Truy Tìm Dracula

Chương 24 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Cha tôi đã có những lý do giải thích khá khôi hài về việc cha hiện diện trong phòng đọc tuyển tập ma cà rồng của trường Oxford, thay vì ở chỗ hội nghị. Hội nghị đã bị hủy vào phút chót, cha nói trong lúc bắt tay Stephen Barley với thái độ niềm nở như thường lệ. Theo thói quen cũ cha đã lang thang đến đây - nói đến đó cha dừng lại, gần như cắn môi, sau đó nói tiếp. Cha đi tìm một nơi chốn yên tịnh, (đây là điều tôi có thể tin dễ dàng). Có thể nhận thấy rõ vẻ biết ơn của cha trước sự hiện diện của Stephen, vóc dáng cao lớn, mạnh khỏe cũng như vẻ tráng kiện trong chiếc áo len dài tay của anh. Giả sử, nếu chỉ có một mình tôi bất ngờ bắt gặp cha ở đó, thì cha sẽ phải nói với tôi chuyện gì nhỉ? Ông phải giải thích với tôi thế nào về cuốn sách khổ đôi đang cầm trong tay, thậm chí là tình cờ đóng nó lại bằng cách nào chứ? Cha đã đóng sách lại, nhưng quá trễ; tôi đã đọc được tên của chương sách, nổi bật trên trang giấy dày màu trắng ngà: Vampires de Provence et des Pyrénées(1).



Đêm hôm đó tôi trằn trọc không yên giấc trên chiếc giường có màn che sặc sỡ, trong nhà của thầy quản lý, cứ vài giờ lại giật mình thức giấc vì các giấc mơ kỳ lạ. Một lần tôi đã có cảm giác yên tâm khi nhìn thấy có ánh sáng phía dưới cửa phòng tắm nằm giữa phòng cha và phòng tôi. Mặc dù vậy, đôi lúc cái cảm giác về việc cha vẫn đang thao thức, về sự tĩnh lặng trong căn phòng cạnh bên lại đột ngột lôi tôi ra khỏi giấc ngủ. Gần sáng, khi màn sương nhàn nhạt bắt đầu ló dạng sau tấm rèm vải màn, tôi thức dậy hẳn.



Lần này chính sự im lặng đã đánh thức tôi dậy. Mọi vật đều quá tĩnh lặng: đường nét lờ mờ của cây cối trong sân vườn (tôi dòm quanh mép rèm), chiếc tủ đồ sộ cạnh bên giường ngủ, và trên tất cả - phòng cha ở cạnh bên. Không phải vì tôi cho rằng cha vẫn còn thức vào giờ này; có thể cha vẫn còn ngủ nữa là khác - có thể đang ngáy chút đỉnh nếu cha nằm ngửa - đang cố gắng quên đi những lo âu của ngày hôm qua, trì hoãn lại chương trình làm việc mệt mỏi, với các buổi diễn thuyết và hội thảo và tranh luận đang chực chờ cha ở phía trước. Trong những chuyến du hành của chúng tôi, cha thường vui vẻ gõ gõ lên cửa phòng sau khi tôi đã hoàn toàn tỉnh ngủ, một tín hiệu thúc giục tôi mau ra để cùng đi bộ tập thể dục với ông trước khi dùng điểm tâm.



Không biết vì sao cái im lặng của buổi sáng hôm đó lại đè nặng lên tôi, tôi bước xuống giường, mặc quần áo và choàng khăn lên vai. Tôi sẽ vào tắm bồn và lắng nghe tiếng cha ngủ trong lúc ngồi trong đó. Tôi gõ nhẹ cửa phòng tắm để chắc chắn không có cha bên trong. Sự im lặng càng nặng nề hơn khi tôi vào đứng trước tấm gương trong phòng tắm, lau mặt. Tôi áp tai vào cửa phòng cha. Chắc chắn cha đang ngủ say. Tôi biết đánh thức cha lúc này là một hành động vô tâm, vì hẳn phải khó khăn lắm cha mới dỗ được giấc ngủ, nhưng cảm giác kinh hoàng bắt đầu trườn lên chân tay tôi. Tôi gõ nhẹ lên cánh cửa. Không có tiếng động nào trong phòng. Nhiều năm qua cha con chúng tôi vẫn luôn tuyệt đối tôn trọng riêng tư của nhau, nhưng bây giờ, trong ánh ban mai trắng đục hắt vào từ cửa sổ phòng tắm, tôi vặn nắm cửa.



