Trăng Sáng Cố Hương
Chương 2 : Ân cừu
Ngày đăng: 22:41 21/04/20
Mặt trời mọc, mặt trăng tà, ánh nắng mai, hơi sương nhẹ, những giọt giá băng treo trên góc mái lầu thành, phát sáng long lanh, nhưng lại như những mũi dùi lạnh buốt, nhỏ những giọt lệ tí tách. Quân lính canh phòng đêm vừa ngáp dài vừa đẩy cánh cổng với bản lề to nặng. Chỉ nghe một tiếng trầm đục vang lên, cánh cổng thành tán đinh đồng vừa dày vừa nặng được mở ra, để lộ bóng dáng hai đứa bé một lớn, một nhỏ.
Ánh nắng mai chiếu vào làm bóng chúng đổ thật dài trên mặt đất. Chỉ thấy đứa nhỏ là một cô bé ăn mặc mỏng manh, đang dùng vóc dáng nhỏ bé của mình vừa vác vừa kéo một thiếu niên toàn thân đầy máu. Còn thiếu niên thì dường như đã ngất đi nhiều giờ, không động đậy gì cả. Đứa bé gái bước những bước ngắn, cố hết sức kéo lê thiếu niên có lẽ phải cao gấp đôi mình, để lại trên tuyết một vệt hằn sâu.
Cảnh tượng ấy khiến người ta thấy vừa kinh ngạc vừa buồn cười. Người giữ cổng thành tròn mắt há miệng dõi theo đứa bé còn chưa lớn ấy, nhìn nó khó nhọc tiến về phía trước, vừa đi vừa nói chuyện, cũng không biết là nói cho cậu thiếu niên đang ngất kia nghe, hay là nói để cổ vũ cho chính mình: “Cố lên! Sắp vào đến trong thành rồi, sắp gặp được đại phu rồi! Hằng ca, huynh chớ ngủ, sắp gặp được đại phu rồi!”
Giọng trẻ con mềm mại, lặp đi lặp lại mãi câu “đến rồi, đến rồi”. Hơi thở nóng hổi của cô bé phả ra bên khóe miệng, trong buổi sáng mùa đông, chớp mắt tiêu tan không còn thấy đâu nữa.
Người canh cửa nhìn kỹ, thấy thiếu niên buông thõng một tay, còn chỗ đáng ra là tay phải thì ngắn cũn, chỉ còn lại một cuộn vải thấm máu được buộc chặt. Người canh cửa kinh hãi, hoảng hốt chạy tới, hỏi: “Tiểu cô nương, có cần ta giúp mời đại phu không?”
Cô bé ngước mắt lên nhìn, thấy người ấy mặc quân trang, bên lưng lại đeo đại đao sáng loáng, thế là đôi mắt to đen láy vụt sa sầm xuống. Cô tựa như không nghe thấy câu hỏi của người lính, vẫn kiên trì dứt khoát, đỡ thiếu niên trên lưng bước từng bước một vào trong cửa thành.
Người lính giữ cửa tuy có lòng muốn tương trợ, nhưng quân lệnh như sơn, sao có thể bỏ nhiệm vụ được. Trong buổi sáng mới vừa gà gáy ấy, y mang một mối nghi hoặc dõi theo bóng đứa nhỏ, nhìn nó đi dần từng bước vào trong thành, cuối cùng biến mất khỏi tầm nhìn.
Đó đã là ngày thứ ba họ rời khỏi Kỳ Sơn. Ban đầu, Khương Hằng còn cố gắng đứng thẳng, dắt theo Vân Hy, đi xuống dưới núi. Nhưng chưa cần nói đến đường núi khó đi, giờ đây tuyết phủ kín núi thế này, đến một quả rừng nhét tạm vào bụng cũng không có. Hai đứa nhỏ vừa khát vừa đói, cứ tiện tay bốc một vốc tuyết bên đường nhét bừa vào miệng. Đáng thương cho đôi tay nhỏ bé của Vân Hy, cóng buốt đến đỏ tấy.
