Truy Tìm Dracula
Chương 25 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
Đối với tôi, ga tàu hỏa Amsterdam là một quang cảnh quen thuộc - tôi đã đi ngang qua đây hàng chục lần, nhưng chưa bao giờ đến đó một mình. Tôi chưa bao giờ một mình đi đến bất kỳ nơi chốn nào, và lúc ngồi trên băng ghế chờ chuyến tàu sáng tốc hành đi Paris, tôi thấy tim mình đập dồn dập không hẳn vì hồi hộp lo âu cho cha, mà vì trong tôi cuồn cuộn dâng lên nguồn nhựa sống đến từ khoảnh khắc hoàn toàn tự do đầu tiên tôi biết tới trong đời. Ở nhà, bà Clay hẳn đang rửa chén bát sau bữa điểm tâm và nghĩ rằng tôi đang trên đường đến trường. Barley chắc chắn đã khăn gói ra bến cảng và cũng nghĩ tôi đang đi học. Tôi ân hận vì đã lừa dối bà Clay tử tế nhưng cứng nhắc kia, và cảm thấy khá nuối tiếc vì phải chia tay Barley, anh đã bất ngờ lịch thiệp hôn lên tay tôi nơi ngưỡng cửa nhà và tặng tôi một thanh sô cô la dù tôi đã bảo là có thể mua bánh kẹo xứ Hà Lan này bất kỳ lúc nào tôi thích. Tôi nghĩ có lẽ mình sẽ viết thư cho anh, khi tất cả những rắc rối này chấm dứt - nhưng đó là việc xa vời, tôi không thể đoán trước được.
Lúc này, bình minh Amsterdam đã lung linh lấp lánh biến hóa quanh tôi. Thậm chí sáng hôm nay tôi còn mơ hồ nhận ra chút cảm giác khuây khỏa trong khi đi bộ dọc theo con kênh đào từ nhà đến ga xe lửa, trong mùi thơm của bánh mì nướng và mùi ẩm ướt của những dòng kênh, vẻ tất bật nhưng tươm tất, dù không hoàn toàn thanh nhã, của mọi thứ. Ngồi trên một ghế dài trong nhà ga, tôi kiểm tra lại hành lý của mình: quần áo để thay, những lá thư của cha, bánh mì, pho mát, những hộp nước trái cây lấy ở nhà bếp. Tôi cũng chôm được khá nhiều tiền đi chợ - nếu bất nhẫn hơn, tôi đã lấy cả hai mươi đồng - để bổ sung cho số tiền trong ví. Việc này sẽ làm bà Clay nhanh chóng để ý cảnh giác, nhưng chẳng còn cách nào khác - tôi không thể nấn ná chờ đến giờ nhà băng mở cửa để rút tiền từ cái tài khoản tiết kiệm nhỏ nhoi trẻ con của mình. Tôi mang theo một chiếc áo len ấm dài tay và áo mưa, hộ chiếu, một cuốn sách để đọc trong những chuyến hành trình dài bằng xe lửa, và cuốn tự điển tiếng Pháp loại bỏ túi.
Tôi còn lấy trộm một thứ khác nữa. Trong phòng khách tại nhà, tôi lấy trộm một con dao găm bạc trong tủ chứa những vật kỷ niệm quý hiếm có từ những chuyến đi công cán ngoại giao đầu tiên của cha ở những xứ sở xa xôi, những chuyến đi mang theo những nỗ lực sơ khởi nhằm thiết lập quỹ tài trợ của cha. Thời đó tôi còn quá nhỏ, không theo cha được, nên ông phải để tôi ở lại Mỹ với những người bà con họ hàng khác. Con dao sắc bén kỳ lạ, cán dao có khắc chạm trang trí. Vỏ dao cũng có rất nhiều hình chạm khắc tinh vi. Đây là loại vũ khí duy nhất mà tôi thấy trong nhà - cha không thích súng, và sở thích sưu tầm của ông không bao gồm các loại đao kiếm hoặc rìu chiến. Dù không biết phải tự vệ như thế nào với con dao nhỏ này, nhưng tôi cảm thấy an tâm hơn khi biết nó đang hiện diện trong xắc tay của mình.