Trong phòng cha, những tấm rèm dày vẫn còn khép kín, vì vậy phải mất vài giây tôi mới nhận ra được đường nét mờ mờ của đồ đạc và các bức tranh trang trí trong phòng. Sự tĩnh lặng của không gian khiến phần da dọc sau gáy tôi sởn lên rờn rợn. Bước sát đến giường ngủ, tôi lên tiếng gọi cha. Nhưng đến gần, chiếc giường vẫn gọn gàng phẳng phiu, nổi lên tối sẫm trong căn phòng tối. Căn phòng trống không. Tôi buông ra hơi thở nãy giờ vẫn cố kìm nén. Cha đã ra ngoài, đi bộ tập thể dục một mình, có lẽ thế, để được yên tĩnh suy nghĩ. Nhưng một cái gì đó xui tôi bật ngọn đèn bên giường ngủ, đưa mắt nhìn quanh cẩn thận hơn. Trong vòng sáng tròn có một lá thư đề gửi cho tôi, và trên đó là hai món đồ khiến tôi phải ngạc nhiên: cây thánh giá bạc nhỏ gắn vào một sợi dây chuyền trông chắc chắn và một củ tỏi tươi. Sự hiện diện rành rành của những món đồ đó khiến dạ dày tôi quặn lên, thậm chí trước khi đọc lá thư của cha.



Con gái thân yêu của cha,



Cha vô cùng xin lỗi vì đã làm con bất ngờ thế này, nhưng cha có công việc gấp rút phải lên đường ngay, và không muốn làm xáo trộn giấc ngủ của con. Cha chỉ đi vài ngày, cha hy vọng như vậy. Cha đã thu xếp với thầy James để anh bạn của chúng ta, Stephen Barley, đưa con về nhà. Anh ấy được cho nghỉ học hai ngày và sẽ đưa con về Amsterdam tối nay. Cha đã bảo bà Clay ra đón con, nhưng chị bà ấy đang ốm nên bà đã về Liverpool. Bà sẽ cố gắng gặp con ở nhà tối nay. Trong bất kỳ trường hợp nào, con cũng sẽ được chăm sóc chu đáo và cha tin con sẽ biết tự chăm sóc mình một cách hợp lý. Đừng lo âu về việc cha vắng mặt. Đây là một chuyện bí mật, nhưng cha sẽ cố trở về sớm nhất có thể, sau đó sẽ kể lại cho con nghe. Trong khi chờ đợi, từ đáy lòng mình, cha muốn con lúc nào cũng phải đeo thánh giá và bỏ tỏi trong túi. Con biết cha không phải là người buộc con phải tin theo một tôn giáo hay chuyện mê tín nào đó, và cha cũng không tin vào những chuyện đó. Nhưng chúng ta phải đối phó với cái ác theo cách của nó, hết sức có thể, và con đã biết những cách này là gì rồi đấy. Riêng về điểm này, cha hết lòng xin con đừng coi thường ý nguyện của cha.



Cuối thư là một chữ ký ấm áp tràn đầy tình cảm thương yêu, nhưng tôi có thể nhận thấy nó đã được ký một cách vội vã. Tim tôi đập thình thịch. Tôi vội đeo dây chuyền vào cổ và tách củ tỏi để bỏ chúng vào các túi áo. Khi nhìn quanh, tôi thấy thật đúng là cha: vẫn sắp xếp giường gối gọn gàng ngay trong lúc vội vã yên lặng rời khỏi trường đại học như vậy. Nhưng tại sao cha lại vội vã như vậy? Dù mục đích chuyến đi của cha là gì, nó cũng không thể là một nhiệm vụ ngoại giao thuần túy, nếu không cha đã không dặn dò tôi nhiều như vậy. Nghề nghiệp của cha khiến cha vẫn hay phải đi khi có công chuyện khẩn; tôi từng chứng kiến cha phải đi giải quyết một cuộc khủng hoảng ở phía bên kia của Âu châu mà chẳng dặn dò gì nhiều, nhưng lúc nào cha cũng cho biết ông đi đâu. Lần này, con tim đang đập dồn dập của tôi cho biết cha không đi công tác. Hơn nữa, ông đã được sắp xếp ở lại đây, ở Oxford suốt tuần lễ này, để diễn thuyết và tham gia hội nghị. Cha đâu phải là người dễ bỏ ngang công việc.