Trong khi họ lấy tuyết ăn, ngẫu nhiên có mấy con sẻ nhỏ bay qua rừng, Khương Hằng lấy thương đâm, cùng chia nhau ăn với Vân Hy. Cầm cự như vậy được hai ngày, thiếu niên bị sốt cao không ngớt, cuối cùng không cự nổi cơn bệnh. Từ khi Khương Hằng quỵ ngã, đôi vai nhỏ bé của Vân Hy liền trở thành chỗ dựa duy nhất của thiếu niên. Cô bé mới chỉ tám tuổi ấy đã cố gắng vừa đỡ vừa kéo thiếu niên cao lớn gấp đôi mình, đi một ngày một đêm, chưa từng dừng nghỉ một chút nào.
Những ngày ở trên Kỳ Sơn, Vân Hy không thể học võ, đành theo cha học thuộc mấy cuốn Tam tự kinh, Bách gia tính(*), cho nên tuy cô còn nhỏ tuổi, nhưng đã biết không ít chữ Hán. Từ xa trông thấy trên lá cờ phướn có một chữ “Y” lớn, Vân Hy lộ rõ vẻ vui mừng, bước đi vội hơn, khó khăn lắm mới kéo được Khương Hằng đến chỗ đó. Cô để thiếu niên ngồi dựa vào tường, rồi đưa cánh tay nhỏ bé lên, cố sức đập cửa gọi: “Mở cửa! Đại phu, mở cửa!”
(*) Những cuốn sách vỡ lòng cho trẻ con Trung Quốc nhận mặt chữ thời cổ.
Gọi liền mấy câu, phía trong cuối cùng cũng có động tĩnh. Chỉ thấy khe cửa hé ra một chút, để lộ khuôn mặt vẫn còn ngái ngủ.
Đó là một đại phu trung niên, ông ta mắt nhắm mắt mở, ghé ra ngoài cửa nhìn hồi lâu, nhưng chẳng thấy người nào cả. Ông ta vừa lẩm bẩm một câu: “Ma trêu à?”, thì nghe thấy một giọng trẻ nhỏ yếu ớt: “Đại phu, nhìn xuống dưới này, ở đây ạ!”
Đại phu nhìn xuống chỗ có tiếng nói, chỉ thấy một cô bé thấp nhỏ, đang lo lắng chỉ vào thiếu niên bên tường, sốt ruột nói: “Đại phu, xin ngài hãy cứu Hằng ca!”
Trông thấy bệnh tình của thiếu niên đang hôn mê vì mất cánh tay, đại phu lập tức tỉnh hẳn ngủ. Ông vội vàng mở cửa, chạy đến bên cạnh thiếu niên, bế ngang người cậu vào trong y quán. Vân Hy vội vã theo sau, đôi mắt mở to, nhìn đại phu bận rộn rối rít. Đại phu để Khương Hằng nằm lên phản gỗ, rồi lấy bộ kim châm bạc châm vào huyệt đạo trên trán cậu, lại quay người lấy mấy vị thuốc bỏ vào ấm thuốc nổi lửa đun.
Lát sau trong hương thuốc đã bốc lên, Khương Hằng dần dần tỉnh lại. Cậu còn chưa mở mắt, trước tiên đã co cánh tay trái còn lại về. Khi phát hiện trong bàn tay mình không có gì, cậu bỗng nhiên mở bừng mắt, gọi to: “Vân Hy”, rồi vùng ngồi dậy.
“Muội ở đây!” Cô bé lập tức chạy tới, đôi tay bé nhỏ ôm chặt lấy cánh tay còn lại của Khương Hằng. Thấy cô vẫn bình an vô sự, Khương Hằng mới an tâm, khi ấy khí lực đã cạn, cậu lại nằm vật xuống phản.
“Ồ, tiểu tử ngươi đúng là lớn mạng đấy.” Vị đại phu cười nói, lại định châm thêm một mũi ngân châm vào trán Khương Hằng.
“Hãy khoan!” Khương Hằng cất tiếng ngăn lại, đôi mắt phượng nhỏ dài của cậu chằm chằm nhìn vị đại phu, giọng nói vẫn còn yếu ớt. “Trước tiên xin đa tạ đại phu đã ra tay cứu giúp, nhưng thực không dám giấu, trên người chúng tôi không có một đồng, sẽ không trả nổi tiền chạy chữa, xin được từ biệt đại phu ở đây vậy.”
