Truy Tìm Bức Tranh Thánh
Chương 10 :
Ngày đăng: 15:14 19/04/20
Người đàn ông đứng tuổi đứng vào cuối hàng người đang chờ taxi. Khó đoán được chiều cao của ông ta bởi vì trông ông ta quá còng và yếu ớt. Một chiếc áo khoác có lẽ còn cũ hơn cả tuổi người mặc áo dài gần chấm đất và những ngón tay chỉ thò ra khỏi tay áo có một tý, bàn tay ông ta đi đôi găng một ngón màu xám. Một tay nắm chặt lấy một chiếc cặp nhỏ bằng da, trên cặp có gắn hai chữ đầu tên E.R màu đen trông đã mòn vẹt, khiến người ta nghĩ rằng nó có từ thời ông nội ông ta.
Phải cuối xuống hoặc ghé rất sát mới có thể nhìn thấy mặt ông lão - Một khuôn mặt bị choán hết bởi một chiếc mũi to tướng có lẽ khiến cả Cyrano de Bergerac cũng phải tự hào. Đến lượt mình ông ta phải chậm chạp cúi gập người về phía trước để leo lên taxi. Ông chậm chạp đến nỗi người lái xe bắt đầu gõ ngón tay lên tay lái để nghe thấy vị hành khách của mình run run cất giọng nói là muốn đến ngân hàng Simon et Cie. Người lái xe cho xe chạy, không hỏi thêm gì nữa. Các lái xe taxi ở Thụy Sĩ biết rõ đường đến ngân hàng chẳng kém gì lái xe taxi ở London biết đường đến một nhà hát bất kỳ, hoặc lái xe taxi vàng ở New York biết tìm đến một quán rượu.
Khi đến nơi, ông lão phải lục lọi hồi lâu trong túi áo để tìm một đồng tiền để trả. Sau đó ông chậm chạp bước xuống hè đường và đứng yên ngước nhìn ngôi nhà làm bằng đá cẩm thạch. Ông vừa sắp sửa chạm vào cánh cửa thì một người mặc bộ đồng phục màu xanh dương lịch sự đã mở cửa.
Ông lão nói bằng tiếng Đức:
- Tôi đến để gặp....
Nhưng người gác cửa chỉ về phía một cô gái ngồi sau bàn tiếp tân. Ông lão lọ mọ đền gần cô và nhắc lại:
- Tôi cần gặp Herr Daumier. Tên tôi là Emmanuel Rosenbaum.
Cô gái hỏi:
- Ngài có hẹn trước không ạ?
- Tôi e rằng không.
Cô gái hỏi.
- Herr Daumier hiện đang ở trong phòng họp. Nhung tôi sẽ thử tìm một thành viên Hội đồng quản trị khác có thể gặp ngài.
Sau khi nói điện thoại bằng tiếng Đức cô nói:
- Ngài có thể đi thang máy lên tầng ba được không ạ?
Ngài Rosenbaum gật đầu vẻ miễn cưỡng nhưng vẫn làm theo lời chỉ dẫn. Khi ông bước ra cửa thang máy thì đã có một người phụ nữ trẻ đứng đón ở ngay cửa. Cô ta yêu cầu ông vui lòng chờ tại một nơi tạm gọi là phòng thay áo khoác có kê hai chiếc ghế bành. Hồi lâu sau mới có người đến gặp, ông lão không giấu nổi ngạc nhiên khi thấy anh ta quá trẻ.
Người thanh niên nói.
- Tôi là Welfhrerd Praeger, thành viên Hội đồng quản trị.
Ông Rosenbaum nói:
- Ngồi xuống đây, ngồi xuống đây, tôi không thể cứ nhìn mãi lên anh thế này được.
Anh thanh niên làm theo. Ông ta nói:
- Tôi là Emmanuel Rosenbaum. Hồi năm 1938 tôi có gửi ở đây một gói đồ, bây giờ tôi quay lại để nhận.
Vị thành viên Hội đồng quản trị trẻ tuổi nói, giọng đổi hẳn:
- Tất nhiên rồi. Ngài có giấy tờ tùy thân hoặc giấy tờ gì của ngân hàng không ạ?