Khi chuyến tàu tốc hành tới, ga tàu đông nghẹt người. Lúc đó tôi thấy, và bây giờ vẫn vậy, rằng không có niềm vui nào giống như niềm vui lúc tàu đến, dù tâm trạng của bạn có đang rối ren như thế nào - đặc biệt là một con tàu châu Âu, và nhất là một chuyến tàu châu Âu đưa bạn về phương Nam. Quãng thời gian này trong cuộc đời tôi, vào những năm cuối thập niên 70, tôi đã được nghe tiếng còi của một số đầu máy hơi nước cuối cùng còn sót lại chạy qua rặng Alps theo một hành trình đều đặn. Rồi tôi lên tàu, tay nắm chặt cặp sách, gần như mỉm cười. Trước mắt tôi giờ là hàng giờ đồng hồ rảnh rỗi, và tôi sẽ cần đến chúng, không phải để đọc sách, mà để nghiền ngẫm một lần nữa những lá thư quý báu của cha. Tôi tin rằng mình đã chọn đúng hướng, nhưng cũng cần phải suy nghĩ tại sao lại đúng.
Tìm được một cabin yên tĩnh, tôi kéo tấm màn ngăn lối đi bên cạnh ghế ngồi của mình, hy vọng không có ai dõi theo mình đến nơi này. Một lát sau, một phụ nữ trung niên, mặc áo khoác xanh, đầu đội mũ bước vào, mỉm cười chào tôi và ngồi xuống ghế với một xấp tạp chí Hà Lan. Từ góc ngồi thoải mái của mình, ngắm nhìn thành phố cổ kính rồi đến những khu ngoại ô nhỏ bé một màu xanh ngát lùi dần về phía sau, tôi lại mở lá thư đầu tiên của cha. Lúc này tôi đã thuộc nằm lòng những câu mở đầu, nét chữ gây xúc động, ngày tháng và nơi chốn gây sửng sốt, những dòng chữ viết vội vàng mà cứng cáp của cha.
“Con gái thương yêu của cha:
“Nếu con đang đọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Cha đang đi tìm mẹ con. Nhiều năm qua cha tin rằng mẹ con đã chết, nhưng hiện tại niềm tin đó không còn vững chắc nữa. Tình trạng mập mờ này thậm chí tồi tệ hơn nỗi đau thương, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều này; nó đã dằn vặt tâm can cha cả ngày lẫn đêm. Cha chưa bao giờ nói cho con biết nhiều về mẹ con, cha biết đây là do sự yếu đuối của cha, nhưng câu chuyện của cha và mẹ con đau lòng đến độ cha không thể dễ dàng kể lại cho con nghe. Cha luôn có ý định sẽ kể với con nhiều hơn khi con khôn lớn hơn và có thể hiểu tường tận hơn mà không kinh sợ - mặc dù cho đến bây giờ, chuyện xảy ra đã khiến cha rất sợ hãi, nỗi sợ bất tận, đến mức trở thành lý do tội nghiệp nhất trong các lý do mà cha có thể biện minh cho bản thân mình trong chuyện này.
“Trong vài tháng gần đây, cha đã cố gắng bù đắp cho sự yếu đuối của mình bằng cách kể con nghe từng chút một những gì có thể về quá khứ của chính cha, cũng như đã có ý định dần dần đưa mẹ con vào câu chuyện, mặc dù mẹ đã bước vào cuộc đời cha một cách khá bất ngờ. Bây giờ cha e rằng không còn kịp thu xếp để kể với con hết những gì con phải biết về di sản của con, trước khi cha bị buộc phải im lặng - theo đúng nghĩa đen, không còn khả năng đích thân thông tin cho con biết được - hoặc một lần nữa trở thành con mồi cho chính sự im lặng của mình.
