Vương Quốc Bí Ẩn

Chương 5 : Chiếc nhẫn

Ngày đăng: 15:17 19/04/20


Một cuộc phiêu lưu tuyệt vời đã bắt dầu. Timoken và Zobayda đã đi lang thang qua khắp cả Bắc Phi trong hơn một trăm năm. Bằng ngón tay phép thuật của mình, Zobayda biến ra nhiều trang sức khác từ những trang sức mà họ lấy được trong chiếc rương của vị thương gia, vì vậy mà họ và cả Gabar không bao giờ bị đói.



Tuy nhiên, con lạc đà không phải lúc nào cũng nghe lời. Thỉnh thoảng, nó không muốn bay. Nó lý giải rằng: “Thật không công bằng khi bay trước mặt những con lạ đà khác.” Chúng sẽ không hài lòng khi thấy một con cùng loài với mình có thể bay trên trời. Lạc đà thì không làm thứ việc đó. Còn cuộc sống thì quá phức tạp đối với Timoken và Zobayda, thường xuyên bay lên cao chính là cách duy nhất để họ có thể trốn thoát.



Những cuộc thám hiểm bao giờ cũng thú vị, nhưng nguy hiểm rình rập khắp nơi khi hai đứa trẻ du hành một mình và luôn tìm cách đổi những viên ngọc quý lấy thức ăn và quần áo. Chúng thường xuyên gặp phải những kẻ cướp, bị truy đuổi bởi những tên bắt cóc và chúng thoát được những mũi dao phóng về phía chúng trong gang tấc. Và còn bọn viridee nữa, chúng ẩn nấp ở tất cả mọi nơi, từ bóng cây, giếng nước cho đến những hang động và những nơi tối tăm khác. Chúng luôn sẵn sàng xông tới, những cánh tay dài sẽ túm chặt bọn trẻ, những cái lưỡi sẽ thè ra quất vào hai chị em và cả con lạc đà.



Những lúc như thế, Timoken phải kéo mạnh dây cương và túm lấy lông của nó, gào lên: “Bay lên nào, Gabar, bay lên nào!”



Gabar bao giờ cũng liếc nhanh xung quanh mình, để chắc rằng không có con lạc đà nào đang ở gần đó. Nêu thấy có con lạc đà nào đang nhìn, nó sẽ hét lên: “Chưa được rồi!” Và rồi bọn trẻ sẽ phải nín thở chờ đợi, cho đến khi con lạc đà chịu cho hai người nhấc bay lên trời.



Đêm nào, Timoken và Zobayda cũng đắp tấm tơ nhện để ngủ. Họ gọi đó là áo choàng mặt trăng và tin chắc rằng mình sẽ được an toàn dưới những sợi tơ của nó. Những lúc không sử dụng được tấm mạng nhện, Zobayda sẽ dùng ngón tay phép thuật của mình để thoát hiểm. Cô run sợ, tức giận và cuống quýt lên mỗi khi có ai đó bắt được Timoken hay Gabar, rồi cô chỉ cần chỉ ngón tay vào kẻ địch, hắn sẽ văng ra xa và hét lên trong sợ hãi, đau đớn.



Không phải tất cả những người họ gặp đều là kẻ xấu. Họ vẫn thường gặp những người thật tốt bụng. Những người mang cho họ thức ăn mà không lấy tiền, hay cho họ một cái giường an toàn trong căn nhà ấm áp và thân thiện. Khi ấy, hai đứa bé mồ côi lại nghĩ đến việc tìm kiếm một tổ ấm ở một thành phố nào đó. Nhưng ngày hôm sau, họ lại tiếp tục bị truy bắt và hành hạ, và họ lại phải quên đi giấc mơ ấy.



Cho đến một ngày nọ, Zobayda nói: “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm thấy nhà của mình ở những thành phố đáng sợ như vậy, chị thật sự mệt mỏi vì lúc nào cũng phải chạy trốn, chị luôn lo lắng đến thắt cả tim và không thở được.”



Timoken nhìn chị mình, vẫn mười ba tuổi sau hơn một trăm năm lang thang. Cậu mân mê những ngón tay nhỏ của mình và nói: “Nếu chúng ta già đi như người bình thường, thì có lẽ họ đã để chúng ta yên.”



Zobayda lắc đầu: “Nhớ những gì mẹ nói chứ. Chúng ta không được phép lớn lên trước khi tìm thấy ngôi nhà thật sự của mình.” Giọng Zobayda kiên quyết khiến Timoken không thể tranh cãi điều gì.



Họ quyết định tạm tránh xa các thành phố và bắt đầu đi vào những vùng đất khô cằn đầy bụi rậm ở rìa sa mạc. Những người dân du mục đã dạy cho họ biết cách buộc vải lên đầu và mặt để tránh những trận bão cát và họ cũng được học cách chịu đựng cái nóng và thiếu tiện nghi của sa mạc. Họ có thể nhìn thấy những khu rừng rậm, dù Gabar có thể tiến xa đến những con suối chảy ra từ rừng cây, nhưng có lẽ nó không muốn đi xa hơn nữa. Nó sợ bóng tối, những cái bóng lướt đi trong rừng và cả những tiếng kêu kỳ quái của chim và khỉ. Có lẽ nó đánh hơi thấy có sự hiện diện của bọn viridee ở đây.