Nói rồi, Khương Hằng liền chống tay trái, cố gắng nâng mình ngồi dậy, định nhảy xuống khỏi giường bệnh. Nhưng động tác của cậu mới làm được một nửa thì đã bị đại phu giữ chặt lấy vai, ấn nằm xuống phản. Vị đại phu trung niên nở nụ cười nói: “Tiểu tử ngươi nghe ta nói đây, cái tính khí vớ vẩn ấy của ngươi còn lớn hơn cái mạng ngươi đấy nhỉ!”
Vị đại phu tuy không biết chút võ công nào, nhưng đối phó với gã thiếu niên đang đau yếu vì bị trọng thương này cũng dễ như bỡn. Tuy Khương Hằng không muốn mang nợ ân tình, nhưng lúc này đừng nói đến chuyện phản kháng, ngay cả việc di chết một con kiến cậu cũng không làm nổi. Cậu chỉ có thể mở to mắt nhìn vị đại phu tiếp tục cầm những mũi kim châm bạc châm vào mấy nơi huyệt đạo trên người cậu, rồi lại mang khăn bông và nước nóng đến, lau sạch cánh tay tàn phế của cậu, đắp thuốc băng lại.
”Chúng ta học nghề y...” Vừa băng vết thương cho Khương Hằng, đại phu vừa vui vẻ nói. “...Tuy cũng cần phải kiếm miếng cơm ăn, nhưng lời giáo huấn cứu người giúp đời của sư tổ Thần Nông cũng không dám quên. Tiểu tử ngươi may mắn đấy, gặp được ta rồi, ta tất sẽ không trơ mắt nhìn ngươi chết. Chứ không thì ta còn mở y quán làm gì, mở luôn nghĩa địa cho rồi.”
Vị đại phu giỏi nghề nhân hậu, vừa cười vừa nói những câu ấy. Khương Hằng nhìn ông, trầm giọng nói: “Khương Hằng tôi ân oán phân minh, ơn của đại phu hôm nay, ngày sau tất sẽ báo đáp.”
”Vậy thì để ngày sau hãy nói đi.” Trước lời hứa của thiếu niên, vị đại phu cũng không để tâm lắm. Ông băng xong vết thương cho cậu, vừa định quay người thu dọn chậu nước và cái khăn dính đầy máu thì thấy cô bé khi nãy tự giác bưng cái chậu đầy nước nóng, bước từng bước nhỏ, khệ nệ đi ra ngoài. Đại phu vừa định đứng dậy đỡ hộ thì đúng lúc ấy, ngoài cửa y quán bỗng có hai bóng người xông vào.
Hai người ấy chạy rất nhanh, tựa hồ không chú ý đến cô bé, xông thẳng vào trong nhà, liền đâm sầm vào Vân Hy.
Chậu nước nóng đầy chắc chắn sẽ giội hết lên người cô bé. Đúng khoảnh khắc ấy, bóng người chạy trước liền tung ra một cước cực nhanh, đá văng chậu nước nóng ra xa, đồng thời đưa hai tay kéo cô bé vào lòng, dùng đôi vai gầy của mình hứng lấy nước nóng che chắn cho Vân Hy.
”Choang” một tiếng, chậu nước rơi xuống đất, nước nóng giội xuống vai người đó, bốc lên những làn hơi trắng mờ trong buổi sớm đông hàn.
Cô bé còn nhỏ tuổi còn chưa kịp nhận ra rốt cuộc vừa xảy ra chuyện gì, chỉ thấy có một bóng đen cao lớn đột nhiên chồm lên che cho mình. Cô kinh ngạc tròn xoe mắt, nhìn lên cặp mắt hiền hậu màu hổ phách phía trên.
”Muội không sao chứ?”
Bên tai vang lên một giọng nói ấm áp. Đó là một thiếu niên ước chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mình mặc bộ trường sam màu thiên thanh, loáng thoáng hoa văn lá trúc mờ mờ được thêu bằng sợ trắng, tiếc rằng trên áo dính đầy những vệt máu loang lổ, trông khá lôi thôi. Cậu ta ngũ quan đẹp đẽ, lông mày dài nghiêng xéo tới bên mái tóc, hai mắt trong sáng có thần, màu mắt hơi nhạt hơn người bình thường, long lanh ấm áp như ngọc.
