thương gỗ trong tay rơi xuống đất.
Sau sự việc ấy, Khương Hằng cũng từng hỏi chú câm vì sao lại phản ứng với việc tập võ như vậy. Chú câm khi ấy đang vẽ hình lên những chiếc đèn lồng, liền với lấy một tờ giấy, viết lên đó một câu: “Học võ, nếu chẳng hại người, thì cũng hại mình.”
Vết mực in đậm, thấm qua lưng tờ giấy.
Từ đó về sau, Khương Hằng và Vân Hy không luyện võ trong sân nhà nữa. Mỗi ngày sau khi đêm xuống, nhân khi chú câm đã ngủ say chúng mới lần khỏi nhà, đi ra chỗ vắng bóng người ngoài thành để luyện tập Tùy gia thương pháp.
”Tùy gia thương vốn đã có lời tổ huấn, chỉ truyền cho nam không truyền cho nữ...” Khi ấy, cậu thiếu niên mới mười ba tuổi nhìn cô bé con mới lên tám tuổi, trầm giọng bảo. “Nhưng nay ta chỉ còn một tay, rất nhiều chiêu thức thương pháp không cách nào dùng được, cho dù có thể dùng thì đường lối cũng phải có biến đổi, khác xa so với trên thương phổ. Cha và chưởng môn sư bá đến chết vẫn ra sức bảo vệ Tùy gia thương, kháng cự không ký Thái Bình Ước, chính là không muốn Tùy gia thương bị thất truyền ở đây. Nay vì tình thế bức bách, Tùy gia thương nếu muốn tồn tại thì chỉ có thể truyền thụ cho muội. Tin rằng sư tổ dưới suối vàng nếu có biết, cũng sẽ lượng thứ. Vân Hy, bây giờ chỉ có muội mới có thể học được nguyên bản Tùy gia thương mà thôi. Muội không được trách ta nhé!”
Nói xong câu ấy, Khương Hằng hô lên một tiếng, đứng tấn, rồi hét vang, cánh tay duy nhất đưa mũi thương, làm động tác khởi đầu.
Vân Hy làm theo, nhưng bước chân còn chưa chuẩn, bị Khương Hằng quất một roi vào bắp chân, lập tức ngã lăn xuống đất.
Nhát roi ấy khiến Vân Hy tê buốt, hồi lâu vẫn không đứng nổi. Thấy cô ngã xuống đất, Khương Hằng chẳng những không chạy lại đỡ, mà còn quát to: “Đứng lên! Làm lại!”
Từ sau biến cố ở Kỳ Sơn, hai người đang đêm bỏ trốn, những ngày này, Khương Hằng vẫn luôn bảo vệ Vân Hy, không muốn cô bé phải chịu chút thương tổn nào. Vậy mà lúc này, cậu lại khác hẳn thường ngày, ra tay rất nặng, vô cùng nghiêm khắc. Sự thay đổi ấy khiến Vân Hy mắt ngân ngấn nước như chực khóc. Qua ánh mắt nhòe nhoẹt, cô bé thấy Hằng ca trước mặt mình hai mày nhíu chặt, lộ rõ vẻ nghiêm túc không giống mọi ngày.
Lúc ấy, trong ánh mắt bị nước mắt làm cho mờ mịt, Vân Hy bé nhỏ lờ mờ cảm thấy đằng sau việc học thương của cô có rất nhiều có rất nhiều thứ không vui đè nặng lên hai vai của Hằng ca, khiến cho Hằng ca - người vốn thích trêu chọc cô, thích mắng cô là “nha đầu ngốc” - biến thành một Hằng ca nghiêm khắc với hai vai hơi chùng xuống, đang cầm thương đứng đó.
Cô bé hít một hơi thật sâu, lấy mu bàn tay lau mạnh nước mắt, rồi học theo bộ dạng của Hằng ca, hô to một tiếng, làm lại thế tấn.
Ngày đông giá buốt nhất vẫn luyện, ngày hè nóng nực nhất vẫn tập, suốt tám năm qua, bất kể nắng mưa, hai người họ mỗi tối đều đến nơi này luyện tập thương pháp hai canh giờ.
Dần dà, Khương Hằng bắt đầu quen cách cầm thương bằng tay trái, và có thể một tay vận nội công, sử dụng được những chiêu thức mạnh mẽ như Thanh Tùng Phúc Tuyết. Còn công phu cơ bản của Vân Hy cũng ngày càng tiến bộ, đã có thể thuộc lòng toàn bộ các chiêu thức của Tùy gia thương.
