[Dịch] Witcher Saga #2: Time of Contempt

Chương 3 : CHƯƠNG I.III

Ngày đăng: 23:11 07/05/20

Người luật sư im lặng trong một lúc, tay nghịch ngợm ngôi sao bằng sắt.
“10 phần trăm,” cuối cùng anh ta nói.
“10 phần trăm của cái gì?”
“Đừng xúc phạm tôi, witcher. Đây là một vấn đề hệ trọng. Tôi ngày càng cảm thấy không chắc chắn về những điều đang xảy ra, và khi mọi thứ không chắc chắn thì tiền sẽ là thứ chắc chắn nhất. Thế nên tôi muốn phần trăm hơn là một lượng nhất định. Anh sẽ đưa tôi 10 phần trăm những gì anh kiếm được từ vụ này, trừ đi số đã trả rồi. Chúng ta có thỏa thuận không?”
“Không. Tôi không muốn anh bị lỗ. 10 phần trăm của không gì cả tương đương với không gì cả, Codringher. Tôi, thưa bạn đồng nghiệp thân mến à, chẳng kiếm được gì từ vụ này hết.”
“Tôi đã bảo là đừng xúc phạm tôi mà lại. Tôi không tin là anh làm việc này không phải vì tiền. Tôi không tin là đằng sau nó không có....”
“Tôi đếch quan tâm anh tin cái gì. Chẳng có thỏa thuận nào cả. Và không phần trăm gì hết. Hãy quyết định giá cả cho thông tin đi.”
“Nếu phải một người khác,” Codringher ho, “thì tôi đã quẳng ra ngoài cửa vì tội dám lừa tôi rồi. Nhưng sự hào phóng ngây thơ và cao quý đến vậy rất thích hợp với một witcher cổ lỗ sĩ như anh. Thật đúng là anh, cổ điển một cách đẹp đẽ và thảm hại....liều mạng chẳng để làm gì...”
“Đừng phí thời gian nữa. Bao nhiêu, Codringher?”
“Gấp đôi. Tổng cộng là 500.”
“Rất tiếc,” Geralt lắc đầu, “là tôi không có số tiền đó. Ít nhất là trong lúc này.”
“Nếu vậy, tôi xin đề nghị lại lời mời ban đầu của tôi khi chúng ta gặp nhau,” người luật sư nói điềm tĩnh, vẫn đang chơi với ngôi sao. “Hãy làm việc với tôi và anh sẽ trả được tất cả. Thông tin và những thứ xa xỉ khác.”
“Không, Codringher à.”
“Tại sao không?”
“Anh sẽ không hiểu được đâu.”
“Lần này thì anh không làm tổn thương trái tim tôi, mà là lòng tự kiêu của tôi. Bởi vì tôi tự hào là mình luôn hiểu được mọi thứ. Nền tảng công việc của chúng ta là sự hiểm ác, vậy mà anh vẫn cứ thích những quan điểm lỗi thời hơn là hiện đại.”
Witcher mỉm cười.
“Chính xác.”
Codringher lại bắt đầu ho, lau miệng và mở đôi mắt màu vàng-xanh ra.
“Anh đã ngó qua danh sách các pháp sư để trên bàn chưa? Những kẻ mà có thể là sếp của Rience ý?”
“Tôi xem rồi.”
“Tôi sẽ không đưa nó cho anh cho đến khi kiểm tra thật kỹ lưỡng đã. Đừng quá tin những gì viết trên đó. Dandelion bảo tôi có thể Philippa Elihart biết ai đang đứng sau Rience, nhưng đã từ chối chia sẻ thông tin đó với anh. Philippa sẽ không nhọc công để bảo vệ bất kỳ thằng khốn ất ơ nào đâu. Chắc hẳn phải là một ai đó rất vai vế đứng sau chuyện này.”
Witcher im lặng.
“Hãy cẩn thận đấy, Geralt. Anh đang gặp nguy hiểm trầm trọng. Ai đó đang chơi trò chơi với anh. Ai đó đang theo dõi từng bước di chuyển của anh, thậm chí là chỉ hướng cho chúng nữa. Đừng để sự kiêu ngạo và tự tin làm mờ mắt. Kẻ đang đùa giỡn với anh chẳng phải là một con striga hay ma sói đâu. Chẳng phải anh em nhà Michelet. Thậm chí chẳng phải là Rience. Đứa Trẻ Mang Dòng Máu Cổ Xưa cái mẹ gì chứ. Như thể ngai vàng, pháp sư, các vị vua rồi Nilfgaard vẫn còn chưa đủ, giờ còn thêm cả elves nữa. Hãy dừng trò chơi này lại đi, witcher. Hãy phá hỏng kế hoạch của chúng bằng cách làm gì đó bất ngờ. Ngay lập tức chấm dứt mối quan hệ điên khùng này lại, đừng để ai liên hệ anh với Cirilla. Cứ mặc cô bé cho Yennefer, quay trở lại Kaer Morhen đi và đừng ló mặt ra ngoài. Hãy trốn trên núi trong khi tôi kiểm tra các văn bản của elves, cẩn thận, từ từ, không vội vàng. Và một khi tôi đã có thông tin về Dòng Máu Cổ Xưa và tên pháp sư, anh đã có đủ tiền và chúng ta sẽ trao đổi.”