”Thiếu chủ!” Người theo sát phía sau là một đại hán mình beo thân cọp, thấy thiếu niên bị chậu nước nóng giội vào người thì kinh hãi kêu lên.
Nhưng buổi sáng hôm sau, Khương Hằng gọi thế nào cũng không thể làm Vân Hy dậy được. Cậu đưa bàn tay duy nhất sờ lên trán cô bé, chỉ thấy nóng đến kinh người. Cậu hốt hoảng ôm chặt Vân Hy, nửa bế nửa vác cô bé ra khỏi ngõ tối, nhưng lúc này trời còn chưa sáng rõ, đừng nói là người, đến một bóng ma trên đường cũng không thấy. Khương Hằng lo lắng toát mồ hôi, cuống cuồng chạy đến nơi có hiệu thuốc, vừa chạy ra khỏi đầu phố liền đâm sầm vào một người.
Khương Hằng lòng đang như lửa đốt, thậm chí còn không kịp nhìn xem đối phương như thế nào, chỉ chăm chăm bế lại Vân Hy lên. Đúng lúc cậu định cất bước chạy tiếp thì một bàn tay to lớn đã túm lấy vai cậu, từ sau lưng vang lên một tiếng “a” khản đặc.
Thiếu niên vừa lo lắng vừa tức giận, quay đầu lại vung một chưởng, định đẩy người ấy đi. Nhưng cậu vừa ngoảnh lại liền kinh ngạc lặng người. Chỉ thấy người đó mình mặc áo bông màu xám tro rất đỗi bình thường, nhưng trên mặt lại đeo một cái mặt nạ vừa đen vừa đỏ, trong buổi sớm mai không một bóng người này, quả thực vô cùng kinh dị.
Người đeo mặt nạ quỷ ấy quay về phía Khương Hằng chắp tay lại chỉ vào cô bé Vân Hy cậu đang ôm trong lòng, rồi ngồi xuống lấy ngón tay viết lên trên nền tuyết hai chữ: “Chẩn bệnh.”
Người kia diện mạo tuy kỳ quái, nhưng lúc này Khương Hằng không để ý đến điều gì khác ngoài việc chữa bệnh cho Vân Hy, nên vội đáp: “Ông biết xem bệnh ư?”
Người đeo mặt nạ quỷ kia lại kêu “a” lên một tiếng, lắc lắc đầu, rồi lại viết lên tuyết ba chữ: “Đi theo ta“. Cuối cùng ông ta bỗng đứng thẳng dậy, cởi cái áo ngoài của mình khoác lên vai Khương Hằng, trùm kín lấy cô bé trong lòng cậu, rồi lại giúp cậu cài áo cẩn thận.
Hơi ấm chớp mắt lan tỏa khắp bờ vai, ôm trọn lấy thân hình gầy gò của thiếu niên, sưởi ấm cho cậu và cả Vân Hy đang được ôm trong lòng. Khương Hằng trân trân nhìn cái mặt nạ quỷ khác thường ấy, thấy người đó chỉ còn lại một cái áo trong, đứng run cầm cập trong gió bốc. Bỗng nhiên, hai mắt cay sè, cậu vội quay người đi chỗ khác, cắn chặt môi dưới.
”Xin dẫn đường cho.” Một lúc sau, khi đã bình tĩnh rồi, Khương Hằng quay đầu nói, vẻ lạnh lùng đã quay trở lại.
Người kia không hề để bụng, khẽ gật đầu, lại “a” một tiếng, rồi dẫn thiếu niên đi đến một hiệu thuốc cách đó vài con phố.
Sau khi được đại phu xem bệnh, Vân Hy không có gì đáng ngại lắm, chỉ là vì lang thang mệt mỏi, lại bị phong hàn, cho nên mới sốt cao. Rồi đại phu viết một toa thuốc với mấy vị khu hàn bổ khí cho Vân Hy uống hằng ngày. Khương Hằng trước sau vẫn giữ chặt lấy Vân Hy không rời tay, vừa định hỏi đại phu xem có thể để cho cậu làm công trả nợ được không thì đã thấy người đeo mặt nạ quỷ bên cạnh móc ra một ít bạc vụn trong tay áo, đưa tới cho đại phu, lại cúi mình bái tạ. Rồi ông ta nhận lấy những gói thuốc đã được bọc gói cẩn thận từ tay người học việc trong tiệm thuốc, vỗ vỗ lên vai Khương Hằng, kêu “a” một tiếng, chỉ chỉ vào mình, rồi lại chỉ ra ngoài cửa.