Mỗi chiêu, mỗi thức, mỗi đường thương đưa ra, Vân Hy luôn nhớ đến những ngày ở Kỳ Sơn, nhớ đến chuyện cô nấp trên cây nhìn lén vào Diễn Võ đường, nhớ đến chuyện Hằng ca trêu chọc, đe dọa cô rằng sẽ nói cho cha cô biết chuyện cô học lén võ công... Khi ấy, cô đã luôn tức giận, luôn oán trách lời tổ huấn, oán trách cha vì sao không dạy võ cho mình. Nhưng đến hôm nay, khi đã được học võ luyện thương như sở nguyện, thì cô lại hối hận...
”Chớ lơ đễnh!”
Khương Hằng kêu to một tiếng, đồng thời xoay cán thương chống mạnh xuống đất, khí lực xô mạnh khiến bụi đất bay lên mù mịt. Bị cát bụi làm mờ mắt, Vân Hy nghiêng người định tránh, động tác tay nhân đó hơi ngưng trễ một chút.
Tranh thủ chiêu thức bị lỡ ấy, Khương Hằng phi một cước, đá bay binh khí trong tay Vân Hy ra tít đằng xa. Đồng thời, y xoay người đâm trở lại, cán thương vừa vặn kề sát yết hầu Vân Hy.
Chiêu dừng, khí nghỉ. Khương Hằng thu lại cây thương, đeo nó lên sau lưng, rồi đưa cánh tay duy nhất kéo Vân Hy dậy.
Cầm bàn tay trái đã đầy vết chai của Khương Hằng, Vân Hy vừa lấy đà đứng dậy vừa nói: “Không tính, không tính, Hằng ca đánh lén, đúng là ăn gian.”
”Đánh lén gì chứ!” Khương Hằng không vui nheo mắt, hạ giọng trách. “Ở chốn võ trường, thắng làm vua, thua làm giặc, làm gì có chuyện đánh lén hay đánh thẳng. Nếu không, khi đối thủ muốn giết muội, muội còn định nhường nhịn ư? Hơn nữa, Triệu Hãn võ công cao cường, là cao thủ nhất đẳng trên giang hồ. Với công phu của hai chúng ta, dù lấy hai chọi một thì cũng chỉ có đường chết. Nếu muốn báo thù, chỉ còn một cách là đánh lén.”
Nghe thấy câu ấy, Vân Hy cúi mặt xuống, không nói gì nữa. Đúng như Hằng ca nói, bọn họ luyện võ, một là để kế thừa Tùy gia thương, nhưng điều quan trọng hơn cả là để báo thù rửa hận cho cha, cho Khương sư thúc, Khương thúc mẫu và tất cả ba mươi bảy mạng người lớn nhỏ của Tùy gia thương ở Kỳ Sơn.
Thấy Vân Hy không đáp lời, Khương Hằng cũng biết mình đã nói quá. Y đưa cánh tay duy nhất vỗ vỗ vai Vân Hy, nhỏ nhẹ nói sang chuyện khác: “Khi nãy muội mãi suy nghĩ gì mà lơ đễnh thế? Luyện mãi luyện mãi, cuối cùng lại hỏng hết cả thương pháp, không còn chút kình lực nào cả.”
Ánh nến trong đèn lồng rung rinh, khiến bóng bông hoa lan vẽ trên giấy dán đèn in lên nền đất bên cạnh chỗ họ đứng cũng rung rinh lay động. Vân Hy cụp mắt nhìn ánh đèn như một ngôi sao ấy rồi lại ngẩng đầu nhìn người thanh niên cao gầy bên cạnh mình, nhận thấy y từ lâu đã không còn vẻ trẻ con như xưa nữa, khuôn mặt cương nghị cũng không còn giống như trong ký ức của mình, bèn chậm rãi nói: “Hằng ca, muội nhớ đến Diễn Võ đường...”
“...” Lần này thì Khương Hằng không thể nói được gì.
Hai bàn tay nắm lấy nhau, năm ngón tay siết chặt. Thanh niên đứng thẳng người lên, lặng lẽ nhìn vầng trăng sáng trên ngọn cây. Sao thưa trăng sáng, ánh trăng tuôn tràn trên đồng rộng hoang vắng, tựa như rắc một lớp sương bạc lên mặt đất. Chợt nhìn, tựa như có tuyết rơi, chẳng khác nào buổi tối mưa tuyết ngập núi từ nhiều năm trước ấy.
”Bây giờ, muội không cần phải trốn lên cây lén nhìn vào Diễn Võ đường nữa.” Chỉ nghe thấy Vân Hy nhỏ nhẹ nói tiếp: “Nhưng giờ đây chính muội cũng không hiểu, vì sao khi ấy lại muốn học võ như vậy? Muội hối hận lắm, sớm biết thế này, thì muội thà cả đời này không chạm vào thương...”