- Ồ, có chứ.
Ông lão đưa hộ chiếu và một tờ biên nhận có vẻ đã được gập vào nhiều lần đến nỗi sắp nát ra từng mảnh.
Người thanh niên xem xét hai thứ giấy tờ thật cẩn thận. Ngay lập tức anh ta nhận ra tấm hộ chiếu của Israel. Mọi điều có vẻ ổn cả. Cả tờ biên nhận, mặc dầu rõ ràng là được viết từ hồi anh ta còn chưa đẻ nhưng cũng có vẻ hợp lê.
- Thưa ngài, tôi có thể ra ngoài một lát được không ạ?
Ông già đáp:
- Tất nhiên rồi. Sau khi đã chờ hai mươi tám năm, tôi nghĩ là mình có thể chờ thêm vài phút nữa cũng không sao.
Chàng thanh niên vừa ra được không lâu thì có một phụ nữ khác quay lại mời ông sang một phòng khác. Phòng này rộng hơn và đồ đạc khá lịch sự. Mấy phút sau vị thành viên Hội đồng quản trị trẻ tuổi quay lại cùng với một người nữa và giới thiệu đó là Herr Daumier.
Vị chủ tịch Hội đồng quản trị lịch sự nói:
- Tôi nghĩ chúng ta chưa gặp nhau bao giờ. Chắc là ngài đã giao dịch với cha tôi?
Ngài Rosenbaum nói:
- Ồ không, không, tôi giao dịch với ông nội ngài, ngài Helmut kia.
Ánh mắt Herr Daumier lộ rõ vẻ kính trọng.
Rosenbaum nói:
- Tôi chỉ gặp cha ngài mỗi một lần và rất lấy làm tiếc khi nghe tin ông mất quá sớm. - Ông ta nói thêm - Cha ngài bao giờ cũng rất ân cần. Ngài không đeo một bông hồng trên ve áo như ông ấy nhỉ?
- Dạ, không. Chỉ là một thói quen nhỏ của cha tôi thôi mà.
Rosenbaum cố cười phá lên nhưng chỉ phát ra một tiếng ho.
Herr Daumier lịch sự nói:
- Không rõ ngài có thêm một thứ giấy tờ xác nhận nhân thân nào ngoài hộ chiếu không ạ?
Emmanuel ngẩng đầu nhìn Herr Daumier vẻ mệt mỏi rồi xoay mặt chiếc đồng hồ đeo tay lên trên. Trong mặt đồng hồ có khắc hàng số 712910.
Herr Daumier nói, rõ ràng vô cùng kinh ngạc:
- Tôi xin lỗi. Nếu ngài vui lòng chờ thì tôi sẽ mang chiếc hộp của ngài lại đây. Ông lão gật đầu đồng ý. Hai người đàn ông đi ra, mặc ông già ngồi lại một mình. Mấy phút sau họ quay lại mang theo một cái hộp dẹt rộng khoảng bốn mươi phân vuông và đặt lên chiếc bàn kê giữa phòng. Herr Daumier mở ổ khóa phía trên còn người kia đứng chứng kiến. Sau đó ông ta đưa cho Rosenbaum một chiếc khóa và nói:
- Thưa ngài, bây giờ chúng tôi sẽ đi ra. Khi nào ngài muốn chúng tôi quay lại chỉ việc ấn nút đỏ này.
Rosenbaum nói:
- Cám ơn.
Ông ta chờ cho cửa đóng hẳn lại sau lưng mới tra chìa vào ổ, xoay một vòng và mở nắp hộp. Trong hộp có một gói gì đó giống như hình một bức tranh được gói cẩn thận trong một tấm lụa và buộc kỹ. Rosenbaum cẩn thận đặt cái gói vào vali của mình rồi đóng hộp và khóa lại như cũ. Sau đó ông ta bấm nút cạnh bàn, ngay lập tức Herr Daumier và vị thành viên Hội đồng quản trị quay lại. Ông chủ tịch ngân hàng hỏi:
- Hy vọng là mọi vật vẫn tốt cả chứ ạ? Cả một thời gian khá dài rồi còn gì.