“Tôi không đợi được. Con bé đang gặp nguy hiểm.”
“Quả thật. Nhưng tôi cũng biết rằng có kẻ tin anh là một vật cản trên đường tới chỗ cô bé. Một chướng ngại vật phải bị hủy bỏ. Vì thế nên anh mới là người đang gặp nguy hiểm ở đây. Chúng chỉ có thể tóm được cô bé sau khi đã trừ khử anh.”
“Hoặc là sau khi tôi dừng cuộc chơi và rút lui về Kaer Morhen. Tôi đã trả anh quá nhiều tiền, Codringher à, không có lời khuyên nào hữu ích hơn sao?”
Người luật sư xoay ngôi sao trên tay lại.
“Vì số tiền mà anh đã trả cho tôi hôm nay. Tôi đã làm việc tích cực trong một thời gian dài rồi đấy, witcher.” anh ta vừa nói vừa ho. “Những lời khuyên tôi cho anh đã được cân nhắc rất cẩn thận. Trốn ở Kaer Morhen đi, hãy biến mất. Và rồi những kẻ đang lùng sục Ciri sẽ tóm được con bé.”
Đôi mắt của Geralt nheo lại và anh mỉm cười. Gương mặt Codringher không hề biến sắc.
“Tôi biết mình đang nói cái gì,” anh ta nói, nhìn thẳng vào mắt Geralt. “Kẻ thù của Ciri sẽ tìm thấy con bé và làm những gì mà chúng muốn. Trong khi cả anh và con bé đều an toàn.”
“Làm ơn hãy giải thích đi. Nhưng nhanh lên.”
“Tôi đã tìm thấy một đứa bé gái. Một trẻ mồ côi do chiến tranh từ một gia đình quý tộc ở Cintra. Con bé đã ở trại tị nạn một thời gian và bây giờ đang may vá quần áo ở Brugge, được một thợ may nhận nuôi. Con bé không có gì đặc biệt lắm. Ngoại trừ một điều. Nó khá giống với một người trong bức chân dung của Sư Tử Con của Cintra....anh có muốn xem ảnh con bé không?”
“Không, Codringher à. Tôi không muốn. Và tôi sẽ không đồng ý với việc này đâu.”
“Geralt.” người luật sư nhắm mắt lại. “Nói tôi nghe đi, điều gì đã khiến anh quyết định như vậy? Nếu muốn cứu Ciri của mình....thì anh không thể tỏ ra khinh miệt. Không, xin lỗi. Anh không thể khinh miệt sự khinh miệt. Thời đại khinh miệt đang đến, bạn đồng nghiệp à, một thời đại khinh miệt khủng khiếp và không giới hạn. Anh bắt buộc phải hòa nhập với nó. Đề nghị của tôi rất đơn giản. Một người phải chết, để kẻ khác được sống. Một kẻ mà anh yêu thương. Một cô bé khác sẽ chết, một đứa trẻ mà anh không quen biết, chưa nhìn thấy bao giờ, người mà....”
“Người mà tôi có thể khinh miệt?” witcher cắt lời. “Tôi phải trả giá cho những gì mà tôi yêu quý bằng sự khinh rẻ của bản thân hay sao? Không, Codringher à. Hãy để mặc đứa trẻ đó, cứ để cô bé tiếp tục may vá quần áo. Phá hủy bức ảnh. Hãy đốt nó đi. Và với 250 crown mà anh đã cất vào ngăn kéo, hãy cho tôi thứ gì đó khác. Thông tin. Yennefer và Ciri đã rời Ellander. Tôi chắc là anh biết điều đó. Tôi chắc là anh biết họ đang đi đâu. Tôi chắc là anh biết ai đang bám theo họ.”
Codringher gõ gõ ngón tay lên bàn và ho sù sụ.
“Con Sói, không hề suy chuyển bởi lời cảnh báo, vẫn muốn đi săn,” anh ta nói. “Không thể thấy rằng mình mới là kẻ bị săn, rằng mình đang chạy thẳng vào cái bẫy được những thợ săn đích thực đặt ra.”
“Đừng bóng gió làm gì. Nói thẳng vào vấn đề đi.”
“Như anh muốn. Không khó để biết rằng Yennefer đang trên đường đến đại hội các pháp sư, sẽ được tổ chức ở Garstang trên đảo Thanedd vào đầu tháng 7. Cô ấy đang di chuyển rất từ tốn, không dùng đến ma thuật, nên rất khó để theo dấu. Yennefer vẫn còn ở Ellander một tuần trước nên tôi đoán cô ấy sẽ phải mất 3 đến 4 ngày để tới Gors Velen, chỉ cách Thanedd mấy bước chân. Trên đường đến Gors Velen cô ấy sẽ phải đi qua làng Anchor. Nếu anh khởi hành ngay bây giờ thì sẽ có thể loại được những kẻ đang bám đuôi cô ấy. Bởi vì quả thực là cô ấy đang bị bám đuôi.”
“Tôi hy vọng,” Geralt mỉm cười độc địa, “rằng đó không phải là các đặc vụ hoàng gia?”
