Truy Tìm Dracula

Chương 8 :

Ngày đăng: 13:57 19/04/20


Ngày 13 tháng Mười hai năm 1930



Cao đẳng Trinity, Oxford



Người kế thừa thân mến và bất hạnh của tôi:



Hôm nay tôi cảm thấy có chút an ủi, bởi đây là ngày được đánh dấu trong niên lịch Công giáo để tôn vinh Thánh Lucia, thần ánh sáng, một nhân vật linh thiêng đã được các thương nhân Viking du nhập về quê hương họ từ miền Nam nước Ý. Cái gì có thể bảo vệ ta chống lại những sức mạnh của bóng tối - từ bên trong, từ bên ngoài và mãi mãi - tốt hơn ánh sáng và hơi ấm, khi ta đang đến gần với cái ngày ngắn nhất và lạnh lẽo nhất trong năm? Và bởi tôi vẫn còn đây, sau thêm một đêm mất ngủ. Liệu bạn có cảm thấy bớt bối rối khi tôi thổ lộ cùng bạn là hiện nay tôi chỉ có thể yên giấc với một xâu tỏi bên dưới gối, hoặc mang một dây chuyền có thánh giá nhỏ bằng vàng quanh cổ một kẻ vô đạo như tôi? Dĩ nhiên tôi không làm vậy, nhưng tôi sẽ để bạn hình dung ra những hình thức bảo vệ này, nếu bạn thích; chúng cũng có những thể thức tương đương về mặt tâm lý và tri thức. Ít nhất, tôi vẫn ngày đêm không rời những thể thức tương đương này.



Lại nói về công trình nghiên cứu của tôi: phải, mùa hè vừa qua tôi đã thay đổi kế hoạch đi lại của mình, bổ sung Istanbul vào đó, và thay đổi này chỉ vì tác động của một mảnh giấy da nhỏ bé. Tôi đã khảo sát mọi nguồn tư liệu có thể tìm thấy ở Oxford và Luân Đôn, và có thể có liên quan đến nhân vật Drakulya trong cuốn sách trắng trơn bí ẩn của mình. Tôi đã ghi chú vấn đề này thành một tập giấy, và bạn - người đọc không bình yên trong tương lai, sẽ tìm thấy chúng cùng với những lá thư này. Từ khi bắt đầu tới giờ, tôi vẫn ghi chú thêm một chút, sau này bạn sẽ thấy, tôi hy vọng chúng sẽ bảo vệ cũng như hướng dẫn cho bạn.



Đêm trước hôm khởi hành đi Hy Lạp, tôi đã có ý định từ bỏ công việc tìm kiếm vô nghĩa này, cuộc săn đuổi một biểu tượng ngẫu nhiên thấy trong một cuốn sách tình cờ tìm được này. Tôi hoàn toàn nhận thức rõ là mình đã theo đuổi công việc đó như theo đuổi một thách thức của số phận, mà số phận, xét cho cùng, là thứ thậm chí tôi còn chẳng hề tin; và rằng có lẽ tôi chỉ đang truy đuổi và đưa cái tên Drakulya mơ hồ và xấu xa kia ngược dòng lịch sử vì tính anh hùng rơm kiểu trí thức, để chứng tỏ rằng ta đây có thể phăng ra những dấu vết lịch sử của bất kỳ, bất kỳ điều gì. Thực ra, chiều hôm ấy, trong lúc gói ghém quần áo, kể cả chiếc mũ che nắng đã bạc màu, tôi gần như rơi vào một trạng thái bị ức chế đến mức hầu như muốn rũ bỏ hết thảy mọi chuyện.



Nhưng, như thường lệ, tôi đã chuẩn bị cực kỳ kỹ càng cho chuyến đi, tôi đã không hề chần chừ, và tôi vẫn còn một chút thời gian trước giấc ngủ sau cùng ở đây và chuyến tàu sáng. Tôi có thể xuống quán Golden Wolf để gọi một vại bia đen và xem anh bạn Hedges tốt bụng của mình có ở đấy hay không hoặc - ở đây, rủi thay tôi đã chệch ra khỏi hướng đi của mình, mặc dù không muốn - có thể ghé qua Phòng Sách Hiếm lần cuối cùng, nó mở cửa đến chín giờ. Tôi định xem một hồ sơ ở đó (mặc dù tôi ngờ là nó chẳng làm sáng tỏ được điều gì), một tư liệu được ghi từ thời đế chế Ottoman đã làm tôi chú ý vì liên quan đến đúng giai đoạn sinh thời của Dracula, bởi vì những tài liệu liệt kê trong đó, tôi đã biết, chủ yếu là từ giữa cho đến cuối thế kỷ mười lăm.



Tất nhiên, tôi biện luận với chính mình, tôi không thể cứ mãi săn tìm qua mọi nguồn tư liệu có từ giai đoạn đó ở khắp châu Âu và châu Á, việc này sẽ phải mất nhiều năm - thậm chí cả đời - mà tôi còn chưa thấy trước được cuộc săn lùng ngốc nghếch này có đem lại nổi dù chỉ một bài viết hay không. Nhưng tôi lại không vào quán rượu vui vẻ đó mà hướng về Phòng Sách Hiếm - một sai lầm đã khiến cho hơn một học giả khốn khổ phải chịu cảnh suy sụp trong đời.