“Cha đã mô tả sơ qua với con về cuộc sống của cha khi còn là một nghiên cứu sinh, trước khi con ra đời, cũng như đã kể cho con biết chút ít về trường hợp mất tích bí ẩn của vị giáo sư hướng dẫn cha, sau khi ông ấy tiết lộ câu chuyện với cha. Cha cũng đã kể cho con nghe cuộc gặp gỡ của cha với một phụ nữ trẻ tên Helen, người cũng quan tâm không kém gì cha, có thể còn quan tâm nhiều hơn, đến việc tìm kiếm thầy Rossi. Cha đã cố gắng kể ra câu chuyện này với con khi có bất kỳ cơ hội nào thuận tiện, nhưng bây giờ cha bắt đầu cảm thấy phải viết ra phần còn lại, ghi lại chuyện này rạch ròi trên giấy trắng mực đen. Nếu lúc này con phải đọc thay vì nghe cha kể lại nó trên một đỉnh núi đá hoặc một quảng trường thanh vắng, ở một bến cảng kín đáo hay bên chiếc bàn ấm cúng trong một quán cà phê nào đó, thì đó là do lỗi của cha trước đây đã chưa kịp kể lại cho con nghe một cách trọn vẹn và sớm hơn.
“Khi viết lá thư này, cha đang nhìn ra ngoài trời, nhìn những ngọn đèn trong một bến cảng cổ xưa - còn con đang vô tư yên ngủ trong căn phòng kế bên. Cha mệt mỏi sau một ngày làm việc, và mệt mỏi khi nghĩ đến việc phải bắt đầu kể ra câu chuyện dài dòng này - một bổn phận đau buồn, một sự phòng ngừa bất hạnh. Cha cảm thấy mình chỉ có vài tuần, cùng lắm là vài tháng, để đích thân kể tiếp câu chuyện, vì vậy cha sẽ không nhắc lại tất cả những gì cha đã kể với con trong suốt những chuyến đi đến nhiều đất nước vừa qua. Sau khoảng thời gian này - vài tuần hay vài tháng ấy - cha không còn nói chắc được nữa. Những lá thư này là sự bảo đảm của cha để con khỏi đơn độc. Trong trường hợp tồi tệ nhất, con sẽ thừa hưởng ngôi nhà, tiền bạc, đồ đạc và sách vở của cha, nhưng cha có thể dễ dàng tin rằng con sẽ nâng niu gìn giữ những tài liệu này, những tài liệu mà cha sở hữu hơn bất kỳ những gì khác, bởi chúng sẽ bao gồm câu chuyện của riêng con, lịch sử cuộc đời con.
“Tại sao cha không kể cho con một lần cho hết tất cả sự thật của câu chuyện để dứt khoát với nó, để con được biết đầy đủ? Câu trả lời, một lần nữa, lại nằm ở sự yếu đuối của chính cha, và trên thực tế rằng tóm lược rồi kể hết một lần sẽ là, chính xác là - một điều gây tác động quá mạnh. Cha không đành lòng muốn con phải đau đớn như vậy, ngay cả khi nỗi đau đó chỉ bằng một phần nhỏ của nỗi đau trong cha. Vả lại, có thể con sẽ không hoàn toàn tin nếu cha kể hết ngay một lần, cũng như bản thân cha cũng đã hoài nghi phần nào câu chuyện của thầy Rossi khi chưa đọc hết tập thư từ và tài liệu của thầy để lại. Và, cuối cùng, trên thực tế có câu chuyện nào có thể được giản lược đến chỉ còn các yếu tố có thực của nó cơ chứ? Do đó, cha sẽ dần kể câu chuyện của mình từng bước một. Cha cũng phải thử phỏng chừng xem đến thời điểm khi những lá thư này tới tay con thì cha đã kể những gì để không lặp lại chúng.”