“Không,” người luật sư nói, ngắm nghía ngôi sao sắt. “Đó không phải là các đặc vụ. Nhưng cũng không phải là Rience, kẻ mà thông minh hơn anh nhiều bởi vì hắn đã không còn chường mặt ra nơi công cộng sau vụ anh em nhà Michelet nữa. Yennefer đang bị ba tên lính đánh thuê bám theo.”
“Tôi đoán là anh biết chúng là ai?”
“Tôi biết tất cả mọi người. Thế nên lời khuyên của tôi như sau: đừng động đến chúng. Đừng đến Anchor. Tôi sẽ tận dụng các mối quan hệ của mình. Tôi sẽ cố mua chuộc bọn chúng và đảo ngược lại hợp đồng. Nói theo cách khác, tôi sẽ cử chúng đi theo dõi Rience. Nếu thành công....”
Anh ta ngừng lại bất chợt và ném ngôi sao sắt. Món vũ khí rít lên trong không trung và cắm thẳng vào bức tranh, ngay giữa trán của ngài Codringher Cha.
“Hay nhỉ?” người luật sư cười. “Nó gọi là phi tiêu. Một phát minh đến từ phía bên kia đại dương. Tôi đã tập trong suốt một tháng rồi và gần như luôn trúng. Có thể rất hữu dụng. Trong khoảng 30 mét nó có thể rất lợi hai và còn dễ giấu trong găng tay hay mũ. Đặc Nhiệm của Nilfgaard bắt đầu sử dụng chúng từ năm ngoái. Ha ha, nếu quả thực là Rience đang do thám cho Nilfgaard thì sẽ rất mỉa mai nếu xác hắn được tìm thấy với một cái phi tiêu cắm vào sọ.....Anh có nghĩ vậy không?”
“Tôi không. Anh mới là người phải suy nghĩ ở đây. Anh mới là người với 250 crown cất trong ngăn kéo.”
“Chắc rồi,” Codringher gật gù. “Tôi cho rằng anh sẽ để tôi tùy ý hành động trong chuyện này. Vậy thì hãy tưởng niệm cái chết của Rience bằng một phút im lặng nào. Sao lại cau có thế, mẹ kiếp? Anh không tôn trọng cái chết à?”
“Tôi không đứng yên nổi trong khi mấy thằng ngốc khác đang chế giễu nó. Anh đã bao giờ suy ngẫm về cái chết của mình chưa, Codringher?”
Người luật sư lại ho và nhìn vào cái khăn tay.
“Rồi,” anh nói khẽ. “Rất nhiều là đằng khác. Nhưng đó không phải việc của anh, witcher. Anh có định đến Anchor không?”
“Có.”
“Ralf Blunden, còn được gọi là “Giáo Sư”. Heimo Kantor. Yaxa “lùn”. Những cái tên đó có quen không?”
“Không.”
“Tất cả bọn chúng đều rất giỏi. Giỏi hơn anh em nhà Michelet. Tôi gợi ý một loại vũ khí tốt hơn. Như những ngôi sao của Nilfgaard. Tôi có thể bán cho anh mấy cái. Tôi có rất nhiều.”
“Tôi không hứng thú. Chúng không thực tế lắm. Quá nhiều tiếng động.”
“Tiếng động có thể gây ra tổn thương tâm lý. Chúng có thể làm nạn nhân tê liệt vì sợ.”
“Có thể. Nhưng chúng cũng có thể báo động. Tôi có thể né được.”
“Nếu anh nhìn thấy cú ném thì có thể. Tôi biết anh né được lao....nhưng từ sau lưng thì....”
“Kể cả từ sau lưng.”
“Nhảm nhí.”
“Thế cá đi,” Geralt lạnh lùng nói. “Tôi sẽ quay mặt về phía ông già đần độn của anh và anh sẽ ném cái phi tiêu về phía tôi. Nếu trúng thì anh thắng, nếu không thì anh thua. Nếu thua, anh sẽ phải giải mã các văn bản của elves. Anh sẽ tìm thông tin về Đứa Trẻ Mang Dòng Máu Cổ Xưa. Nhanh chóng. Và được trả tiền.”
“Thế nếu thắng?”
“Anh cũng cứ làm như vậy và đưa kết quả cho Yennefer. Cô ấy sẽ trả anh tiền. Đằng nào thì anh cũng có lợi.”
Codringher mở ngăn kéo và lấy ra một cái phi tiêu khác.
“Anh hy vọng rằng tôi sẽ không chấp nhận thử thách.” Đó là một câu tường thuật, không phải câu hỏi.
“Không.” Witcher mỉm cười. “Tôi chắc chắn là anh sẽ nhận.”
“Anh quả là liều lĩnh đấy. Anh quên rồi sao? Tôi làm gì có lương tâm.”
“Tôi không quên. Sau cùng thì, thời đại khinh miệt đang đến và anh lúc nào chả đi theo xu thế. Nhưng tôi cũng nhớ những gì anh nói về sự ngây thơ cổ lỗ sĩ của tôi nên lần này tôi sẽ đánh liều mà không được cái gì cả. Thế nào?”
“Được thôi.” Codringher cầm ngôi sao và đứng dậy. “Trí tò mò của tôi luôn thắng lý lẽ và lòng nhân từ. Quay lại đi.”
Witcher quay đi. Anh nhìn vào bức chân dung rồi nhắm mắt lại.