Không. Việc cha biến mất chắc chắn có mối liên quan nào đó với những dấu hiệu căng thẳng gần đây của cha - bây giờ tôi nhận ra ngay từ đầu tôi đã lo sợ chuyện gì đó như thế này sẽ xảy ra. Và cả cảnh tượng ngày hôm qua tại thư viện Radcliffe Camera nữa, cha hoàn toàn mê mải ở đó - chính xác cha đã đọc những gì? Và cha đi đâu, đi đâu mới được cơ chứ? Đi đâu, mà không có tôi? Lần đầu tiên trong suốt những năm tháng mà tôi còn nhớ được, những năm tháng cha đã che chở tôi khỏi sự cô đơn của cuộc sống mồ côi mẹ, không anh em, không quê hương, những năm tháng ông vừa làm mẹ vừa làm cha - lần đầu tiên, tôi cảm thấy mình như một đứa trẻ mồ côi.




Việc anh ngủ vài giờ cũng tiện cho tôi vì tôi cũng có nhiều chuyện để suy ngẫm, cả những vấn đề thực tế lẫn học thuật. Vấn đề trước mắt của tôi không phải là câu hỏi về mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử mà là bà Clay. Bà sẽ đứng nghiêm nghị trong tiền sảnh nhà chúng tôi tại Amsterdam, lo âu đến ngạt thở cho cha và tôi. Sự hiện diện của bà sẽ khiến tôi không thể ra khỏi nhà ít nhất đến sáng hôm sau, và nếu ngày hôm sau tôi không về nhà sau buổi học thì chắc chắn bà sẽ lồng lộn như bầy sói đi săn tìm tôi, chắc hẳn với cả nửa lực lượng cảnh sát Amsterdam theo trợ giúp. Lại còn Barley nữa. Tôi liếc nhìn gương mặt say ngủ của anh; anh khe khẽ ngáy, hơi thở khẽ phả vào chiếc áo khoác đang cuộn trên vai làm gối. Ngày mai Barley sẽ lại quay lại bến phà khi tôi đến trường, tôi sẽ cẩn thận để không chạm mặt anh trên đường đi.



Thật vậy, bà Clay đã có mặt ở nhà khi chúng tôi về đến nơi. Barley đứng cùng tôi trên bậc cửa trong lúc tôi lục tìm chìa khóa; anh nghển cổ ngắm nhìn những hiệu buôn cổ kính và những dòng kênh đào lấp lánh - “Tuyệt vời! Cả những mặt tiền phong cách Rembrandt trên những phố này nữa!” Khi bà Clay bất ngờ mở cửa và kéo tôi vào nhà, anh gần như không kịp bước vào theo tôi trước khi cánh cửa sập lại. Nhưng rồi tôi nhẹ nhõm khi thấy sau đó anh cư xử thật lịch sự. Khi bà Clay và Barley đi vào bếp để gọi điện cho thầy James, tôi chạy vội lên cầu thang, gọi với xuống nói là mình cần phải rửa mặt. Thực ra - ý định này khiến tim tôi đập thình thịch vì cảm giác phạm tội - tôi định lục soát cấm cung của cha ngay tức khắc. Sẽ tính đến chuyện đối phó với bà Clay và Barley sau. Bây giờ tôi phải đi tìm những gì mà tôi chắc chắn bị giấu kín trong đó.