- Vâng, cám ơn.
Lần này ông lão gật đầu. Herr Daumier hỏi:
- Mong ngài cho phép tôi hỏi một câu hỏi nhỏ?
Ông già nói:
- Ngài cứ hỏi.
- Ngài có ý định tiếp tục sử dụng cái hộp này không ạ? Số tiền ngài để lại để ký gửi đã hết.
- Không, tôi chẳng cần nó để làm gì nữa.
- Còn thiếu một số tiền nhỏ nữa. Nhưng trong trường hợp này chúng tôi rất vui lòng miễn.
- Ngài thật là tốt bụng.
Herr Daumier cúi đầu chào rồi vị thành viên Hội đồng Quản trị trẻ tuổi tiễn khách ra cửa, giúp ông ta leo lên taxi và bảo người lái xe taxi đưa ông ta ra sân bay Zurich.
Tại sân bay ông già mất một lúc lâu mới đến được bàn làm thủ tục cho chuyến bay. Bởi vì ông ta rất sợ thang cuốn và chiếc vali bây giờ đã khá nặng cho nên bước chân rất lập cập.
Đến bàn làm thủ tục ông ta đưa vé cho cô gái để kiểm tra và vui mừng thấy phòng chờ dành cho hành khách gần như rỗng không. Ông đi tới một góc khuất rồi ngồi thụp xuống một chiếc ghế bành êm ái.
Sau khi đã nhìn quanh kiểm tra chắc chắn là không ai bị nhìn thấy, ông ta bèn bấm vào cái chố nhỏ trên chiếc vali cũ kỹ, lò so bật lên miễn cưỡng. Ông ta nâng nắp vaili lên, kéo cái gói ra và áp lên ngực. Ngón tay run rẩy lần mò mãi mới cởi được cái nút thắt và tháo lần vải ra để xem lại niềm tự hào của mình. Ông Rosenbaum nhìn chằm chằm vào bức tranh tuyệt đẹp. Đó là bức Cánh đồng ngô của Van Gogh - ông ta không hề biết rằng nó đã biến mất khỏi bảo tàng Quốc gia Viên từ năm 1938.
Emmanuel Rosenbaum chử thề. Ông ta gói bức tranh lại và bỏ vài cặp. Rồi đột nhiên ông nhổm dậy đi về phía bàn bán vé và yêu cầu cô gái Thụy Điển đặt cho một vé đi Geneva trên chuyến bay đầu tiên. Nếu may mắn ông ta vẫn có thể đến ngân hàng Roget et Cie trước khi đóng cửa.
Chiếc Visciunt của hãng Hàng không Anh BEA đậu xuống sân bay Geneva vào lúc mười một giờ hai lăm giờ địa phương, chậm hơn so với kế hoạch vài phút. Cô tiếp viên hàng không khuyên mọi người chỉnh lại đồng hồ.
Adam nói:
- Tuyệt. Chúng mình đến Geneva vừa kịp ăn trưa, đến ngân hàng một tý rồi sau đó sẽ quay lại sân bay để bay chuyến bay lúc năm giờ năm.
Heidi phá lên cười:
- Anh làm như mọi chuyện cứ như huấn luyện quân sự ấy.
Adam nói:
- Đúng thế. Trừ phần cuối.
Cô ngạc nhiên:
- Phần cuối nào cơ?
- Bữa tối ăn mừng ấy mà.
- Chắc là lại ở nhà ăn tập thể Chelssea chứ gì?
Adam nói:
- Sai rồi. Anh đã đặt một bàn ăn cho hai người vào lúc tám giờ tối ở quán Con gà Vàng ngay tại Piccadilly.
Heidi nói:
- Chúng mình lại đếm cua trong lỗ đây mà.
- Ngài Adam Scott có điện thoại gọi. Xin mời ngài Adam Scott quay lại bàn làm thủ tục của hãng Hàng không Anh ở tầng trệt để nhận điện.
Adam và Heidi nhìn nhau:
- Chắc họ đưa cho chúng mình sai số ghế, em đoán thế.