Càng nói, tiếng Vân Hy càng nhỏ, cho thấy cô đang nhớ lại những năm tháng trên Kỳ Sơn, nhớ lại những chuyện vui đùa khi còn nhỏ, các sư huynh đệ nói nói cười cười. Khương Hằng bỗng nhiên kéo Vân Hy, lôi cô ngồi xuống đất, hai người vai kề vai, y như khi còn nhỏ ngồi sát bên nhau, y như khi ở trong ngõ tối đêm đông hàn, nhìn đèn hoa đăng trên phố vậy. Bờ vai họ truyền cho nhau hơi ấm, hai người cùng mất gia đình trong một ngày, đã phải dựa vào chút hơi ấm ấy để nâng đỡ cho nhau đi qua những ngày tháng gian nan nhất.
”Trên đời này không hề có thuốc chữa cho sự hối hận, chuyện đã đến nước này thì không thể quay đầu lại được.” Khương Hằng chầm chậm nói. “Cái gọi là giá như, nói gì đi nữa, cũng chỉ là chuyện phiếm mà thôi. Ta chưa từng hối hận gì cả, chỉ hận khi ấy tuổi nhỏ không đủ sức bảo vệ cha mẹ, hận Triệu Hãn và Tôn Bồi Nguyên, hận Thái Bình Ước chó chết ấy! Vân Hy, hiện giờ muội là hy vọng cuối cùng của Tùy gia thương, thế nên muội không được phép hối hận nữa, muội và ta cần luyện thương pháp cho thật tốt, như vậy thì mới không hổ thẹn với chưởng môn sư bá.”
”Dạ...” Vân Hy khẽ đáp một câu. Lặng lẽ hồi lâu, chợt cô quay nghiêng người, hai tay nắm lấy vai Khương Hằng, bóp mạnh, bảo: “Khi còn nhỏ, muội luôn cảm thấy đôi vai Hằng ca lúc nào cũng rất nặng. Bây giờ lớn rồi, cuối cùng muội cũng hiểu đôi vai này của huynh phải gánh trách nhiệm thế nào. Nhưng, Hằng ca, xin huynh chớ suốt ngày nghĩ đến chuyện luyện võ báo thù, thi thoảng huynh cũng nên buông gánh nặng ấy ra. Huynh còn có muội, còn có chú câm. Trách nhiệm ấy, muội sẽ cùng gánh vác với huynh! Hơn nữa chúng ta cũng phải hiếu kính với chú câm, không thể chỉ nghĩ đến chuyện báo thù được!”
Nghe lời khuyên giải của Vân Hy, Khương Hằng hơi nhếch môi cười, đoạn đưa tay lên vỗ vỗ vào bàn tay nhỏ bé đang đặt trên vai mình, nói: “Được rồi, được rồi, đừng bóp nữa. Những điều muội nói ta đều hiểu cả. Khương Hằng ta ân oán phân minh, ân tình này của chú câm, chúng ta tất sẽ phải trả.”
”Vâng! Cũng không còn sớm nữa, chúng ta mau về nhà thôi, đừng để cú câm phát hiện ra chúng ta luyện võ, khiến chú không vui.”
Nói xong, Vân Hy liền đứng dậy, chạy đến chỗ cây trường thương bị Khương Hằng đá văng đi khi nãy. Cô vừa cúi người nhặt lên, chợt nghe từ phía xa xa văng vẳng tiếng chân chạy, tựa như có người đang gấp rút chạy lại gần, trong tiếng bước chân còn thoáng nghe thấy tiếng đao kiếm va chạm với nhau. Nghe thấy tiếng động, Khương Hằng chau mày, vội vàng thổi tắt chiếc đèn lồng dưới chân, rồi kéo Vân Hy, hai người nấp xuống dưới con rạch trên cánh đồng, nín thở chú ý, nhìn về phía có tiếng bước chân vọng lại.
Không lâu sau, chỉ thấy một hán tử toàn thân đẫm máu chạy nhanh tới nơi. Ở sau lưng y, ngoài một toán bổ khoái(*) giơ cao đuốc lửa còn có sáu nhân sĩ giang hồ mình mặc áo lam. Bọn họ ai nấy đều cầm trường kiếm, tóc búi cao trên đầu, ăn mặc rất giống nhau. Vân Hy đưa mắt nhìn, chỉ thấy bộ dạng những kiếm khách ấy có vẻ như đã từng gặp ở đâu rồi.
(*) Tức sai dịch chịu trách nhiệm truy bắt tội phạm, trộm cắp trong các nha phủ xưa. Tương tự như vai trò an ninh, cảnh sát hiện nay. Người chỉ huy, đứng đầu trong đội thì gọi là bổ đầu.