Thấy người đó mang mặt nạ quỷ, nên tuy là giúp đỡ mình, nhưng Khương Hằng vẫn không khỏi có ý đề phòng. Có điều, dù cậu muốn từ chối thì cũng không thể không nghĩ đến tình hình của Vân Hy hiện giờ, cần phải tìm một nơi để Vân Hy nghỉ ngơi, sắc thuốc chữa bệnh. Suy nghĩ giây lát, Khương Hằng đi theo người ấy ra khỏi tiệm thuốc, nhưng lại chợt nói với ông ta: “Đa tạ ông đã giúp đỡ!” Hơi dừng lại một chút, Khương Hằng hạ giọng nói: “Nhưng ông với chúng tôi không hề quen biết, tại sao lại muốn giúp chúng tôi?”
Người ấy đứng lặng trên tuyết, để mặc gió lạnh thổi tung tà áo mỏng của mình. Ông ta không viết chữ, cũng không kêu “a” nữa, chỉ đứng im lìm ở đó, nhìn chằm chằm vào thiếu niên qua chiếc mặt nạ quỷ của mình.
Trong lòng Khương Hằng càng thêm nghi ngờ, cậu cảnh giác ôm chặt Vân Hy trong lòng, bước lui lại một bước, lạnh lùng nói: “Hãy bỏ mặt nạ của ông xuống.”
Người ấy trầm ngâm hồi lâu, rồi chậm rãi đưa tay lên, tháo chiếc mặt nạ xuống...
Đó là một khuôn mặt vô cùng đáng sợ, trên má, trên mũi, trên mắt, trên môi đều có những vết đao dữ tợn, chằng chịt ngang dọc, thê thảm đến độ không nỡ nhìn.
Đôi mắt thâm trầm ấy im lặng chăm chú nhìn Khương Hằng, rất lâu sau, ông ta đeo lại mặt nạ, ngồi xuống, lấy ngón tay viết lên tuyết: “Cô bé giống đứa con gái đã chết của ta.”
Hóa ra người này lo lắng cho Vân Hy. Lý do này thì có thể khiến Khương Hằng chấp nhận được. Lúc đầu cậu còn cho rằng đối phương có ý đồ xấu, nếu không chẳng có liên quan gì sao lại tỏ ra chu đáo như vậy? Hơn nữa, người này đeo mặt nạ quỷ, há chẳng phải là để che giấu thân phận ư? Nhưng, nhìn thấy khuôn mặt đáng sợ kia rồi, thiếu niên lại thấy không cần phải đề phòng nhiều nữa. Cậu gật gật đầu, nói một câu: “Xin đa tạ.” Sau đó đi theo người đeo mặt nạ quỷ ấy về chỗ ở của ông ta.
Nhà của người đeo mặt nạ quỷ này ở phía đông thành, là một tiểu viện không lớn lắm. Trong sân có một cây lê, dường như đã được trồng lâu năm, góc sân dựng một cây sào, phía trên treo đầy những chiếc đèn hoa đăng, cái đã làm xong, cái đang làm dở. Người đeo mặt nạ quỷ mở cửa phòng, vỗ vỗ lên chiếc phản gỗ, ra hiệu cho Khương Hằng để Vân Hy nằm xuống đó.Rồi ông ta vội vàng chạy vào bếp, lấy ra một chiếc ấm nổi lửa sắc thuốc cho Vân Hy.
Đun hơn một canh giờ, người đeo mặt nạ quỷ rót thuốc đã sắc xong vào bát, bọc trong khăn lau bưng lên bàn. Khương Hằng một tay đỡ Vân Hy đang hôn mê dậy, không còn tay nào để có thể bưng thuốc cho cô bé uống nữa. Thấy vậy, người đeo mặt nạ quỷ cầm bát thuốc lên, lấy một thìa sứ, múc một thìa thuốc, cẩn thận thổi cho nguội, rồi mới đưa thìa thuốc tới bên môi Vân Hy, cho cô uống từng ngụm nhỏ một.