Tôi tìm được tập hồ sơ không mấy khó khăn, gồm bốn hoặc năm cuộn giấy ngắn, mỏng, tác phẩm thời đế chế Ottoman, tất cả đều là một phần quà tặng cho trường đại học vào hồi thế kỷ mười tám. Mỗi cuộn đều được đóng bìa, ghi bằng chữ Ả-rập nghệ thuật. Một bảng miêu tả bằng tiếng Anh ở bìa tập hồ sơ cho thấy chắc chắn đó chẳng phải là một kho báu từ trên trời rơi xuống. (Tôi đề cập ngay đến tiếng Anh bởi tiếng Ả-rập của tôi quả thực chẳng ra làm sao cả, và tôi e là đến giờ nó cũng vẫn thế. Người ta chỉ có đủ thời giờ để học vài ngôn ngữ chính, trừ phi hy sinh mọi thứ khác để chuyên tâm về mặt ngôn ngữ). Ba cuộn giấy là những bản kê thuế thân thu từ người dân thành Anatolia của Quốc vương Mehmed II. Cuộn cuối cùng liệt kê thuế thu được từ các thành phố Sarajevo và Skopje, đã gần quê nhà hơn một chút, nếu bây giờ đối với tôi quê nhà là nơi cư ngụ của Dracula ở Wallachia, nhưng vẫn là một vùng xa xôi của đế quốc trong thời kỳ đó. Tôi thở dài, gom các cuộn giấy lại và nghĩ đến cuộc viếng thăm ngắn nhưng vui vẻ tại quán Golden Wolf mà tôi vẫn có thể thực hiện. Tuy nhiên, khi gom mớ giấy tờ để bỏ chúng trở lại trong hộp bìa cứng, mấy chữ trên bìa sau của cuộn giấy sau cùng bỗng đập vào mắt tôi.




“À, tôi buộc phải nói rằng việc đó chẳng dính dáng gì đến anh cả,” cô ta trả lời thẳng thừng, quay đi, “nhưng trong tương lai, tôi đang dự định một chuyến đi, dù chưa biết khi nào mới thực hiện.”



“Đến vùng núi Carpates?” Bất chợt, cha cảm thấy hồi hộp vì toàn bộ cuộc nói chuyện này.



“Không.” Cô ta ném cái từ đó vào mặt cha, giọng khinh miệt. Và rồi, tựa như không thể đừng được, nhưng vẫn tỏ vẻ khinh khỉnh đến độ cha không dám tiếp lời cô ta: “Đến Istanbul.”



“Lạy Chúa lòng lành,” đột nhiên cha ngẩng nhìn bầu trời đang ríu rít tiếng chim, cầu nguyện. Phía trên chúng tôi, những cánh nhạn cuối cùng đã về tổ, thị trấn với những ánh đèn le lói nặng nề khuất mình vào thung lũng. “Chúng ta không nên ngồi đây mãi, vì ngày mai còn cả một cuộc đi bộ leo núi nữa. Những người hành hương thường được khuyên đi ngủ sớm, cha chắc chắn vậy. Trời sắp tối rồi.”



Tôi đổi chân; một chân đã tê cứng dưới sức nặng cơ thể, những viên sỏi trong khuôn viên nhà thờ đột nhiên như sắc cạnh hơn, rất khó chịu, nhất là khi nghĩ đến cái giường ngủ ấm cúng đang chờ đợi phía trước. Chân tôi đau buốt trên đường về khách sạn. Nhưng đó chỉ là chuyện nhỏ so với cảm giác bực mình kinh khủng đang sục sôi trong tôi. Một lần nữa, cha lại dừng câu chuyện quá sớm.



“Nhìn kìa,” cha thốt lên, trỏ thẳng ra ngoài từ nơi chúng tôi tạm dừng lại. “Cha nghĩ chắc hẳn đó là tu viện Thánh Matthieu.”



Tôi dõi theo tay cha đến những ngọn núi đen kịt, chụm lại thành khối và nhìn thấy ở lưng chừng một đốm sáng nhỏ. Không có nguồn sáng nào khác xuất hiện gần đốm sáng đó; có vẻ như gần đó không người. Nó giống như hạt kim tuyến trên một tấm vải đen lớn, đốm sáng ở trên cao nhưng không gần sát những đỉnh cao nhất - nó lơ lửng giữa thị trấn và bầu trời đêm. “Đúng chỗ đó, chắc hẳn đó là tu viện, cha nghĩ vậy,” cha lại lên tiếng. “Và ngày mai chúng ta sẽ có một cuộc leo núi ra trò, ngay cả khi chỉ đi theo đường lộ có sẵn.”



Khi bước tiếp dọc theo những đường phố không ánh trăng, tôi cảm thấy lòng nặng trĩu nỗi buồn vì phải giã từ cảnh núi trời bao la bát ngát. Trước khi quẹo ở một góc tháp chuông cũ, tôi liếc nhìn lui một lần nữa, ghi nhớ cái vị trí đốm sáng bé nhỏ vào tâm trí. Vẫn là nó, mờ mờ phía trên bức tường một ngôi nhà phủ đầy hoa giấy. Đứng lặng yên một lát, tôi nhìn trừng trừng vào đốm sáng. Rồi, bỗng nhiên, nó nhấp nháy.