Adam nhún vai nói:
- Thôi qua lại xem sao.
Họ quay lại tầng dưới và đến gần người đàn ông đã đưa cho họ thẻ lên máy bay lúc nãy.
Adam nói:
- Hình như ông vừa cho gọi chúng tôi?
- Ồ, vâng. Có tin khẩn nhắn cho ông - Anh ta liếc nhìn mẩu giấy trước mặt - Gọi điện ngay cho ngân hàng Roget et Cie, số máy 271279 Geneva - anh ta xé mẩu giấy và đưa cho Adam - Điện thoại ở đằng kia, sau bàn bán vé của hãng KLM và ông sẽ phải trả hai mươi xu.
Adam nói:
- Cám ơn ông.
Anh nhìn mẩu giấy, nhưng chẳng có chút gì cho thấy lý do tại sao M. Roget lại cần gặp mình làm gì. Heidi nói:
- Không hiểu ông ta có thể làm gì nhỉ? Nếu họ muốn đòi lại bức tranh Thánh thì muộn mất rồi.
Adam đưa cái túi cho Heidi:
- Chỉ có một cách duy nhất để biết được họ cần gì thôi. Em cầm cái này một lúc, anh sẽ quay lại ngay.
Heidi cầm chiếc túi sặc sỡ đựng hộp socola, nói:
- Trong lúc đó em sẽ tìm mua cuốn tạp chí kia xem, nếu như ở tầng này có hiệu sách.
Adam nói:
- Phải đấy. Mấy phút nữa anh sẽ quay lại đây nhé.
- Roget et Cie đây. Tôi có thể giúp gì được ạ?
Adam nói bằng tiếng Anh:
- Hình như M. Roget yêu cầu tôi gọi cho ông ta?
Cô trực tổng đài chuyển ngay sang tiếng Anh:
- Vâng, thưa ngài, ngài cho biết tên ạ?
- Adam Scott.
- Tôi sẽ tìm ngài Roget xem có đây không ạ.
Adam quay lại để nhìn xem Heidi đâu, anh đoán chắc cô đang đi tìm mua quyển tạp chí. Rồi anh nhìn thấy ông già lẩy bẩy đi ngang qua phòng. Anh có thể thề là đã nhìn thấy ông ta ở đâu rồi.
- Ngài Scott?
Adam cúi xuống điện thoại:
- Vâng, ngài Roget. Tôi gọi điện lại theo yêu cầu của ngài.
M. Roget hỏi lại, giọng có vẻ bối rối:
- Gọi điện lại theo yêu cầu của tôi ư? Tôi không hiểu gì cả.
Bàn làm thủ tục của hãng Hàng không Anh nhắn tôi gọi điện cho ngài gấp.
- Có lẽ họ nhầm đấy. Tôi không hề nhắn gì cả. Nhưng dù sao ngài cũng đã gọi lại, cho nên có lẽ ngài cũng cần biết rằng ngay khi các ngài vừa đi khỏi thì ngài Emmanuel Rosenbaum có đến chỗ chúng tôi.
Adam nói:
- Emmanuel Rosenbaum? Nhưng tôi tưởng...
- Cô ơi, cô có thể giúp tôi một tý được không?
Heidi nhìn lên người đàn ông vừa hỏi cô bằng tiếng Anh nhưng đặc giọng Trung Âu. Cô hơi ngạc nhiên vì sao ông ta biết cô nói được tiếng Anh, nhưng nghĩ chắc ông ta cho rằng đó là thứ ngôn ngữ dễ giao tiếp nhất.
- Tôi đang rất vội và muốn tìm một chiếc taxi nhưng e rằng mắt tôi kém quá.
Heidi đặt cuốn Der Spiegle xuống quầy báo và nói:
- Ở ngay sau chiếc cửa đôi kia thôi ạ. Để cháu chỉ cho ông.
Ông già nói:
- Không sao đâu ạ.
Cô cầm cánh tay ông già đưa đến chỗ cái cửa có đề hàng chư "Taxi và xe buýt".
Adam lo lắng hỏi:
- Ngài chắc đó là ngài Rosenbaum không ạ?