Căn nhà phố của chúng tôi được xây dựng vào năm 1620, có ba phòng ngủ trên tầng hai, những căn phòng hẹp tranh sáng tranh tối mà cha rất ưa thích, vì như cha nói, đối với ông chúng có vẻ như vẫn chứa đầy dấu vết của sự lao động cần mẫn và những con người giản dị từng sống ở đó trước đây. Phòng của cha là phòng lớn nhất, một nơi trưng bày tuyệt vời những thứ đồ gỗ Hà Lan qua các thời kỳ. Ông đã phối hợp những đồ đạc giản dị với thảm và màn treo giường phong cách thời Ottoman, một bản phác thảo nhỏ của Van Gogh và mười hai chảo đồng có xuất xứ từ một nông trại Pháp - chúng tạo thành một gallery trên tường và lấp lánh phản chiếu ánh sáng hắt lên từ dòng kênh bên dưới. Giờ tôi nhận ra căn phòng này mới đặc biệt làm sao, không chỉ bởi cách trần thiết kế kiểu chiết trung mà còn vì sự giản dị giống như tu viện. Trong phòng không có một cuốn sách nào; sách vở đều được cất giữ trong phòng đọc sách dưới nhà. Không có áo quần vắt lên lưng chiếc ghế dựa kiểu thế kỷ mười bảy, không có tờ báo nào xâm phạm đến chiếc bàn làm việc đồ sộ. Không có điện thoại, không cả đồng hồ - sáng nào cha cũng dậy sớm một cách tự nhiên. Đây là một khoảng không gian sinh hoạt thuần khiết, một căn phòng trong đó người ta ngủ, thức giấc và có thể cả cầu nguyện - mặc dù tôi không rõ những buổi cầu nguyện có còn diễn ra ở đó hay không - như khi nó mới được xây dựng. Tôi rất thích căn phòng nhưng ít khi vào đó.



Rón rén bước vào như một tên trộm, tôi đóng cửa phòng lại, mở hộc tủ bàn làm việc của cha ra. Quả là một cảm giác khủng khiếp, như phá vỡ niêm phong một chiếc quan tài, nhưng tôi cứ dấn tới, mở hết các ngăn kéo, lục soát nhưng cẩn thận xếp trở lại chỗ cũ mọi thứ sau khi đã xem xong - thư từ của bạn bè, những chiếc bút đầu nhỏ, những trang ghi chú chằng chịt. Cuối cùng tay tôi cũng tìm được một phong bì niêm kín. Tôi mở ra, chẳng hề cảm thấy xấu hổ và nhìn thấy bên trong có vài dòng chữ, viết cho tôi và khuyên tôi hãy đọc những lá thư bên trong, chỉ trong trường hợp cha qua đời bất ngờ hay biệt tăm một thời gian dài. Chẳng phải tôi đã từng trông thấy cha ngồi viết miệt mài, hết đêm này qua đêm khác, một cái gì đó mà cha vẫn dùng tay che lại khi thấy tôi xuất hiện gần đó hay sao? Tôi vội vã chộp lấy cái phong bì, đóng tủ hộc bàn lại và mang nó về phòng mình, căng tai lắng nghe xem có tiếng bước chân của bà Clay trên cầu thang không.



Cái phong bì đó đầy những lá thư, tất cả đều được xếp gọn trong một phong bì nhỏ hơn và đề gửi cho tôi theo địa chỉ nhà, tựa như cha đã nghĩ sẽ phải gửi chúng về cho tôi vào lúc nào đó từ một nơi nào khác. Tôi giữ chúng theo thứ tự - ồ, hóa ra tôi đã học được nhiều điều mà không nhận ra - và cẩn thận mở lá thư đầu tiên. Nó đề ngày sáu tháng trước đó và có vẻ như không phải được mở đầu chỉ bằng lời nói mà còn bằng một tiếng khóc tận đáy lòng. “Con thân yêu của cha” - nét chữ của cha như run rẩy dưới mắt tôi - “Nếu con đang đọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Cha đang đi tìm mẹ con.”



Chú thích:



1. Nguyên văn tiếng Pháp: Ma cà rồng vùng Provence và Pyrénées.



2. Tiếng phiên âm của tên riêng Benedicli trong tiếng Latin hay Benedicli trong tiếng Anh. Thnahs Benedict lập ra dòng có tên quốc tế là Ordo Sancli hay Order of St. Benedict. (BT)