Truy Tìm Dracula
Chương 7 :
Ngày đăng: 13:57 19/04/20
Nhiều tuần lễ sau cha đó, không rời khỏi Amsterdam, và suốt thời gian này tôi cảm thấy cha đã để mắt theo dõi tôi theo một kiểu cách mới. Một ngày kia, sau khi tan học, tôi về nhà trễ hơn thường lệ một chút và thấy bà Clay đang nói chuyện điện thoại với cha. Bà chuyển máy cho tôi ngay. “Con đã ở đâu vậy?” cha hỏi. Cha gọi từ phòng làm việc ở Trung tâm vì Hòa bình và Dân chủ. “Cha đã điện thoại lần thứ hai và bà Clay vẫn không thấy con. Con đã làm cho bà ấy lo sốt vó lên đấy.”
Cha lo sốt vó thì có, tôi có thể nói thế, dù cha đã cố gắng giữ giọng bình thản. “Con ngồi đọc sách tại một quán cà phê mới mở gần trường,” tôi trả lời.
“Được rồi,” cha tiếp tục. “Vậy lần sau nhớ gọi điện báo cho bà Clay hoặc cha biết nếu con về trễ, thế nhé.”
Tôi chẳng muốn đồng ý với ý kiến đó chút nào nhưng vẫn trả lời là sẽ gọi. Đêm đó, cha về nhà sớm để dùng bữa tối và đọc cho tôi nghe cuốn Những kỳ vọng vĩ đại. Sau đó, cha lấy ra một vài album ảnh và chúng tôi cùng xem: Paris, Luân Đôn, Boston, đôi giày trượt patanh đầu tiên, lễ tổng kết cuối năm lớp ba của tôi, rồi lại Paris, Luân Đôn, Rome. Bao giờ cũng chỉ có tôi, đứng trước Điện Pantheon hoặc trước cánh cổng thánh đường Cha Lachaise, bởi chỉ có hai chúng tôi và cha là người chụp hình. Chín giờ, cha kiểm tra tất cả cửa nẻo rồi để tôi đi ngủ.
Lần kế tiếp, khi về nhà trễ tôi đã gọi điện báo cho bà Clay, giải thích là tôi và vài người bạn cùng lớp sẽ cùng làm bài tập với nhau trong giờ uống trà. Bà bảo thế thì được. Tôi gác máy và một mình đến thư viện trường đại học. Bác Johan Binnerts, người thủ thư chuyên về các bộ sưu tập thời Trung cổ ở Amsterdam, giờ đã quen với sự có mặt của tôi, tôi nghĩ vậy; ít ra bác cũng nở một nụ cười nghiêm nghị mỗi lần tôi ghé qua với một câu hỏi mới, bác luôn hỏi thăm xem mấy bài tiểu luận lịch sử của tôi tiến triển thế nào rồi. Bác Binnerts đã tìm được cho tôi một đoạn trong một văn bản thế kỷ thứ mười chín mà tôi vô cùng vui mừng khi nhận được và đã bỏ thời gian ra chép lại nó. Hiện tại tôi đã có văn bản đó, trong phòng làm việc ở Oxford - vài năm sau, tôi lại tìm thấy cuốn sách đó trong một hiệu sách: cuốn Lịch sử Trung Âu của Huân tước Gelling. Bao nhiêu năm qua, tôi vẫn tha thiết gắn bó với cuốn sách, dù chưa bao giờ mở nó ra mà không mang theo mình một cảm giác trống rỗng, ảm đạm. Tôi nhớ như in cảnh tượng bàn tay của chính mình, bàn tay mềm mại và trẻ trung, chép những đoạn văn trong đó vào cuốn sổ học trò:
Ngoài việc biểu lộ tính độc ác tột cùng, Vlad Dracula còn rất can đảm. Một bằng chứng về sự táo bạo của ông ta: năm 1462, Dracula đã vượt sông Danube và tiến hành một cuộc đột kích ban đêm bằng kỵ binh vào ngay doanh trại nơi Quốc vương Mehmed II và quân đội của ông ta tập kết hòng tấn công Wallachia. Trong cuộc đột kích này, Dracula đã tàn sát hàng ngàn chiến binh Thổ Nhĩ Kỳ, và vị Quốc vương Hồi giáo chỉ thoát chết trong gang tấc khi lực lượng vệ binh đế quốc Ottoman đẩy lui được quân Wallachia.