Ngôi sao rít lên và cắm vào bức tường cách khung tranh 10 phân.
“Trời ơi!” Codringher la lên. “Đồ con hoang, anh thậm chí còn không giật mình!”
Geralt quay lại và mỉm cười. Một cách nham hiểm.
“Tại sao tôi lại phải giật mình? Tôi có thể nghe thấy anh cố tình nhắm trượt mà.”
***
Quán trọ hoang vắng. Trên một cái ghế trong góc nhà là một người phụ nữ với cặp mắt thâm quầng đang ngồi. Khẽ quay sang một bên, cô ta đu đưa đứa trẻ trong tay. Một người đàn ông, rất có thể là chồng cô ta, ngủ gật bên cạnh, vai tựa vào tường. Trong bóng tối phía sau lò sưởi, một bóng người ngồi đó mà Aplegatt không thể nhìn rõ được.
Người chủ quán trọ ngẩng đầu lên, trông thấy Aplegatt và sau khi nhận ra đồng phục cùng với quốc kỳ của Aedirn trên ngực anh thì nhăn mặt một lúc. Aplegatt đã quá quen với kiểu chào mừng này rồi. Anh là một sứ giả hoàng gia, và vì thế nên có quyền đòi hỏi một con ngựa hoàn toàn mới. Sắc lệnh của nhà vua rất rõ ràng: ở mọi ngôi làng, thị trấn và quán rượu, các sứ giả hoàng gia đều có quyền đòi một con ngựa mới, và thật bất hạnh cho kẻ nào dám trái lệnh. Các sứ giả, đương nhiên là sẽ để con ngựa cũ của họ lại và trình ra một tờ hóa đơn cho con ngựa mới mà các chủ quán có thể đem đến cho thị trưởng để đòi bồi thường. Nhưng mọi việc có thể diễn ra rất khác. Do vậy, các sứ giả luôn bị nhìn với ánh mắt ghê sợ và nghi hoặc: anh ta có làm hay không? Liệu anh ta có đem Precious của mình vào chỗ chết không? Hay con Sparrow bé nhỏ, chỉ vừa mới cai sữa? Hay con Quạ Nhỏ yêu dấu? Aplegatt đã nhìn thấy rồi, trẻ con nức nở khi con ngựa yêu thích của chúng bị đeo yên cương và dẫn ra khỏi chuồng, bám dính lấy bạn chơi của mình. Anh đã thấy quá nhiều gương mặt của những người lớn biến sắc trước sự bất công, và bất lực của họ.
“Tôi không cần một con ngựa mới,” anh nói cộc cằn, có cảm giác người chủ quán vừa mới thở phào nhẹ nhõm. “Tôi chỉ cần ăn thôi, bởi vì đi đường mệt quá. Có món gì trong cái nồi đó không?”
“Còn lại một ít súp, tôi sẽ mang ra ngay, ngồi xuống đi. Anh có định ở lại không? Trời sắp tối rồi đó.”
Aplegatt suy nghĩ một lát. Hai ngày trước anh đã gặp Hansom, một sứ giả khác mà anh quen biết, và như mọi khi, họ trao đổi về công việc. Hansom đang mang các lá thư và thông điệp đến cho vua Demavend, và anh ta đang đi rất nhanh xuyên qua Temeria và Mahakam, về phía Vengerberg. Còn về phần Aplegatt, đang phải mang thư đến cho vua Vizimir của Redania, anh tiếp tục hướng về Oxenfurt và Tretogor. Anh vẫn còn phải đi hơn 300 dặm đường nữa.
“Tôi sẽ ăn và sau đó lên đường luôn,” anh quyết định. “Đang đêm trăng tròn và đường đi rất sáng sủa.”
“Tùy anh thôi.”
Món súp rất loãng và nhạt, nhưng người đưa thư không để ý lắm. Ở nhà, anh tận hưởng những món ăn của vợ mình, còn khi đi làm, anh ăn những gì có thể ăn được. Anh dùng bữa từ tốn, tay giữ chiếc thìa một cách kỳ quặc vì các ngón tay vẫn còn cứng do phải cầm dây cương khá lâu.
Con mèo đang ngủ trên chiếc ghế bành gần lò sưởi bỗng ngẩng đầu dậy và rít lên.
“Sứ giả của đức vua à?”
Aplegatt rùng mình. Câu hỏi đến từ một người đàn ông mà phút trước vẫn đang ngồi trong bóng tối, giờ đây đã ở ngay cạnh anh. Mái tóc anh ta trắng như sữa, được buộc bằng một dải băng da, và anh ta mặc một chiếc áo khoác đen đính bạc, cùng một đôi ủng đi đường. Phía trên vai phải ló ra chuôi thanh kiếm mà anh ta đeo sau lưng.
“Anh đi về đâu?”
“Bất cứ đâu mà đức vua bảo tôi đi,” Aplegatt lạnh lùng đáp lời.
Anh chưa bao giờ trả lời những câu hỏi như vậy theo cách nào khác.
Người đàn ông tóc trắng im lặng trong một lúc, chăm chú quan sát người đưa thư. Gương mặt anh ta trắng bệch một cách dị thường với đôi mắt đen lạ lùng.