Ông ta đáp:
- Chắc chắn mà.
- Và ông ta có vẻ hài lòng khi thấy tôi đã nhận bức tranh Thánh không ạ?
- Ồ, có. Nhưng không có vấn đề gì về chuyện ấy đâu. Ông ta chỉ quan tâm đến việc phải trả lại ngài một trăm hai mươi francs thôi. Tôi nghĩ ông ta đang tìm ngài.
"Hãng Hàng Không Anh thông báo hành khách đi chuyến bay BE 171 đi London Heathrow ra cửa ra máy bay số Chín".
Adam nói:
- Tôi cần phải đi. Mấy phút nữa máy bay của tôi sẽ cất cánh.
Nhà ngân hàng nói:
- Chúc ngài may mắn.
Adam nói:
- Cám ơn, ngài Roget.
Anh đặt ống nghe xuống rồi quay lại chỗ bàn bán vé của Hãng Hàng không Anh và ngạc nhiên thấy Heidi vẫn chưa quay lại. Anh đưa mắt nhìn khắp phòng để tìm quầy báo vì sợ cô không nghe thấy lời thông báo máy bay sắp cất cánh. Rồi anh nhìn thấy cô đang đi tới chiếc cửa đôi, tay dìu ông già mà anh nhìn thấy trước đó.
Adam gọi to và rảo bước. Anh cảm thấy có một cái gì đó không ổn. Khi tới chỗ cánh cửa đôi anh nhìn thấy cô đang đứng trên hè phố và mở cửa taxi cho ông già. Anh hỏi:
- Ngài Rosenbaum phải không ạ?
Thế rồi chỉ bằng một động tác của cánh tay, rất nhanh và rất mạnh khiến Adam kinh ngạc, ông ta kéo mạnh Heidi vào sau chiếc taxi, đóng sập cửa lại và nói to "Allez vite" (đi nhanh lên).
Adam đờ người mất một lúc nhưng rồi anh nhảy tới bên chiếc taxi nhưng chỉ xuýt vồ được tay lái, trong khi nó rồ ga phóng vụt khỏi bãi cỏ. Chiếc taxi giật đột ngột làm Adam bật ngửa trên hè đường nhưng anh còn kịp nhìn thấy vẻ mặt kinh hoàng của Heidi. Anh nhìn theo biển số GE-7-1-2... Anh chỉ nhìn thấy có vậy, nhưng ít nhất cũng nhận ra đó là một chiếc Mercedes màu xanh da trời. Anh tuyệt vọng nhìn quanh tìm một chiếc taxi, nhưng quanh đó chỉ có độc nhất một chiếc đã đầy ắp khách.
Một chiếc Volkswagen Beetle đỗ lại ở đầu kia bãi đỗ. Một phụ nữ bước ra khỏi ghế lái và đi vòng ra đằng trước để mở hòm xe. Từ ghế hành khách một người đàn ông bước ra, nhấc hành lý ra khỏi hòm xe, rồi người phụ nữ đóng hòm xe lại.
Hai người đứng trên bãi cỏ hôn nhau. Trong khi họ hôn nhau Adam lẻn qua đường, nhảy vào ghế hành khách và trườn sang ghế lái xe. Chìa khóa vẫn cắm trong ổ điện. Anh vặn chìa khóa, sang số, dận ga và lùi bắn lại. Hai người kia đứng sững nhìn không tin vào mắt mình. Adam giật cần số khỏi số không và kéo đến chỗ anh nghĩ đó là số một. Động cơ chậm chạp gầm lên nhưng cũng đủ nhanh để anh có thể thoát khỏi hai người kia đang đuổi theo. Anh nghĩ chắc đó là số ba bèn ấn cần số sang số lại và phóng về phía tấm biển chỉ vào trung tâm Geneva.