Vân Hy bị thuốc đắng làm cho tỉnh lại, mở hờ đôi mắt, vừa vặn nhìn thấy cái mặt nạ quỷ ấy, thế là sợ hãi giật mình kêu to một tiếng. Nghe cô kêu to, người đeo mặt nạ quỷ run tay, khiến thìa thuốc rơi xuống đất. Thấy vẻ kinh hãi của cô bé, ông ta lóng ngóng đứng dậy, vội quay mặt đi xoay lưng lại về phía Vân Hy, không muốn khiến cô kinh hãi nữa. Thấy tình cảnh đó, Khương Hằng vội giải thích mấy câu, Vân Hy sau khi nghe nói chính người này đã dẫn cô tới chỗ đại phu thì tự thấy mình luống cuống, vội nhẹ giọng cảm tạ: “Thúc thúc mặt nạ quỷ, xin đa tạ thúc thúc.” Cô bé giải thích vẻ ngại ngùng: “Thúc thúc thứ lỗi, vừa rồi cháu bị bất ngờ, không phải cố ý chê ghét thúc thúc đâu, xin thúc thúc thứ lỗi...”
Nghe cô bé nói vậy, người đeo mặt nạ quỷ mới chậm rãi quay người lại. Ông ta “a” một tiếng, chỉ ra phía ngoài, rồi làm điệu bộ đóng cửa. Xong, cũng chẳng biết hai đứa bé có hiểu hay không, ông ta chạy thẳng ra ngoài cổng.
Ít lâu sau, khi Khương Hằng đang để Vân Hy ngồi tựa vào tường, vừa bưng bát thuốc cho cô uống xong thì người đeo mặt nạ quỷ đã lại đẩy cửa bước vào, miệng thở hổn hển, trong tay cầm một cái kẹo hồ lô. Ông ta bước nhanh đến bên giường, đưa cái kẹo hồ lô cho Vân Hy, kêu “a,a” lên mấy tiếng, tựa như giục cô mau ăn đi.
Vân Hy giật mình, ngây người cầm lấy cái kẹo hồ lô đỏ tươi. Người đeo mặt nạ quỷ ấy lại giục giã mãi, cô bé mới khẽ cắn một miếng.
Nhất thời vị ngọt lan tỏa khắp trong miệng, thấm vào tận gan ruột.
Bỗng nhiên, trong mắt cô bé chợt long lanh ngấn lệ, nước mắt trào ra, rơi xuống cái kẹo hồ lô.
Sau khi cha chết thảm, Tùy gia thương bị diệt môn, Hằng ca dẫn cô chạy trốn, rồi lại vì bảo vệ cô mà tự chặt đứt cánh tay mình, dù có phải trải qua rất nhiều gian khó, nhưng cô cũng chưa từng khóc một lần nào. Khi Hằng ca bệnh nặng hôn mê, phải cõng một thiếu niên cao lớn hơn mình, lết từng bước tới nơi thành trấn, cô cũng chưa từng khóc. Nhưng lúc này đây, trước mặt một người đeo mặt nạ quỷ chưa từng quen biết, một chiếc áo bông, một bát thuốc nóng, một cây kẹo hồ lô, lại khiến nước mắt cô bé lã chã tuôn rơi như những hạt châu.
Người đeo mặt nạ quỷ ấy tựa hồ sợ hãi giật mình, lóng ngóng đứng đó, rồi lại ngồi xuống trước mặt cô bé hay cười, kêu “a” lên một tiếng.
Vân Hy đưa tay quệt nước mắt, quay về phía người đeo mặt nạ quỷ nở một nụ cười thật tươi. “Đa tạ thúc thúc câm. Kẹo ngọt lắm!”
Người đeo mặt nạ quỷ ngồi yên không động đậy, cũng không thốt một lời. Khương Hằng ngồi ở bên giường, gọi nhỏ một tiếng “Vân Hy”, đưa cánh tay độc nhất còn lại về phía cô.
Trong nước mắt nhạt nhòa, Vân Hy trông thấy năm ngón tay Khương Hằng đưa tới, bèn ngoan ngoãn đặt bàn tay nhỏ đang cầm cây kẹo vào bàn tay thiếu niên, rồi lại nói với giọng nghẹn ngào: “Ngọt lắm!”