“Đức vua,” cuối cùng anh ta nói, giọng có đôi chút khó chịu, khàn khàn, “chắc hẳn yêu cầu anh phải khẩn trương. Không nghi ngờ gì là anh rất nóng lòng để lên đường.”
“Và thế thì có liên quan gì đến anh? Anh là ai mà giục tôi?”
“Tôi không là ai cả,” người đàn ông tóc trắng đáp lời với một nụ cười khinh khỉnh. “Và tôi không có giục anh. Nhưng nếu tôi là anh thì tôi sẽ rời khỏi đây nhanh nhất có thể. Tôi không muốn có chuyện gì xấu xảy ra với anh.”
Với một câu nói như vậy, Aplegatt có một câu trả lời nữa mà anh cũng đã dùng rất nhiều. Ngắn gọn và nhẹ nhàng. Điềm tĩnh, và không gây bất kỳ hiểu lầm nào từ cấp trên của người đưa thư và hình phạt sẽ đổ xuống đầu bất kỳ kẻ nào dám đụng đến một sợi tóc của anh ta. Nhưng có thứ gì đó trong giọng nói của người đàn ông tóc trắng thuyết phục Aplegatt không nên dùng câu trả lời đó.
“Tôi phải để ngựa của mình nghỉ một lát đã, thưa ngài. Một hoặc hai giờ.”
“Tôi hiểu.” Người đàn ông tóc trắng gật đầu, sau đó quay đi như thể nghe thấy gì đó ở bên ngoài. Aplegatt cũng nghe, nhưng âm thanh duy nhất anh nhận ra được là tiếng dế mèn. “Hãy cứ nghỉ ngơi đi,” người đàn ông tóc trắng nói trong khi sửa lại dây đeo kiếm buộc qua ngực, “nhưng đừng có đi ra ngoài sân. Dù bất kể chuyện gì xảy ra, hãy cứ ở trong đây.”
Aplegatt không hỏi gì cả. Bản năng của anh bảo rằng tốt nhất là đừng nên nói gì. Anh tiếp tục cúi xuống bát súp và múc vài miếng thịt đang nổi lềnh bềnh trên mặt. Khi anh nhìn lên, người đàn ông tóc trắng đã biến mất.
Một lúc sau, có tiếng ngựa hý và tiếng gõ móng ngoài sân.
Ba người đàn ông bước vào. Khi nhìn thấy họ, người chủ quán bắt đầu chùi cái cốc thật nhanh. Người phụ nữ với đứa con sát lại gần chồng mình và đánh thức anh ta dậy bằng một cái huých cùi chỏ. Aplegatt khẽ khàng kéo cái ghế mà anh đã đặt thắt lưng và con dao của mình trên đó lại gần hơn.
Khi tiến lại quầy, họ đưa mắt dõi qua một lượt những người đang ngồi trong phòng. Họ bước từ tốn, khiến vũ khí đeo trên người kêu leng keng.
“Xin chào, các quý ngài.” Người chủ quán hắng giọng và nói. “Tôi có thể lấy gì cho các ngài đây?”
“Rượu,” một người nhỏ thó, với cánh tay dài trông như khỉ nói. Hắn ta đeo hai thanh đao Zerrikania sau lưng. “Muốn một ít không, Giáo Sư?”
“Rất vui lòng,” người thứ hai nói trong khi chỉnh lại cặp kính làm từ thủy tinh đánh bóng, với mắt kính xanh lục và gọng vàng, đang nằm trên cái mũi khoằm của hắn ta. “Miễn là nó không bị pha tạp.”
Người chủ quán mang rượu ra cho họ. Aplegatt để ý thấy bàn tay ông ta hơi run. Những người đàn ông đứng quay lưng lại quầy, từ tốn uống thứ chất lỏng trong những chiếc cốc làm từ đất sét.
“Ngài chủ quán thân mến của tôi,” người đàn ông đeo kính bỗng dưng nói, “tôi có để ý thấy rằng có hai quý cô đã đi qua nơi này trước đây không lâu lắm, họ đang hướng đến Gors Velen.”
“Có rất nhiều người đi qua đây,” người chủ quán ấp úng.
“Ông không thể nào quên được hai người này đâu.” người đàn ông đeo kính nói chậm rãi. “Một người có mái tóc đen, và xinh đẹp tuyệt trần. Cô ấy cưỡi một con ngựa đen. Người kia trẻ hơn, với mái tóc xám và mắt xanh lục, cưỡi một con ngựa đốm. Họ có đi qua đây không?”
“Không.” Aplegatt cảm nhận một cơn ớn lạnh dọc sống lưng mình, nói trước chủ quán. “Họ không đi qua đây.”
Anh nhớ lại lời của cô bé: mối nguy hiểm với sợi lông màu xám, cát ấm....
“Sứ giả à?”
Aplegatt gật đầu.
“Anh từ đâu đến và đang đi đâu?”
“Bất cứ đâu mà đức vua bảo tôi đi.”
“Hai quý cô mà tôi vừa nhắc đến, anh có tình cờ bắt gặp họ không?”
“Không.”
“Anh từ chối nhanh quá nhỉ,” người đàn ông thứ ba gầm gừ, gầy và cao như một cái que. Tóc hắn ta đen và óng ánh, như thể bôi mỡ vậy. “Và tôi thấy có vẻ anh không lục lọi trí nhớ kỹ cho lắm.”