Phỏng đoán của cha tôi không chính xác hoàn toàn, cha đã đi trước một hai bước so với những gì tôi đã biết. Tôi u sầu nghĩ ngợi, có lẽ mình sẽ không bao giờ được nghe kể về phản ứng của cha đối với quyết định bất ngờ của Helen Rossi - cùng đi với cha trong cuộc tìm kiếm - hoặc các chi tiết thú vị trong cuộc hành trình của họ từ New England đến Istanbul. Tôi thắc mắc không biết họ đã xoay xở như thế nào để hoàn tất các thủ tục giấy tờ cần thiết, vượt qua các rào cản do bất đồng về chính trị, thị thực nhập cảnh, hải quan? Liệu cha có bịa ra chuyện này chuyện nọ với ông bà nội, hai cư dân Boston nhân hậu và thông thái, về kế hoạch chuyến đi bất ngờ của mình? Cha và Helen có đến New York ngay như đã hoạch định? Và họ có ngủ chung phòng ở khách sạn hay không? Đầu óc tuổi thiếu niên của tôi không thể lý giải được chuyện bí ẩn này nhưng cũng không thể thôi ưu tư thắc mắc về nó. Rốt cuộc, tôi đành bằng lòng với hình ảnh hai người giống như các nhân vật trong những bộ phim được sản xuất vào thời thanh xuân của họ: Helen kín đáo duỗi thẳng người dưới tấm chăn trên chiếc giường đôi, cha thì khốn khổ gật gù trên chiếc ghế bành, chỉ cởi mỗi đôi giày thôi - ngoài ra không còn gì khác, và ánh sáng của Quảng trường Thời Đại nhấp nháy bên ngoài cửa sổ như mời mọc chuyện gió trăng.
“Sáu ngày sau khi thầy Rossi mất tích, cha và Helen bay đến Istanbul từ phi trường Idlewild(1)_, vào một đêm đầy sương mù, đổi máy bay tại Frankfurt. Chiếc máy bay thứ hai hạ cánh sáng hôm sau, chúng ta cùng các du khách khác lũ lượt kéo nhau ra ngoài. Đến thời điểm đó cha đã đến Tây Âu được hai lần, nhưng lần này, chuyến đi đối với cha dường như là cuộc du ngoạn từ trái đất đến một hành tinh khác - Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1954, là một thế giới tách biệt hơn hiện nay nhiều. Chỉ một phút trước, cha còn co mình trên chiếc ghế máy bay gò bó, lau mặt bằng khăn nóng, vậy mà giờ bọn ta đã đứng trên mặt đường nhựa cũng nóng như vậy, với những mùi kỳ lạ phảng phất quanh mình, cùng với gió bụi, và chiếc khăn quàng đang bay phần phật của một người Ả-rập đứng xếp hàng phía trước - chiếc khăn cứ bay chọc vào miệng cha. Đứng bên cạnh cha, Helen bật cười, quan sát vẻ ngạc nhiên của cha trước tất cả những thứ đó. Trên máy bay, cô đã chải tóc, thoa lại son môi, và trông rất tươi tắn sau chuyến bay đêm tù túng. Cô vấn quanh cổ một chiếc khăn quàng nhỏ; cha vẫn chưa thấy cái dấu vết bên dưới chiếc khăn, nhưng cũng không dám yêu cầu cô gỡ khăn ra. “Chào mừng đến thế giới vĩ đại, anh chàng người Mỹ,” cô nói, mỉm cười. Lần này là một nụ cười thật sự, không phải nụ cười nhăn nhó thường thấy ở cô.
“Cha càng ngạc nhiên hơn trong suốt chuyến taxi trở về thành phố. Cha không biết chính xác mình mong đợi gì ở Istanbul - có thể chẳng có gì cả, vì cha không có nhiều thời gian để chuẩn bị cho chuyến đi - nhưng vẻ đẹp của thành phố này đã chinh phục cha. Nó mang đậm chất huyền hoặc của Nghìn lẻ một đêm mà dù bao nhiêu tiếng còi xe inh ỏi và hình ảnh của các doanh nhân trong những bộ com lê Tây phương cũng không hề làm tan biến. Thành phố đầu tiên của nơi đây, Constantinople, thủ phủ của đế chế Byzantine và thủ đô đầu tiên của đế quốc La Mã Thiên Chúa giáo, thật sự nguy nga tráng lệ ngoài sức tưởng tượng, cha nghĩ - một cuộc hôn phối giữa La Mã giàu có và chủ nghĩa thần bí Thiên Chúa giáo thuở sơ khai. Cho đến lúc tìm thuê được phòng trong khu phố cổ Sultanahmet, dù chỉ được nhìn thoáng qua, cha đã thấy hoa mắt trước hàng chục ngôi thánh đường Hồi giáo cùng những ngọn tháp, những khu chợ treo đầy vải vóc hảo hạng, thậm chí cả hình ảnh lướt qua của mái vòm đồ sộ và bốn ngọn tháp của thánh đường Hagia Sophia sừng sững hiện ra bên trên bán đảo.