Đến được ngã tư thứ nhất anh đã làm chủ được chiếc xe nhưng vẫn phải hết sức tập trung nhìn sang bên phải đường. "GE 72... DGE 72" Anh nhắc đi nhắc lại cho đến khi con số đó khắc sâu vào trí nhớ. Mỗi lần vượt qua một chiếc taxi màu xanh da trời anh đều nhìn biển kiểm soát và hành khách trên xe. Sau khi vượt qua khoảng hơn một chục chiếc taxi anh bắt đầu phân vân không hiểu con đường nhỏ nào đấy. Anh nhấn mạnh chân ga - 90, 110, 120 kilomet một giờ và vượt qua ba chiếc taxi nữa những không thấy bóng dáng Heidi đâu.
Rồi anh nhìn thấy chiếc Mercedes màu xanh da trời trên một con đường nhỏ khá xa phía trước, đèn bật sáng trưng đang phóng nhanh hơn tốc độ cho phép. Anh tin chắc chiếc Volkswagen đủ mạnh để đuổi kịp chiếc Mercedes, đặc biệt nếu nó chạy bằng động cơ diezel. Anh rút ngắn dần khoảng cách trong khi đó vẫn tự hỏi lão già bắt cóc Heidi để làm gì. Liệu lão có phải Rosenbaum không? Nhưng Rosenbaum đã muốn anh giữ bức tranh Thánh, hay là nhà ngân hàng chỉ nói thế để an ủi anh? Tất cả những cái đó chẳng có nghĩ lý gì cả, anh vừa lái xe vừa tự hỏi không biết có lúc nào mình tỉnh cơn ác mộng này không.
Ra đến ngoại ô Adam vẫn không hiểu gì cả, anh thận trọng đi theo chiếc Mercedes. Đến ngã tư tiếp theo, chiếc Mercedes vẫn đột ngột rẽ trái và chạy lên một quả đồi thoai thoải. Adam ngoặt tay lái đuổi theo. Chiếc taxi lại rẽ trái, để không bị mất hút anh đột ngột vượt qua một chiếc xe buýt khiến nó phải phanh két lại. Nhiều hành khách trên xe buýt bắn khỏi ghế, họ giận dữ giơ nắm đấm về phía anh trong khi người lái xe hú còi ầm ĩ.
Bây giờ chiếc taxi chỉ cách đó khoảng một trăm mét nữa. Một lần nữa Adam lại phải cho xe đứng khựng lại. Mấy giây tiếp đó dường như không có chuyện gì xảy ra trong khi Adam vòng xe đỗ lại sát sau chiếc Mercedes. Anh nhảy ra khỏi xe bằng cửa bên kia, bắt đầu chạy lên đồi, tay xách chiếc giỏ Heidi mua ở sân bay và một chiếc vali nhỏ.
Adam kéo bật cửa sau và nhìn vào, cô gái đẹp vẫn ngồi bất động, anh gào lên, chợt nhận ra với anh cô ý nghĩ biết bao:
- Em không sao chứ? Em không sao chứ?
Heidi không động đậy, cũng không nói tiếng nào. Adam quàng tay qua vai và nhìn vào đôi mắt cô, nhưng đôi mắt không hề đáp lại cái nhìn của anh. Anh bắt đầu kéo tóc cô, thế rồi không hề báo trước, cô ngả đầu lên vai anh như một con búp bê đã hỏng. Một dòng máu nhỏ bắt đầu chảy ra từ khóe miệng. Adam bắt đầu thấy lạnh giá, ốm yếu và run lên bần bật không sao cưỡng lại nổi. Anh nhìn người lái xe. Tay anh ta thõng xuống một bên, người gục trên vành tay lái. Trên mặt người đàn ông trung niên không hề thấy có dấu hiệu của sự sống.
Adam không muốn thừa nhận rằng họ đã chết. Vẫn nâng Heidi trên tay, anh nhìn lên: Ông lão đã lên đến đỉnh đồi.