“Kệ anh ta đi, Heim.” Người đàn ông đeo kính ra hiệu. “Anh ta là sứ giả hoàng gia. Không phải người gây rối. Nơi này có tên là gì vậy, chủ quán?”
“Anchor.”
“Và từ đây đến Gors Velen là bao xa?”
“Cái gì?”
“Bao nhiêu dặm?”
“Tôi không bao giờ tính theo dặm. Nhưng chắc là mất ba ngày đường....”
“Đi bằng ngựa ư?”
“Bằng xe hàng.”
“Này!” Tay lùn tịt bất chợt lên tiếng. Hắn ta đứng dậy và nhìn qua cánh cửa đang mở. “Nhìn kìa, Giáo Sư. Ai kia? Có phải....”
Người đàn ông đeo kính cũng nhìn ra ngoài và gương mặt trở nên khắc nghiệt.
“Phải,” hắn ta thì thầm. “Chính là hắn đó. Chúng ta đang gặp may rồi, tất cả mọi thứ đều diễn ra theo đúng kế hoạch.”
“Chúng ta đợi hắn vào sao?”
“Hắn sẽ không vào đâu. Hắn đã trông thấy ngựa của chúng ta rồi.”
“Im đi, Yaxa. Hắn đang nói gì kìa.”
“Các ngươi có một lựa chọn.” Một giọng nói vọng vào từ bên ngoài, khàn khàn và âm vang mà Aplegatt ngay lập tức nhận ra. “Hoặc là một trong các ngươi ra ngoài này và nói với ta ai đang thuê các ngươi, và rồi các ngươi sẽ được đi khỏi đây mà không hề hấn gì. Hoặc là cả ba người các ngươi cùng ra. Ta đang đợi đây.”
“Khốn khiếp....” người đàn ông với mái tóc đen gầm gừ. “Hắn biết rồi. Chúng ta làm gì đây?”
Chậm rãi, người đàn ông đeo kính đặt chiếc cốc xuống quầy.
“Những gì mà chúng ta được trả công để làm.”
Hắn khạc vào hai tay, xoa xoa và rút kiếm ra. Ngay lập tức, hai người kia cũng rút vũ khí theo. Người chủ quán mở miệng như muốn hét lên, nhưng nhanh chóng ngậm lại khi thấy ánh nhìn lạnh lẽo từ người đàn ông đeo kính.
“Tất cả mọi người ngồi xuống, và ngậm mồm lại.” Người đàn ông nói. “Heim, khi trận chiến bắt đầu, cố gắng vòng ra sau hắn. Đi nào các anh em, sắp sửa gay go rồi đây!”
Ngay khi họ bước ra ngoài, trận chiến bắt đầu: những tiếng rên rỉ, giậm chân, tiếng gươm kiếm va chạm nhau. Và rồi một tiếng hét. Một tiếng hét làm dựng tóc gáy.
Người chủ quán trắng bệch ra, người phụ nữ với cặp mắt thâm quầng nén lại một tiếng kêu và ôm chặt đứa trẻ vào lòng. Con mèo trên chiếc ghế bành đứng dậy, cong lưng và vểnh đuôi. Aplegatt vẫn còn đang đứng, nhanh chóng lủi vào một góc. Con dao để trên đùi anh, nhưng anh vẫn chưa rút nó ra khỏi vỏ.
Ở bên ngoài, lại có tiếng sột soạt, tiếng vũ khí va chạm.
“Ngươi!” Ai đó hét lên man dại, nhưng tiếng hét này, kể cả khi đi kèm với một lời nguyền rủa ác hiểm, vẫn chỉ là một tiếng kêu tuyệt vọng. “Ngươi!”
Những thanh kiếm huýt sáo. Rồi bỗng nhiên một âm thanh như xé tan bầu không khí vang lên. Như thể một bao cát vĩ đại đổ xuống sàn. Từ chỗ mấy cây cột buộc ngựa, có thể nghe thấy tiếng vó giậm, cũng như tiếng hý hoảng loạn của chúng.
Lại lần nữa, có thứ gì đó to lớn đổ xuống sàn. Những tiếng bước chân nặng nề của ai đó chạy nhanh qua sân trước. Người phụ nữ với đứa con sán lại gần chồng mình hơn, người chủ quán lùi lại ra sau. Aplegatt rút con dao ra, vẫn giấu nó dưới gầm bàn. Người đàn ông đang chạy về phía quán trọ, rõ ràng là có thể xuất hiện ở cửa vào bất kỳ lúc nào đó. Nhưng trước khi hắn ta kịp chạy đến, có tiếng một lưỡi dao rít qua không trung.
Người đàn ông la lên và ngay sau đó, lảo đảo bước vào căn phòng. Hắn chực ngã ở cửa, nhưng vẫn cố đứng được. Hắn bước vài bước lên phía trước, chậm rãi, và đổ gục xuống nền nhà ngay giữa căn phòng, làm một lớp bụi bay lên. Hắn ngã đập mặt xuống đất, tay để hai bên, chân cong queo. Cặp kính của hắn rơi xuống sàn và vỡ tan thành muôn mảnh nhỏ xíu. Một vũng nước đen ngòm, lấp lánh bắt đầu lan ra từ thân hình giờ đây đã nằm bất động của hắn.