Tuy có thể thu thập được một số lượng tương đương các tư liệu liên quan đến tên tuổi của bất kỳ vị đại lãnh chúa phong kiến nào trong thời đại của họ - lắm khi còn nhiều hơn trường hợp này, và ở một số ít trường hợp khác, số lượng tư liệu còn có thể vượt xa, nhưng điều vô cùng kỳ lạ về mảng thông tin có được về Dracula là tính bất tử của nó - tức là hắn đã không chịu chết đi như một nhân vật trong lịch sử, huyền thoại về hắn vẫn tiếp tục tồn tại dai dẳng. Một vài nguồn thông tin có giá trị ở Anh quốc đã trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến những nguồn tư liệu mà sự đa dạng của chúng hẳn sẽ khiến bất kỳ nhà sử học nào cũng đều phải nổi tính tò mò. Dracula có vẻ như đã khét tiếng ở châu Âu ngay thuở sinh thời của hắn - một thành tựu tuyệt vời trong những ngày mà châu Âu vẫn còn là một vùng rộng lớn và, theo tiêu chuẩn hiện tại của chúng ta, còn bị phân mảng chia cắt nặng nề, một thế giới mà các chính quyền phải liên lạc với nhau bằng những kỵ mã sứ giả và thuyền vận tải đường sông, ở vào thời điểm mà tính tàn bạo kinh hoàng là một đặc trưng bình thường của tầng lớp quý tộc. Sự khét tiếng của Dracula không kết thúc cùng cái chết bí ẩn của hắn và vụ mai táng kỳ lạ năm 1476, nhưng hình như nó cũng vẫn tiếp diễn không hề suy giảm cho đến khi tự tàn lụi trong ánh sáng rực rỡ của Thời Đại Khai Sáng ở phương Tây.
Mục viết về Dracula chấm dứt ở đó. Dù đã có khối việc liên quan đến lịch sử để lo nghĩ cả ngày, tôi vẫn lang thang đến bộ phận chuyên trách văn học tiếng Anh và vui sướng khi phát hiện ra thư viện có một cuốn Dracula của Bram Stoker. Thực ra sau đấy tôi còn lui tới đó đôi lần để đọc cuốn sách. Tôi không biết có được phép mượn sách ở đó mang về nhà hay không, nhưng dù được tôi cũng không muốn mang cuốn sách đó về nhà, vì chắc chắn tôi sẽ rất khó chọn lựa giữa việc giấu kín và việc thận trọng công khai cuốn sách trong nhà. Thay vì vậy, tôi đã ngồi đọc cuốn Dracula trên một chiếc ghế trượt, bên cạnh cửa sổ thư viện. Nếu thò đầu ra ngoài, tôi có thể nhìn thấy một trong những dòng kênh ưa thích của mình, kênh Singel, cùng với khu chợ hoa trên kênh và những người đang mua bánh mì cá trích ở một quầy hàng nho nhỏ. Đó là một vị trí rất ít người qua lại, sau lưng một kệ sách che khuất tôi khỏi tầm nhìn của các độc giả khác trong phòng.
Ở đó, trong chiếc ghế đó, tôi để mặc những câu chuyện kinh dị phong cách Gothic và tình ái phóng túng thời Victoria của Stoker thay phiên nhau xâm chiếm tâm hồn mình. Tôi không chắc lắm mình muốn gì từ cuốn sách; theo cha, giáo sư Rossi cho rằng cuốn sách này hầu như không phải là một nguồn thông tin hữu ích về nhân vật Dracula có thực. Tôi nghĩ, dù không giống gì nhiều với Vlad Ţepeş nhưng Bá tước Dracula lạnh lùng trong cuốn tiểu thuyết là một nhân vật hấp dẫn. Tuy nhiên, cũng chính giáo sư Rossi lại tin chắc rằng Dracula đã biến thành ma cà rồng, khi còn sống - trong suốt tiến trình lịch sử. Tôi băn khoăn tự hỏi liệu một cuốn tiểu thuyết có đủ năng lực làm cho một chuyện nào đó vô cùng kỳ quái biến thành có thực hay không. Xét cho cùng, giáo sư Rossi đã tiến hành công việc tìm tòi của mình rất lâu sau ngày cuốn Dracula được xuất bản. Vlad Dracula, mặt khác, lại là một thế lực độc ác sống ở cái thời cách gần bốn trăm năm trước khi Stoker ra đời. Quả thực rất phức tạp.