“Helen cũng chưa bao giờ đến đây, cô im lặng tập trung quan sát mọi thứ, chỉ quay về phía cha một lần trong suốt chuyến taxi để nhận xét rằng thật kỳ lạ làm sao khi được tận mắt thấy cội nguồn - cha chắc chắn cô đã dùng từ này - của đế quốc Ottoman, cái cội nguồn đã để lại rất nhiều vết tích trên xứ sở quê hương cô. Những nhận xét ngắn gọn, sắc sảo của Helen về đủ mọi thứ đã trở thành âm hưởng chung của những ngày chúng ta sống ở đó: tên các địa danh bằng tiếng Thổ, món xa lát dưa chuột ăn tại một nhà hàng ngoài trời, hình dáng cong nhọn của một khung cửa sổ. Điều này cũng gây ra một tác động đặc biệt với cha, một hình thức nhân đôi sự trải nghiệm của cha, vì vậy cùng một lúc dường như cha được nhìn thấy cả Istanbul cả Rumani, và dần dần, khi câu hỏi liệu chúng ta có nên đến chính Rumani hay không đặt ra giữa cha và Helen, cha có cảm giác như đang được dẫn dắt đến xứ sở đó qua những món đồ tái tạo từ quá khứ mà cha nhìn thấy trong đôi mắt của Helen. Nhưng cha đã lạc đề - đó là phần sau của câu chuyện.
“Đằng sau ánh nắng chói chang và bụi bặm của đường phố là gian tiền sảnh mát mẻ của nhà trọ. Cha khoan khoái thả người xuống một chiếc ghế ở lối vào, mặc Helen đến liên hệ thuê hai phòng bằng thứ tiếng Pháp chuẩn xác nhưng kỳ quặc của cô ấy. Bà chủ nhà trọ - một phụ nữ Armenia rất mến khách và rõ ràng biết nhiều thứ tiếng - cũng không biết tên của khách sạn mà thầy Rossi đã từng ở trước đây. Có lẽ nó đã biến mất từ nhiều năm trước.
“Helen thích điều hành mọi việc, cha thầm nghĩ, vậy tại sao không để cô ấy được hài lòng? Một điều không được nói ra nhưng chắc chắn có sự đồng ý dứt khoát giữa hai người là sau này cha sẽ thanh toán mọi khoản chi phí. Cha đã rút hết tiền tiết kiệm tại ngân hàng ở quê nhà; thầy Rossi xứng đáng để cha làm mọi điều có thể, thậm chí nếu có phải thất bại. Nếu trường hợp đó xảy ra, cùng lắm cha cũng chỉ bị sạch túi khi về nhà. Cha biết Helen, một sinh viên nước ngoài, chắc hẳn chẳng mấy dư dả. Cha nhận ra hình như cô chỉ có hai bộ vest, chúng trông như được thay đổi bằng một loạt áo sơ mi được cắt may rất khéo. ‘Vâng, chúng tôi muốn thuê hai phòng riêng nhưng ở sát bên nhau,’ cô nói với người phụ nữ Armenia, một phụ nữ đứng tuổi nhưng trông vẫn rất có nét. ‘Anh tôi - mon frère - ronfle kinh khủng.’