Hán tử chạy đầu tiên bước chân tập tễnh, một tay giữ lấy ngực, một tay cầm kiếm chạy thục mạng, cho thấy đã bị thương nặng. Trông thấy y loạng choạng sắp ngã, sáu kiếm khách giang hồ đang truy đuổi cùng nhau đề khí tung mình nhảy lên, vọt quá đội bổ khoái, truy sát đến bên hán tử bị thương, bao vây chặt y vào giữa.
“Phản đồ Bách Lý Hình, còn không mau chịu trói!”
Kiếm khách dẫn đầu quát to một tiếng, tung mình vọt lên không trung, hạ xuống trước mặt hán tử bị thương, rồi xoay người đưa mũi kiếm nhắm thẳng về phía đối phương.
Thấy không thể lui được nữa, hán tử toàn thân đẫm máu ấy dừng chân, nhưng vẫn ngẩng đầu cười lớn, âm vang rung trời. “Ha ha ha! Phản đồ ư? Các ngươi nghe theo mệnh lệnh của tên tiểu súc sinh ấy, bội tín phụ nghĩa, bỏ món nợ máu hàng trăm năm của Vân Tiêu cổ lâu ta không thèm nhìn tới, các ngươi nói xem, rốt cuộc kẻ nào mới là phản đồ?”
Nghe thấy bốn chữ “Vân Tiêu cổ lâu”, Vân Hy chợt nhớ ra, kiểu cách ăn mặc của mấy kẻ giang hồ kia giống hệt người tên là A Chước mà mình gặp ở y quán ngày trước, chả trách mà thấy quen như vậy. Còn cái tên Bách Lý Hình này cô cũng nghe qua rồi, đó chính là kẻ đã mua chuộc yêu nữ của Thất Phách đường, muốn hãm hại Hạ Thiên Thu hồi ấy.
Đám đệ tử của Vân Tiêu cổ lâu nghe xong tức giận nói: “Không ngờ còn dám nhiều lời nói bừa! Khi ấy ngươi kháng mệnh không theo, nếu chẳng phải thiếu chủ nhân từ khoan hậu thì đã trị tội ngươi từ lâu rồi, đâu có dung tha cho ngươi hỗn xược một lần nữa! Ai ngờ ngươi không biết hối hận, cấu kết với Thương Thiên, ý đồ phản nghịch. Lần này, dù thiếu chủ không trị tội ngươi thì Thái Bình minh(*) cũng không tha cho ngươi!”
(*) Minh ở đây tức là liên minh.
“Thái Bình minh?” Bách Lý Hình cười nhạt nói. “Các ngươi đã cam tâm làm lũ ưng khuyển cho triều đình, thì chớ có tự xưng là đệ tử của Vân Tiêu cổ lâu nữa! Sư tổ ở trên, không có những tên đồ đệ nhu nhược như các ngươi!”
Sáu tên môn nhân lập tức giơ kiếm, tạo thành Lục Hợp kiếm trận. Chỉ thấy kẻ dẫn đầu bước một bước hư bộ, vừa chạm xuống đất trường kiếm chợt kêu ngân vang dưới ánh trăng, một người một kiếm, liền hiện ra ảo ảnh khắp mười hướng, vun vút đâm về phía Bách Lý Hình. Với tu vi của Vân Hy thì không thể nhìn rõ đường kiếm của tên đệ tử ấy. Nhưng Bách Lý Hình vẫn đưa kiếm hồi kích, nhắm thẳng vào một đạo hư ảnh, lập tức hai cây kiếm liền va mạnh vào nhau, chớp mắt ống tay áo của Bách Lý Hình lóe lên ánh ngân quang chói lòa, một cây nỏ cứng lộ ra khỏi tay áo, một mũi đoản tiễn xé gió bay đi.
Ánh kiếm thôi, khí kiếm dừng. Kiếm quang nhanh vun vút như ảo ảnh khắp mười phương, nháy mắt tan hết. Vân Hy nhìn kỹ, chỉ thấy trước trán tên môn nhân ấy cắm ngập một mũi đoản tiễn. Chốc lát sau, kẻ ấy không còn động tĩnh gì nữa, ngã về phía sau.
“Sư huynh!” Năm tên môn nhân còn lại vội kêu lên. Thấy sư huynh mất mạng trong khoảnh khắc, bọn chúng không còn dám chậm trễ nữa, kéo nhau xông lên, cùng nhằm Bách Lý Hình đánh tới.
Bách Lý Hình tuy có nỏ cứng trong tay, nhưng khi trước đã bị trọng thương, bây giờ lại một chọi năm, đâu còn có thể chống giữ nổi. Ông ta lập tức bị trúng một kiếm, thân mình loạng choạng, dường như ngã sang một bên, nhưng thực ra là ông ta hơi động ngón tay cái, ấn vào lẫy nỏ, lại một mũi đoản tiễn nữa nhắm vào đệ tử đứng đầu mạn bắc của Vân Tiêu cổ lâu!