Chúng tôi chỉ nán lại vài phút rồi trở lại với con đường dẫn lên núi cao, con đường dẫn thẳng từ quảng trường lên ngôi nhà thờ trên đỉnh. Cha không đề cập gì đến việc mặt trời đang ngả bóng, nhưng tôi cảm thấy chúng tôi đang rảo bước thế này bởi ánh ngày sắp tắt, và chẳng ngạc nhiên khi thấy toàn bộ ánh sáng trên miền quê hoang dã này đã bỏ nó mà đi. Khi chúng tôi lên cao hơn, dãy Pyrénées hiện ra sừng sững, xanh thẫm trên đường chân trời, rồi hòa vào nền trời xanh đen. Quang cảnh nhìn từ chân tường nhà thờ thật hùng vĩ - không gây choáng váng như phong cảnh chúng tôi đã thấy ở những thị trấn Ý mà tôi tới giờ vẫn hằng mơ tưởng, nhưng rộng mênh mông: đồng bằng xen kẽ những ngọn đồi tập hợp nhau lại thành một vùng chân núi, rồi vùng chân núi giận dữ nhô vút lên thành những đỉnh chóp đen thẫm, che khuất cả một vùng trời xa. Ngay bên dưới chúng tôi, thị trấn đã lên đèn, mọi người đang cười nói rảo bước trên đường phố hay ngõ hẻm, một mùi hương giống như hương cẩm chướng tỏa lên từ những khu vườn hẹp có tường bao bọc chung quanh. Những chú chim nhạn lượn vào lượn ra trên ngọn tháp nhà thờ, chao liệng tựa như đang vẽ một cái gì đó vô hình bằng những sợi tơ trời. Tôi chú ý có một con chao cánh như say rượu giữa những con khác, tựa như nó không có sức nặng, vụng về chứ không nhanh nhẹn, và tôi chợt nhận ra đó là một con dơi đơn lẻ, chỉ nhìn rõ nhờ thứ ánh sáng chập chờn.
Cha thở dài, tựa vào tường, gác chân lên một tảng đá - một cây cột để buộc dây ngựa, hay cái bục để lấy thế leo lên lưng lừa đây nhỉ? Cha nói to băn khoăn này lên để tôi thấy ông vẫn bình thường. Dù là gì chăng nữa, hàng thế kỷ qua nó đã chứng kiến quang cảnh này, vô số buổi hoàng hôn thế này, sự đổi thay khá gần đây từ ánh nến sang ánh điện trong những quán cà phê và những đường phố có tường cao bao bọc. Cha đứng đó, có vẻ đã thoải mái trở lại sau một bữa ăn ngon và một cuốc tản bộ trong bầu không khí cực kỳ trong lành; nhưng tôi thấy có vẻ như cha cố tình tỏ ra thanh thản. Tôi không dám hỏi cha về phản ứng kỳ lạ của cha đối với câu chuyện mà viên quản lý nhà hàng kể, nhưng rõ ràng một cảm giác đã ập đến với tôi - rằng có thể cha từng gặp phải những chuyện còn kinh khủng hơn câu chuyện cha đã kể cho tôi nghe. Lần này, tôi không cần phải yêu cầu cha tiếp tục câu chuyện; dường như ngay lúc đó cha thích kể câu chuyện đó, hơn là một cái gì đó tồi tệ hơn.
Chú thích:
1. Tiếng Pháp: Thảo mộc.
2. Tiếng Pháp: Tôi hiểu, cám ơn ông.
3. Tiếng Pháp, Tây Ban Nha: cũng có nghĩa là Chào buổi chiều.
4. Basque: khu vực tự trị ở phía Bắc Tây Ban Nha, bao gồm ba tỉnh Álava, Guipúzcoa và Vizcaya; thủ phủ là thành phố Vitoria-Gasteiz, dân số hơn 2 triệu, diện tích 7.260 kilomet vuông.
5. Nguyên văn tiếng Pháp: món tráng miệng nhẹ bằng trái cây, chủ yếu bằng trái lê, do nữ hầu tước xinh đẹp Hélène người Pháp sáng chế.