“Ngay ở đoạn hấp dẫn này, cuộc nói chuyện của bọn ta đột nhiên bị cắt ngang vì sự xuất hiện của một cô gái trẻ, từ ngoài đường nhòm vào qua khung cửa sổ hình vòng cung. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy một người như vậy, ngoại trừ trong các bức hình, cha cho rằng cô là một người Gypsy; da cô màu sậm, nét mặt sắc cạnh, quần áo sáng màu lòe loẹt, mái tóc đen nhánh lòa xòa quanh cặp mắt huyền sắc lẹm. Có thể cô mười lăm hoặc cũng có thể là bốn mươi tuổi; không thể nào đoán được tuổi tác cô qua khuôn mặt gầy kia. Trong tay cô là những bó hoa vàng hoa đỏ, dường như cô muốn mời chúng ta mua chúng. Cô thảy vài cành hoa lên bàn chỗ cha ngồi, và cất tiếng hát một khúc chói tai mà cha không thể hiểu được. Helen trông có vẻ giận dữ còn Turgut thì khó chịu ra mặt, nhưng cô gái kia vẫn cứ trơ trơ. Cha rút ví ra định mua một bó hoa Thổ Nhĩ Kỳ tặng Helen - để mua vui thôi, dĩ nhiên - ả Gypsy đột nhiên quay phắt sang phía Helen, trỏ tay và rít lên. Turgut giật mình và Helen, bình thường chẳng biết sợ là gì, co rúm người lại.
“Việc này có vẻ làm cho Turgut nổi nóng; ông ta nhổm người lên và bắt đầu mắng ả Gypsy bằng một giọng phẫn nộ. Chẳng khó khăn gì để hiểu được ngữ điệu và cử chỉ của ông ta, rõ ràng ông ta muốn tống cổ ả đi bằng những lời đanh thép nhất. Ả nhìn chằm chằm vào bọn ta và đột ngột biến đi như khi xuất hiện, biến mất trong dòng khách bộ hành. Turgut ngồi xuống, giương mắt nhìn Helen, sau một lát ông lục tìm trong trong túi áo khoác, lấy ra một vật nhỏ, đặt xuống cạnh đĩa thức ăn của Helen. Đó là một hòn đá xanh dẹt, dài khoảng ba phân, hai màu trắng và xanh nhạt, trông giống một con mắt sống. Helen tái mặt khi nhìn thấy hòn đá và đưa ngón trỏ, tựa như bản năng, định chạm vào nó.
“ ‘Chuyện quái quỷ gì vậy?’ Cha không thể không cảm thấy bực mình khi trở thành kẻ ngoài cuộc về phương diện văn hóa như vậy.
“ ‘Cô ta nói gì vậy?’ Lần đầu tiên Helen lên tiếng với Turgut. ‘Cô ta nói tiếng Thổ hay tiếng Gypsy? Tôi chẳng hiểu gì cả.’
“Ông bạn mới của chúng ta tỏ ra ngần ngại, tựa như không muốn lặp lại lời nói của người phụ nữ kia. ‘Tiếng Thổ,’ ông ta thì thầm. ‘Tôi có thể nói với cô là chẳng hay ho gì. Những gì cô ta nói rất thô tục. Và kỳ lạ.’ Ông ta chăm chú nhìn Helen, với gì đó như một sự sợ hãi thoáng qua, cha nghĩ, trong đôi mắt nhân hậu của ông. ‘Cô ta sử dụng một từ mà tôi không muốn dịch ra,’ ông ta chậm rãi giải thích. ‘Còn sau đó, cô ta nói, “Cút khỏi đây, đồ con gái của lũ chó sói Rumani. Ngươi và lũ bạn bè ngươi mang theo lời nguyền rủa của ma cà rồng đến thành phố chúng ta.” ’
“Mặt Helen trắng bệch, và cha phải ngăn mình không nắm lấy tay cô. ‘Chỉ là một sự trùng hợp thôi,’ cha nhẹ nhàng an ủi, cô trừng mắt nhìn cha; cha đã nói quá nhiều trước mặt ông giáo sư.