Mũi tên sắp cắm ngập vào ngực tên đệ tử ấy, bỗng nghe choang một tiếng, mũi tên đã bị một cây trường đao chặn lại. Chỉ thấy một kẻ mặc quân trang thu trường đao về, quát to một tiếng: “Lui!”
Năm môn nhân của Vân Tiêu cổ lâu nhất tề lui lại phía sau. Bách Lý Hình nhịp thở đã loạn, nhân cơ hội được tạm nghỉ, vội tìm một hướng cướp đường chạy. Nhưng đúng lúc ấy, chỉ thấy tên quan binh kia giơ cao tay phải, trầm giọng nói: “Bắn tên!”
Lập tức, tên bay rào rào, nhất tề nhắm về phía Bách Lý Hình!
Cùng tiếng kêu kinh hãi, một bóng người lao nhanh tới, xô Khương Hằng ra.
Năm ngón tay túm chặt yết hầu đã bung ra, Tôn Bồi Nguyên ngã vật xuống đất, vừa thở hồng hộc vừa bật ho kịch liệt. Ông ta mở to đôi mắt yếu ớt, liền nhìn thấy thiếu nữa thanh mảnh xinh xắn kia đang ôm chặt lấy tay trái Khương Hằng, ngăn không cho y hành động.
“Hằng ca, muội… muội đã nghe thấy cả rồi…”
Thiếu nữ không dám nhìn về phía chú câm của mình, chỉ một mực ôm chặt lấy cánh tay Khương Hằng, không để cho y giết người tiếp nữa. Trong đôi mắt đỏ mọng của cô, những ngấn nước đã long lanh.
“Vân Hy, buông tay ra!”
Khương Hằng lạnh lùng nói. Môi dưới của y đã bị cắn nát, một dòng máu đỏ tươi ngoằn ngoèo chảy ra.
“Không, muội không buông!”
Vân Hy lắc đầu thật mạnh, cô giữ chặt cánh tay Khương Hằng trong lòng mình. Với ánh mắt bị nhòa đi vì nước mắt, cô nhìn thấy khuôn mặt trắng nhợt của Khương Hằng, nhìn thấy khóe miệng méo xệch vì cố kìm nén của Khương Hằng, nước mắt cự tự nhiên trào ra, lăn xuống hai bên má, rơi xuống lã chã, làm ấm óng cánh tay trái của Khương Hằng. Giọng cô run run nói: “Hằng ca, không được… muội không muốn phải hối hận…”
Đã tám năm trôi qua, cô vẫn nhớ rõ ngày đông tuyết rơi ấy, chính chú câm đã sắc một bát thuốc nóng hổi cho cô, bón từng thìa từng thìa một cho cô uống. Trong buổi đông hàn tuyết dày bá thước, chính chú câm đã chạy một mạch ra ngoài đến toát mồ hôi, rồi thở hồng hộc trở lại nhà, chỉ để mang về cho cô một cái kẹo hồ lô. Khi ấy tuy còn rất nhỏ, nhưng đến bây giờ, Vân Hy vẫn còn nhớ như in vị ngọt ngào nơi đầu lưỡi.
Mấy năm nay, chính chú câm đã dạy cô đọc sách, dạy cô đạo lí làm người. Chính chú câm đã cầm bàn tay nhỏ của cô, dạy cô viết chữ. Ông dạy cô làm đèn, dạy cô vẽ đèn vẽ quạt. Áo quần giày dép của cô mặc, đều là do chú câm tự tay may cho…
Tuy chú câm không nói được, Hằng ca cũng không hay nói, nhưng trong ngôi nhà nhỏ ấy, đã chứa đứng biết bao tiếng nói cười vui vẻ… Cô không thể nào hiểu nổi, vì sao chú câm - người từng bế cô đi xem hoa đăng ấy, lại hóa ra là Tôn Bồi Nguyên - kẻ bức tử cha cô, hại Tùy gia thương phải chịu cảnh diệt môn…
Đầu óc rối bời, thù hận và kính yêu hòa lẫn vào nhau thành một khối trong lòng, bao nhiêu cảm giác như cuộn lên đầy trời, tưởng chừng khiến tim cô muốn nổ tung! Cô hận Tôn Bồi Nguyên, nhưng cô cũng biết mình nhất định không thể nhìn chú câm bị giết! Cô sẽ ân hận, Hằng ca nhất định cũng sẽ ân hận…
Nói không được, khuyên chẳng xong, thiếu nữ nhất thời im lặng, chỉ có nước mắt tuôn tròa, rơi xuống cánh tay Khương Hằng và rơi xuống bên chân Tôn Bồi Nguyên, hóa thành những vệt tròn màu xám tro trên nền đất. Cô không dám nhìn sang, vì cô không biết, người trước mắt mình kia, là kẻ thù giết cha không đội trời chung của cô, hay là bậc từ phụ mà cô hằng yêu kính…
Cuối cùng, cô chỉ có thể đưa mắt nhìn Khương Hằng, run run giọng cầu xin: “Hằng ca…Chúng ta đi thôi, có được không?...Chúng ta rời khỏi nơi này, có được không?”