Sao anh vẫn còn nghĩ đó là một ông lão nhỉ? Rõ ràng là hắn không già chút nào mà còn trẻ và rất khỏe. Đột nhiên sự sợ hãi của Adam biến thành tức giận. Một giây sau anh đã quyết định. Anh đặt Heidi xuống, nhảy khỏi xe và bắt đầu chạy lên đồi đuổi theo kẻ đã giết cô. Hai ba người qua đường đã bắt đầu tụ tập lại trên bãi cỏ và nhìn chằm chằm vào Adam và hai chiếc xe. Anh phải bắt được gã đang chạy kia. Adam chạy hết tốc lực nhưng chiếc áo khoác làm anh bị chậm lại phần nào, đến lúc Adam lên được đến đỉnh phía đường cái. Adam cố sải chân bởi vì tên kia đã nhảy lên một chiếc xe điện đi ngang qua, nhưng anh còn ở quá xa không thể nào báo động cho mọi người được, đành đứng nhịn chiếc tàu điện đi xa dần.
Gã đàn ông đứng trên bậc tàu điện và quay lại nhìn Adam. Một tay hắn nắm chiếc túi mua hàng. Lưng không hề gù nữa, người hắn cao hẳn lên và thâm chí dù đứng khá xa Adam cũng cảm thấy vẻ mặt thắng lợi của hắn. Adam đứng sững hồi lâu giữa đường, bất lực nhìn theo chiếc tàu điện mất hút về phía xa.
Anh cố tập trung đầu óc để suy nghĩ và nhận ra không mấy hy vọng vẫy được chiếc taxi vào giờ cao điểm này. Phía sau có tiếng còi hú vang chắc là của xe cấp cứu đang lao đến chỗ xảy ra tai nạn. Adam nói to "Tai nạn! Họ sẽ biết ngay đấy là một vụ giết người" Anh cố gắng quên đi nửa giờ điên rồ vừa qua. Không có chút gì có nghĩ lý cả. Nhất định tất cả chỉ vì gói đựng bức tranh Thánh của Sa Hoàng. Tên giết người không thể nào làm chừng nấy điều chỉ vì hai mươi ngàn bảng Anh - giết chết hai con người vô tội chỉ vì vướng chân - tại sao, tại sao bức tranh Thánh này lại quan trọng đến như vậy? Viên chuyên gia ở Sotheby nói gì nhỉ? "Một người đã hỏi dò về bức tranh này". Đầu óc Adam bắt đầu quay cuồng. Nếu như đó là Emmanuel Rosenbaum và hắn đeo đuổi bức tranh Thánh đó thì hắn chỉ mới kiếm được có mỗi hộp socola nhân rượu của Thụy Sĩ mà thôi.
Nghe thấy tiếng còi hụ đằng sau, Adam thấy nhẹ người vì đã có thể được giúp đỡ nhưng khi quay lại anh thấy hai sĩ quan tay lăm lăm súng đang chỉ về phía mình. Theo trực giác anh quay người chạy, vừa chạy anh vừa ngoái lại nhìn, phía sau lúc này đã có rất nhiều cảnh sát đuổi theo. Anh lại sải chân chạy, mặc cho chiếc áo khoác bay phất phới, anh không tin có ai trong đám cảnh sát Thụy Sĩ kia có thể đuổi kịp anh trong khoảng cách năm trăm mét này. Adam rẽ vào con đường nhỏ đầu tiên hiện ra và chạy nhanh hơn. Đó là một con đường hẹp, có lẽ không đủ cho hai chiếc xe đạp tránh nhau. Khi đã vượt qua con đường đó anh bèn chọn một phố một chiều để đi vào. Con phố chật cứng những xe cộ, lúc này anh đã có thể đi vào một cách an toàn và nhanh nhẹn giữa dòng xe cộ đông đúc.
Chỉ vài phút nữa thôi là có thể thoát được sự truy đuổi nhưng anh vẫn tiếp tục chạy, tiếp tục đổi hướng liên tục cho đến khi cách đám người đuổi theo ít nhất phải hai dặm. Cuối cùng anh rẽ vào một phố nhỏ yên tĩnh và đứng lại dưới một tấm bảng đèn huỳnh quanh của khách sạn Monarque. Trông khách sạn này chẳng khác gì mấy so với một nhà khách nhỏ và rõ ràng là chẳng thể nào có thể gọi đó là một "khách sạn" được. Anh đứng trong bóng tối chờ đợi, hít lấy hít để không khí vào ngực. Khoảng ba phút sau hơi thở của anh trở lại bình thường, anh đi thẳng vào khách sạn.