“Turgut hết nhìn cha lại nhìn Helen. ‘Việc này quả thật rất kỳ lạ, những người bạn tử tế của tôi ạ,’ ông ta nói. ‘Tôi nghĩ chúng ta phải thảo luận thêm, không thể chần chừ được.’ ”
Tôi gần như ngủ gật trên ghế xe lửa, dù câu chuyện của cha vô cùng hấp dẫn với tôi; việc đọc hết tất cả các lá thư trong một lần đã khiến tôi thức suốt đêm, mệt lử. Một cảm giác hư ảo bao trùm lấy tôi, trong cabin tàu ngập tràn ánh nắng, tôi quay ra cửa sổ, nhìn những trang trại Hà Lan ngăn nắp vụt qua. Khi đến gần hoặc ra khỏi từng thị trấn, đoàn tàu lại cành cạch băng qua hàng loạt những vườn rau nhỏ bé, đang xanh mượt trở lại dưới bầu trời đầy mây, những khu vườn sân sau của hàng ngàn con người đang chăm nom công việc làm ăn của chính mình, nhà họ quay lưng về phía đường sắt. Những cánh đồng xanh mướt, một màu xanh bắt đầu, tại Hà Lan, vào đầu xuân và kéo dài cho đến tận khi tuyết rơi, được nuôi dưỡng bằng hơi ẩm của trời và đất, và bằng nước, lấp lánh ở mọi hướng nhìn. Chúng tôi đã bỏ lại phía sau một vùng mênh mông những dòng kênh cùng những cây cầu để lọt vào giữa đàn bò trên những cánh đồng cỏ được quy hoạch gọn gàng. Một cặp vợ chồng già đáng kính đang lững thững đạp xe theo con đường cạnh bên chúng tôi, chỉ lát sau đã biến mất tựa như đã bị những đồng cỏ đang hiện ra mỗi lúc một nhiều ấy nuốt chửng. Chẳng bao lâu, chúng tôi đã đến Bỉ, một đất nước tôi biết rõ, nhờ kinh nghiệm bản thân, rằng nếu chỉ ngủ quên một giấc ngắn thôi ta cũng có thể đi qua nó mà hoàn toàn không biết.
Tôi giữ chặt những lá thư trong lòng, nhưng hai mí mắt đã bắt đầu sụp xuống. Người phụ nữ có khuôn mặt dễ chịu trong ghế đối diện cũng đã ngủ gà ngủ gật, tạp chí vẫn cầm trong tay. Hai mắt tôi chỉ vừa mới khép lại thì cánh cửa cabin đột nhiên bật mở. Một giọng nói cáu kỉnh vang lên rồi một dáng người lêu nghêu chen vào giữa tôi và giấc mơ ban ngày của tôi. “Giỏi nhỉ! Biết ngay mà. Anh đã sục hết cả đoàn tàu để tìm em đấy.” Đó là Barley, anh đưa tay lên lau trán rồi quắc mắt nhìn tôi.
Chú thích:
1. Hiện là sân bay Quốc tế John F. Kennedy, New York (BT).
2. Tên đầy đủ ban đầu của nhà thờ này trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Nhà thờ Thánh trí của Chúa (The Church of HolyWisom of God). Santa Sophia hay Saint Sophia là cách gọi theo âm Latin của chữ Thánh trí (Holy Wisdom) trong tiếng Hy Lạp chứ không phải để chỉ một vị thánh tên là Sophia nào cả (BT).
3. Bosphorus: con kênh dài 32 km nối thông Biển Đen và Biển Marmara, phân cách giữa phần châu Âu và châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ.
Phần Hai
Tôi đã đến nơi đâu và đang ở _giữa hạng người nào? Cuộc phiêu lưu khắc _nghiệt nào mà tôi đang dấn thân vào? Tôi dụi _mắt, tự véo bản thân để xem mình đang tỉnh hay mê. _Đối với tôi, tất cả chuyện này dường như chỉ là một cơn _ác mộng kinh hoàng, tôi ước gì sẽ chợt tỉnh và thấy mình vẫn đang ở nhà, với ánh nắng ban mai đang len qua cửa sổ, như đôi khi tôi vẫn thấy vào buổi bình minh sau một ngày làm việc vất vả. Nhưng thịt da tôi có phản ứng với cái _nhói đau của cú véo thử nghiệm ấy, và đôi mắt tôi _chẳng thể bị đánh lừa. Tôi thật sự vẫn đang còn _tỉnh và đang ở giữa vùng rừng núi Carpates. _Tất cả những gì tôi có thể làm lúc này _là kiên nhẫn chờ bình minh đến.
- Bram Stocker, Dracula, 1897