Cảm thấy hai tay thiếu nữ bên cạnh mình đang không ngớt run rẩy, Khương Hằng nhắm mắt lại, năm ngón tay trên bàn tay trái nắm chặt, rồi lại từ từ buông ra. Lòng bàn tay bị chính y bấu rách, máu tươi từ từ lăn ra đầu ngón tay, rơi lên những giọt nước mắt của Vân Hy, in thành những vệt máu hồng tươi dưới đất. Y lặng im suốt hồi lâu, cuối cùng vất lời, chậm rãi đáp một câu: “Được!”
Thế là, họ lại trở thành những đứa trẻ mồ côi, chỉ còn lại hai người với nhau. Không nhìn người kia nữa, Khương Hằng và Vân Hy dìu đỡ nhau, bước ra khỏi con ngõ tối chứa đầy bí mật. Hệt như những ngày đêm cơ hàn khổ sở tám năm về trước, hai người dựa vào nhau mà đi trong chốn muôn dặm hồng trần, hoang mang tìm kiếm con đường của họ.
Mặt trăng lơ lửng giữa trời, soi xuống dòng sông cuồn cuộn, sóng lấp lánh lăn tăn. Ánh nước lịa phản chiếu lên vòm gầm cầu, soi những viên gạch đá xanh mờ mờ tỏ tỏ, chập chập chờn chờn.
Dưới cầu, hai bóng ngươi đang ngồi vai kề vai nhau. Kẻ cao hơn, lưng đeo cây thương bạc, sống lưng cũng tự như cán thương, vươn lên thẳng tắp. kẻ thấp hơn, hai tay ôm đầu gối, lặng lẽ nhìn bóng trăng dưới nước, nhìn nó theo dòng nước chảy, bị sóng đánh khi tròn khi méo.
Nơi đây đã cách thành Phàn Dương mấy chục dặm. Sau khi phát hiện chú câm chính là Tôn Bồi Nguyên, hai người Khương Hằng và Vân Hy chỉ quay về nhà lấy cây thương bạc, rồi lập tức rời khỏi Phàn Dương, không nhìn lại nơi mà họ đã ở suốt tám năm đó nữa. Sau khi ra khỏi thành, hai người không nói một lời, lặng lẽ bước đi, nhưng đều hoang mang không biết nên đi đâu về đâu. Tận đến khi mặt trời đã lặn, Khương Hằng xót thương Vân Hy, mới quyết định trước tiên hãy qua đêm dưới gầm cầu này đã, ngày mai sẽ lại đi tiếp.
Tiếng côn trùng rả tích, càng khiến màn đêm thêm u tĩnh. Lúc nảy đã là giờ Sửu, nhưng hai người vẫn không hề thấy buồn ngủ. Thấy Vân Hy trân trân nhìn dòng nước, Khương Hằng thở nhẹ một tiếng, đưa bàn tay duy nhất vỗ vỗ lên vai cô, nhẹ nhàng ôm cô vào lòng, trầm giọng bảo: “Đừng nghĩ ngợi nữa, ngủ đi!”
Trong đầu óc có muôn vàn mối suy tư rối bời, tất ả đều liên quan đến người đã cùng sống với họ tám năm qua. Nhưng Vân Hy biết, bất luận là “chú câm” hay là “Tôn Bồi Nguyên”, đó cũng đều là quá khứ không thể nhắc lại giữa hai người bọn họ. Cô dựa vào vai Khương Hằng, buồn bã hỏi: “Hằng ca, sắp tới chúng ta sẽ đi đâu?”
“Trời đất rộng thế này, lẽ nào lại không có chốn dung thân cho ta và muội?” Khương Hằng thản nhiên đáp.
“Cũng phải!” Vân Hy khẽ đáp, rồi lại nghĩ đến điều gì, ngước mắt nhìn Khương Hằng. “Nhưng Hằng ca đã giết tên quan sai kia, quan phủ và Thái Bình minh ắt sẽ truy cứu chuyện này, nếu chúng tra ra huynh… Hay là chúng ta chyaj đến theo Thương Thiên đi được không?”
Nghe thấy Vân Hy tính toán cho mình, Khương Hằng mỉm cười, gật đầu nói: “Cũng là một cách. Nhưng bất kể thế nào, đó cũng là chuyện của ngày mai, giờ không còn sớm nữa, muội hãy ngủ đi.”