Không ai di chuyển. Thậm chí không có một tiếng kêu nào.
Người đàn ông tóc trắng bước vào căn phòng.
Anh ta tra thanh kiếm đang cầm trên tay vào bao đeo sau lưng một cách dễ dàng. Anh tiến lại phía quầy, không thèm nhìn cái xác đang nằm trên nền nhà. Người chủ quán rụt lại.
“Chúng là người xấu,” người đàn ông tóc trắng nói bằng giọng khàn khàn. “Và giờ chúng đã chết. Khi đại diện của nhà vua đến, ông ta có thể nhắc đến một chút tiền thưởng cho cái đầu của chúng. Cứ để ông ta thích làm gì thì làm.”
Người chủ quán gật đầu lia lịa.
“Có thể,” người đàn ông tóc trắng tiếp tục sau một lúc, “một vài đồng nghiệp hay bạn bè của những kẻ này sẽ thắc mắc chuyện gì đã xảy ra với chúng. Chủ quán, hãy cứ nói rằng Con Sói đã ăn thịt chúng. Sói Trắng. Và hãy bảo bọn chúng rằng lo mà nhìn phía sau đi. Một ngày nào đó, chúng có thể sẽ thấy Con Sói đuổi ngay theo sau.”
***
Khi Aplegatt đến cổng Tretogor ba ngày sau thì cũng đã quá nửa đêm. Anh tức giận vì đã tốn quá nhiều thời gian bên hào nước, anh phải hét gần như rách cổ họng để đánh thức lính canh: họ ngủ say như chết và cũng chẳng vội vã mở cổng thành cho lắm. Aplegatt không bỏ lỡ cơ hội để chửi rủa họ thậm tệ, ít nhất là ba đời. Sau đó, anh hài lòng khi nghe thấy người chỉ huy, sau khi đã thức dậy, hoàn tất danh sách xúc phạm mà anh đã nêu ra bao gồm mẹ, bà và cụ kị của những kẻ vô dụng này. Chắc chắn là không thể gặp được vua Vizimir vào lúc nửa đêm thế này rồi. Đằng nào thì anh cũng đã từ bỏ ý định đó. Anh hy vọng được ngủ đến sáng. Hay là anh tưởng vậy thôi. Thay vì được đưa đến chỗ nào đó để nghỉ, anh lại được dẫn đến trạm gác. Không phải là cảnh vệ đang đợi anh bên trong, mà là một kẻ khác, một kẻ rất lớn, vĩ đại. Aplegatt biết ông ta, đó là Dijkstra, trưởng cơ quan tình báo của vua Vizimir. Aplegatt biết là Dijkstra vẫn thường nghe những thông điệp chỉ được dành riêng cho hoàng gia. Aplegatt đưa ông ta lá thư.
“Ngươi có thông điệp nào không?”
“Dạ có, thưa ngài.”
“Ta đang nghe đây.”
“Demavend gửi Vizimir,” Aplegatt nhắm mắt lại lẩm nhẩm. “Đầu tiên, những người đóng kịch đã đợi sẵn cho đêm thứ hai sau lúc trăng tròn vào tháng 7. Thứ hai, ta sẽ không tham dự cuộc hội ngộ trên đảo Thanedd, và ta khuyên ông cũng nên làm vậy. Thứ ba, Sư Tử Con đã chết.”
Dijkstra hơi nhăn mặt và gõ ngón tay lên mặt bàn.
“Đây là những lá thứ gửi cho vua Demavend. Còn thông điệp...hãy nghe kỹ và ghi nhớ đây. Ngươi sẽ truyền đạt lại cho vua của ngươi, đúng đến từng câu chữ. Chỉ cho ông ta nghe thôi, và không ai khác cả. Không ai khác cả, đã rõ chưa?”
“Dạ rồi, thưa ngài.”
“Thông điệp như sau: “Vizimir gửi Demavend. Hãy giam giữ những người đóng kịch lại. Đã có kẻ phản bội. Ngọn Lửa đã triệu tập một đội quân ở Dol Angra và đang chờ một cái cớ.” Hãy nhắc lại đi.”
Aplegatt nhắc lại.
“Tốt.” Dijkstra gật đầu. “Ngươi sẽ đi vào lúc trời sáng.”
“Tôi đã ở trên đường được 5 ngày, thưa ngài.” Người đưa thư xoa xoa cái mông. “Nếu tôi có thể ngủ đến giữa trưa...Có được không ạ?”
“Đức vua của ngươi, Demavend, có đang ngủ không? Và ta, ta có đang ngủ không? Đáng nhẽ ra ta phải cho ngươi một đấm vào mặt vì dám hỏi như vậy. Ngươi sẽ được ăn, và có thể duỗi chân một chút trên đám cỏ. Sau đó, ngươi sẽ khởi hành khi mặt trời lên. Ta đã chuẩn bị cho ngươi một con ngựa giống rồi. Rồi ngươi sẽ thấy, nó chạy như vũ bão vậy. Và đừng có ủ ê nữa. Vẫn có túi vàng này cho ngươi đây, một chút thưởng thêm. Để ngươi khỏi cằn nhằn rằng Vizimir keo kiệt.”
“Cảm ơn ngài.”