Bọn viridee không bao giờ để mất dấu Timoken và chị của cậu. Chúng làm đủ mọi cách chỉ để lấy áo choàng mặt trăng. Chúng giả thành những người lái buôn, ăn xin và cả những con quái vật để truy đuổi bọn trẻ, nhưng với sức mạnh của áo choàng mặt trăng, mọi nỗ lực của chúng đều thất bại.



Chúa Tể Degal nảy ra một ý nghĩ. Nếu như ngón tay của đứa con gái không còn phép thuật, thì nó sẽ bị bắt dễ dàng. Và để cứu được chị mình, đứa con trai sẽ phải giao nộp tấm tơ nhện và lọ nước.



“Phép thuật là từ chiếc nhẫn của nó,” Chúa Tể Degal nói. “Đó chính là vật đang bảo vệ nó. Chúng ta phải lấy bằng được chiếc nhẫn.”



Hắn cho gọi ca sĩ hay nhất của chúng, một tên viridee có giọng hát không ai có thể cưỡng lại được. Chúa Tể Degal ra lệnh cho ca sĩ của mình luyện tập âm thanh ngọt ngào của dòng suối.


“Rồi cậu sẽ cần tôi mà! Cậu sẽ thấy!” giọng van nài thì thầm.



Bỗng nhiên, hàng loạt tiếng động vang lên sau lung Timoken, cứ như tất cả sinh vật trong khu rừng cùng đồng thanh với chiếc nhẫn: “Cậu sẽ cần! Cậu sẽ cần! Cậu sẽ cần!”



“Xin hãy giữ lấy tôi! Xin giữ lấy tôi!” chiếc nhẫn kêu lên.



Hàng ngàn tiếng chim hót, tiếng hú, tiếng sủa lại vang vọng: “Hãy giữ lấy chiếc nhẫn! Hãy giữ lấy chiếc nhẫn!”



Timoken thả tay xuống. Cậu quay lại nhìn khu rừng bằng ánh mắt ngạc nhiên. “Ngươi có nghe thấy không?” cậu hỏi con lạc đà.



“Hãy giữ chiếc nhẫn,” Gabar khuyên cậu.



Timoken thì thầm: “Vâng, ta sẽ giữ nó lại!”



Cậu đeo chiếc nhẫn vào ngón tay giữa của bàn tay trái. Gương mặt nhỏ bé biểu lộ vẻ nhẹ nhõm, nó nhẹ nhàng nhắm mắt lại.



Timoken bước xuống tảng đá màu đen, tựa đầu vào cái cổ bờm xờm của Gabar. “Chúng ta sẽ phải làm gì khi không có chị ấy đây?” cậu khóc òa lên.



Gabar vẫn chưa hiểu được tất cả mọi cảm xúc của con người, nhưng nỗi buồn trong giọng nói của Timoken như đã làm cho nó thật sự xúc động, và con lạc đà ngạc nhiên khi cảm nhận giọt nước mắt ứa ra, lăn dài trên mặt nó. Tuy nhiên, nó cũng có những mối quan tâm riêng trong lòng. “Chúng ta nên rời khỏi khu rừng này thôi,” nó vỗ về.



“Chưa được,” Timoken thổn thức trong nước mắt. “Chưa được đâu!” Theo phong tục của những người dân vương quốc bí ẩn, khi vào rừng và gặp nỗi đau buồn lớn như thế này thì phải ở lại đó cho tới khi nỗi buồn ấy vơi đi. Khoảng thời gian đó có thể là một năm, hay cũng có thể đến mười năm.



Timoken lau nước mắt, cậu đi qua những khóm cây, Gabar ngoan ngoãn theo sau. Timoken không thể ngăn được những dòng nước mắt cứ trào ra từ khóe mắt mình, cậu cứ xăm xăm đi về phía trước cho đến khi màn đêm buông xuống. Cậu không thể dừng lại nghỉ ngơi. Cậu cũng không thể ăn hay uống. Nỗi buồn như tảng đá đen cứ đè nặng trên vai cậu, cậu không thể nào thoát khỏi nó được.



Họ vẫn tiếp tục đi trong đêm tối. Trước đây, những đàn dơi bay lượn phía trên đầu mình vào ban đêm đã làm cho Timoken rất thích thú, nhưng giờ đây, với đôi mắt sưng húp của cậu, chúng chỉ mờ ảo như những hạt bụi bay lơ lửng trên bầu trời. Tiếng kêu của những con cú mèo, ngày xưa, đã từng khiến cậu say mê lắng nghe, bây giờ đối với cậu không khác gì tiếng lá xào xạc.



Họ cắm cúi đi cho tới khi rạng sáng. Khi ánh nắng và tiếng chim hót rộn rã cả khu rừng, Timoken chợt nhận ra có điều gì đó không ổn. Cậu giật mình quay đầu ngoảnh nhìn lại.



Gabar không còn đi cùng cậu từ lúc nào.