Nói rồi, Lhuowng Hằng đưa bàn tay duy nhất lên che hai mắt Vân Hy, bảo cô mau ngủ.
Một làn hơi ấm truyền tới trước mắt, bên tai là tiếng tim đập thật mạnh, hết như khi còn nhỏ, trong những ngày tháng không biết đi đâu về đâu ấy, đều chỉ có bàn tay này làm bạn với cô, chưa bao giờ buong lơi. Trong lòng trào lên cảm giác ấm áp, Vân Hy dần thấy an lòng, tạm thời gác lại chuyện cũ vẫn đang canh cánh, từ từ chìm vào giấc mộng.
Cô không hề biết, Khương Hăng fkyf thực vẫn luôn chăm chú nhìn mình, ánh mắt không hề có chút bình yên nào. Người thanh niên mang trong mình mối thâm thù huyết hải, trong lòng đã sớm có quyết định. Tận đến khi Vân Hy ngủ say, đều đều hơi thở, y mới chậm rãi đẩy cô ra khỏi lòng mình, cẩn thận cho cô dựa sát vào tường đá xanh dưới cầu.
Rồi, Khương Hằng một tay cầm thương, thi triển công phu, đề khí chạy đi.
Hơn nửa canh giờ sau, người thanh niên đã trở lại thành Phàn Dương. Đứng trước bức tường thành cao ngất, y tung mình nhảy vọt lên, chống một thương vào tường thành, mượn đà bật lên, sau hai bước nhảy đã vượt qua tường vào được bên trong. Thân hình y tựa như ma quỷ, chạy nhanh vun vút không nghỉ trong khi toàn thành đang chìm trong giấc ngủ say. Đến khi bước vào sân ngôi nhà quen thuộc, Khương Hằng mới đi chậm lại, lạnh lùng nhìn về phía căn phòng nhỏ còn sáng ánh đèn.
Gió đêm làm hoa lê lay động, rụng lả tả như mưa.
Ánh đèn bập bùng, soi bóng người trong phòng lên khung cửa sổ dám giấy. Chỉ thấy tay ông ta đang ôm vò rượu, ngất ngưởng đi lại trong phòng, thỉnh thoảng lại xô đổ đồ vật kêu lên loảng xoảng. Đúng lúc ấy, ngọn đèn bỗng nhiên cụt tắt, căn phòng chìm trong bóng tối. Người say rượu nửa đi nửa bò, ra trước phóng, mở toang cánh cửa gỗ. Ánh trăng lờ mờ, êm dịu tuôn đầy vào phòng.
Trong sân, dưới ánh trăng sáng, trong hoa lê rơi rụng, một bóng người cao gầy đang đứng.
Văn sĩ chưa đeo mặt nạ, trông thấy vậy, bèn bật tiếng cười nhẹ. Nhưng nụ cười ấy đã co kéo những vệt sẹo trên khuôn mặt ông ta, càng cười lại càng lộ vẻ dữ tợn. “Ngươi… lại quay về rồi…”
Tôn Bồi Nguyên nấc say một tiếng, hai mắt mơ hồ nhìn người thanh niên trước mặt mình, muốn tìm bóng dáng thuở ấu thơ của đối phương trong thân hình cao gầy ấy, nhưng ngọn trường thương sáng quắc kia lại phản chiếu ánh trăng lạnh ngắt, rọi vào mắt ông ta.
“Oán thù tất báo, ân tình tất trả. Ông còn tâm nguyện gì chưa hoàn thành, khi ông chết rồi, ta sẽ hoàn thành giúp.”
Chàng trai lạnh lùng nói. Hai mắt y, cũng giống như ngọn trường thương trong tay, sắc lẹm lạnh căm.
“Ha…ha…ha…” Tôn Bồi Nguyên cười như say mấy tiếng, rồi lảm nhảm nói: “Ta đã là kẻ chết trong lòng từ lâu rồi, đâu còn có tâm nguyện gì nữa… Nếu thực sự muốn gì, thì ta hy vọng người và Vân Hy luôn mạnh khỏe, không bệnh tật hoạn nạn…”
“Câm miệng!”
Khương Hằng quát to, cắt ngang lời của đối phương, cây trường thương trong tay chỉ thẳng vào mặt kẻ đối diện. Người thân thuộc sớm hôm đối mặt với nahu ngần ấy năm, giờ đây đã thành kẻ thù chưa chết chưa thôi, y oán hận nói: “Ông nuôi dạy ta và Vân Hy tám năm, mối ân tình ấy, ta không bao giờ quên. Nhưng ông dẫn Triệu Hãn cùng quan binh lên núi, ép Tùy gia thương ta phải ký Thái Bình Ước, bức tử cha mẹ ta, sát hại Tùy gia thương ta trên dưới cả thảy ba mươi bảy mạng người, món nợ nhân mạng ấy, ta không thể không tính toán!”