“Khi ngươi đến khu rừng dọc Pontar, hãy cẩn thận. Người ta thấy có lũ Sóc ở đó. Và nơi ấy cũng chẳng thiếu bọn cướp đường.”
“Ồ vâng! Tôi biết điều đó, thưa ngài. Ôi trời! Chỉ cần nghĩ về chuyện đã xảy ra ba hôm trước thôi là cũng đủ!”
“Chuyện gì?”
Aplegatt nhanh chóng thuật lại sự kiện đã diễn ra ở Anchor. Dijkstra lắng nghe, hai tay bắt chéo nhau.
“Giáo Sư....”, ông ta lẩm bẩm. “Heimo Kantor và Yaxa Lùn. Bị giết bởi một witcher. Tại Anchor, trên đường đến Gors Velen, hoặc Thanedd, Garstang....Và Sư Tử Con đã chết ư?”
“Ngài đang nói gì vậy?”
“Không quan trọng.” Dijkstra ngẩng lên. “Ít ra thì đối với ngươi. Hãy nghỉ ngơi đi. Và khởi hành vào lúc bình minh.”
Aplegatt ăn những thứ được đưa cho mình, và duỗi người một chút. Anh mệt đến nỗi chẳng chớp mắt nổi. Trước khi bình minh lên, anh đã đi qua cổng thành rồi. Con ngựa của anh rõ ràng là rất phấn khởi, nhưng không được tự nguyện cho lắm. Aplegatt không thích kiểu ngựa như vậy.
Trên vai anh, chỗ giữa bả vai trái và cột sống rất ngứa ngáy, chắc hẳn là đã có con rận nào đấy cắn anh khi đang gật gù trong chuồng ngựa. Và chẳng có cách nào để gãi cả.
Con ngựa giống giậm giậm chân và hý vang. Người đưa thư thúc vào hông nó và phi nước đại. Thời gian đang gấp rút.
***
“Gar’ean”, Cairbre thì thầm. Nấp dưới một nhành cây, quan sát con đường. Hắn rướn người lên. “En Dh’oine aen evall a stráede!”
Toruviel ngồi bật dậy, nắm lấy thanh kiếm và chỉnh lại nó, cô ta đá Yaevinn một cái bằng mũi giày, lúc này đang ngủ gật ngay cạnh. Gã elf nhảy dựng lên và nguyền rủa, làm bỏng tay khi chống xuống nền cát nóng rẫy.
“Que suecc’s?”
“Một con ngựa trên đường.”
“Một con ngựa sao?” Yaevinn với lấy cây cung và ống tên. “Cairbre? Chỉ có một thôi sao?”
“Phải. Hắn đang lại gần.”
“Chà! Xử hắn thôi. Bớt được thêm một tên Dh’oine.”
“Kệ đi.” Toruviel túm lấy tay áo hắn ta. “Để làm gì? Chúng ta chỉ phải đi tuần tra, sau đó về báo cáo lại với chỉ huy. Có cần phải giết thường dân trên đường không? Chẳng lẽ cuộc đấu tranh vì tự do lại trở thành như thế này sao?”
“Chính xác là vậy. Tránh ra đi.”
“Nếu chúng ta để lại một cái xác trên đường, toán tuần tra tiếp theo đi qua sẽ báo động. Quân đội sẽ đuổi theo chúng ta. Chúng sẽ trông chừng pháo đài. Chúng ta có thể sẽ gặp khó khăn khi vượt qua con sông.”
“Làm gì có ai đi qua đây. Khi mà có người phát hiện ra cái xác thì chúng ta cũng đã cao chạy xa bay rồi.”
“Kẻ này cũng đã đi xa rồi,” Cairbre nói từ trên cành cây. “Thay vì tán gẫu thì lẽ ra anh nên bắn từ trước. Giờ thì anh không thể bắn trúng hắn được nữa rồi. Hắn cách ít nhất cũng phải 200 thước.”
“Với cây 66 của tôi?” Yaevinn khẽ vuốt ve cây cung. “Với cánh cung 6 mét đáng yêu của tôi? Đằng nào thì đó cũng không phải 200 thước. Cùng lắm thì là 150. Mire, que spar aen’le.”
“Yaenvinn, bỏ đi....”
“Thaess aep, Toruviel.”
Người elf xoay ngược cái mũ lại để chiếc đuôi sóc đính vào nó không làm cản trở tầm nhìn của hắn nữa, kéo dây cung đến tận mang tai, ngắm chuẩn xác và thả ra.
Aplegatt không thể nghe thấy mũi tên. Đó là một mũi tên im lặng, được đính những sợi lông vũ dài, hẹp và xám. Mũi tên được xẻ rãnh để làm nó nhẹ hơn và cứng cáp hơn. Đầu mũi tên với ba lưỡi dao nhọn, nhanh chóng cắm vào mục tiêu ở lưng, giữa bả vai trái và cột sống. Những lưỡi dao được thiết kế để khi xuyên vào, chúng sẽ bật ra, xoay như một đinh ốc, cắt nát thịt và đập vỡ xương. Aplegatt đổ người ra phía trước, sau đó tuột xuống đất, nằm bất động.
Trên mặt đất, cát rất ấm dưới ánh mặt trời nóng bỏng. Nhưng người đưa thư không thể cảm thấy nó. Anh đã chết ngay tức khắc.