Tôn Bồi Nguyên đã không còn đứng vững, ngồi bệt xuống trước hiên. Sắc mặt ông ta vẫn bình tĩnh, không còn vẻ kinh hãi như lúc ban ngày nữa, chỉ ngơ ngẩn nhìn Khương Hằng và cây trường thương trong tay y. Nhìn hồi lâu, ông ta tựa như không nghe thấy câu đòi mạng ấy, chỉ nói nhỏ, giọng như đã quá say: “A Hằng, chớ cho Vân Hy học võ. Học võ, nếu chẳng hại người, thì cũng hại mình… Nó còn nhỏ, còn nhiều con đường để đi, ngươi chớ dẫn nó vào con đường ấy…”
Đầu ngón tay hơi run, túm tua đỏ đầu mũi thương bay phất phơ trong gió đêm, Khương Hằng oán hận trừng trừng nhìn kẻ thù trước mặt, lạnh lùng nói: “Đã chết đến nơi rồi, ông không có tư cách nhắc đến tên con bé.”
Tôn Bồi Nguyên khẽ than một tiếng, hơi rượu lan ra trong gió đêm xuân, cùng với những cánh hoa lê lấm tấm theo gió bay đi mất. Ông ta ngẩng đầu, nhìn kỹ một lần cuối cùng gương mặt của chàng trai trẻ, rồi từ từ nhắm mắt lại.
Tay trái Khương Hằng hơi run, y cắn chặt môi dưới, đứng im hồi lâu, cuối cùng dứt khoát đâm mạnh mũi trường thương trong tay!
Máu tươi vọt ra bắn lên má người trai trẻ. Nét mặt tái nhợt, khuôn mặt cương nghị, thần sắc nặng nề, máu tươi đỏ sậm, dưới ánh trăng soi, đều như được phủ một lớp sương bạc âm u lạnh lẽo, khiến khuôn mặt y tựa như ma quỷ.
Mũi thương xuyên qua cổ họng, đâm ra sau gáy Tôn Bồi Nguyên. Túm tua vốn màu đỏ tươi, giờ được nhuộm đãm máu, tí tách nhỏ từng giọt, từ những sợi tua xuống đất.
Đôi tay của văn sĩ yếu ớt buông thõng, hũ rượu vốn đang được ông ta ôm chặt rơi xuống đất, dòng rượu lặng lẽ chảy dài, hòa vết máu nhạt đi.
Khương Hằng lặng lẽ rút cây thương về, lau máu dính trên đầu mũi thương vào vạt áo của kẻ bị giết, rồi lại đeo nó lên lưng.
Rồi chàng trai bước đến giữa nhà, lấy đóm châm một mồi lửa, rồi ném xuống bên chân Tôn Bồi Nguyên.
Ngọn lửa gặp rượu mạnh cháy bùng lên, trong khoảnh khắc đã bén vào áo quần của lão thư sinh. Chỉ thấy trong ánh lửa cháy bùng bùng, người ấy đổ nghiêng xuống bên cửa, hai mắt khép lại, khóe môi vẫn nở nụ cười như có như không. Nếu không có vết thương chí mạng xuyên qua cổ, thì nhìn qua, tưởng như ông ta đang ngủ say.
Không lâu sau, lưỡi lửa đã nuốt trọn ngườ ấy. Trong lửa cháy ngùn ngụt, những cánh hoa lê rụng đầy trời đều ánh lên sắc hồng của lửa. Mỗi chiếc bàn, cái ghế, mỗi viên gạch, mảnh ngói đều là những vật ghi dấu bao ký ức, nhưng Khương Hằng chỉ lạnh lùng nhìn tất thảy chôn mình trong biển lửa.
Tro than bay lên trời, như muôn đốm sao. Trang giấy chép kinh Phật áy cũng bị gió đêm thổi lên, rồi dần bị lưỡi lửa liếm qua từng nét chữ:
“Xưa ta đã tạo bao ác nghiệp,
Đều vì vô thủy, tham sân si.
Từ thân, miệng, ý phát sinh ra,
Hết thảy ta nay đều sám hối.”
Đến chữ cuối cùng, trang giấy đã hóa thành than trong lửa rực, bị gió đêm thổi bay tan tác, hóa thành từng hạt bụi phiêu diêu.
Trong biển lửa cháy, Khương Hằng đeo thương đi ra, chậm rãi rời khỏi căn nhà bị lửa thiêu rụi, rời khỏi giấc mộng quá vãng không thể nào tìm lại được.