[Dịch] Witcher Saga #3: Baptism of Fire

Chương 10 : CHƯƠNG IV.I

Ngày đăng: 23:10 07/05/20

Ma cà rồng, hay còn gọi là upir, một xác chết được hồi sinh bởi Hỗn Mang. Sau khi đã mất cuộc đời đầu tiên, cuộc đời thứ hai của chúng buộc phải sống trong bóng tối. Chúng ra khỏi hầm mộ khi trăng lên, tấn công khi người ta vẫn say ngủ, đặc biệt là phụ nữ trẻ, mà không đánh thức họ dậy, hút lấy máu trong người họ.
- Physiologus. Người dân làng đã ăn thật nhiều tỏi, và để chắc chắn hơn, quàng theo nhiều vòng tỏi quanh cổ họ. Một số, đặc biệt là phụ nữ, rắc tỏi ở khắp mọi nơi. Cả ngôi làng nồng nặc mùi tỏi, và những người dân tin chắc rằng họ đã an toàn, ma cà rồng không thể làm gì họ. Và họ đã ngạc nhiên biết bao khi con ma cà rồng tới vào buổi đêm, hắn không những sợ mà còn cười lớn, răng nghiến trèo trẹo. “Thật là tốt,” hắn nói, “là các ngươi đã tự nêm nếm gia vị cho chính mình, ta thích ăn thịt như vậy hơn. Cũng nên cho thêm ít muối cùng hạt tiêu vào nữa, và chớ quên mù tạt.”
- Silvester Bugiardo, Liber Tenebrarum hay Tuyển tập những truyện kỳ quái nhưng xác thực vẫn chưa được khoa học chứng minh. Ánh trăng sáng ngời
Ma cà rồng bay
Vạt áo phần phật, phần phật trong gió
Hỡi trinh nữ, người không sợ sao?
- Dân ca.
_________
Những con chim, như thường lệ, chào đón bình minh bằng cách phá tan sự tĩnh lặng xám xịt, mù sương của buổi sáng bằng một tràng pháo những tiếng hót đủ thể loại. Như thường lệ, những người đầu tiên chuẩn bị khởi hành là đám phụ nữ và trẻ con đến từ Kernow. Cũng nhanh nhẹn và phấn khởi không kém là vị bác sĩ Emiel Regis, với một cây gậy chống trong tay và túi vải khoác trên vai. Phần còn lại của đoàn lữ hành, những người đã tận hưởng buổi tối hôm trước bằng món chưng cất tuyệt vời, thì không thể tỉnh táo như vậy được. Cái lạnh buổi sáng đánh thức và tiếp năng lượng cho những kẻ tiệc tùng, nhưng không thể loại bỏ hoàn toàn hiệu ứng gây ra bởi món rượu nhân sâm. Geralt tỉnh dậy trong góc nhà với đầu gối lên đùi Milva. Zoltan và Dandelion nằm giữa một đống rễ cây, ngáy to đến mức làm xao động những nùi thảo mộc treo trên tường. Percival thì được tìm thấy ở sau lán, cuộn tròn dưới gốc một thân cây nhỏ phủ đầy dâu dại, nằm trên tấm thảm rơm mà Regis dùng để chùi chân. Cả năm người đều thể hiện những triệu chứng rõ ràng, tuy khác nhau, của sự mệt mỏi, cũng như ham muốn mãnh liệt được thỏa mãn cơn khát ở dòng suối.
Tuy nhiên, khi làn sương đã tan đi và quả cầu mặt trời đỏ chói đã treo trên những ngọn thông và diệp tùng của Fen Carn, đoàn lữ hành đã bắt đầu lên đường, di chuyển nhanh chóng giữa những ngôi mộ. Regis dẫn đầu, theo sau ông là Percival và Dandelion, đang nghêu ngao một bài ca về ba chị em gái và một con sói sắt. Tiếp đến là Zoltan Chivay, đang cầm dây cương dắt theo con ngựa màu hạt dẻ. Người lùn đã tìm thấy trong lán của nhà hóa học một mẩu gỗ tro, và đặt nó dưới chân đài tưởng niệm, cầu chúc những người elves đã chết được yên giấc ngàn thu. Về phần mình, Nguyên soái Duda, đang đậu trên vai ông, thỉnh thoảng lại quang quác, nhưng những câu chửi rủa của nó có vẻ mệt mỏi và kém thuyết phục sao đó.
Người kháng cự yếu ớt nhất món rượu nhân sâm chính là Milva. Nữ cung thủ bước đi khó khăn, người đầm đìa mồ hôi, nhợt nhạt và cáu bẳn như một con ong điên tiết. Cô không phản ứng lại với đứa bé gái liến thoắng đang ngồi trên yên ngựa của mình. Geralt nghĩ tốt nhất là không nên gợi chuyện, bởi vì tâm trạng anh cũng đang chẳng tốt lành gì. Làn sương và bài ca ầm ĩ về con sói sắt đã giấu đi sự xuất hiện bất ngờ của một nhóm nông dân. Trong khi đó, những người nông dân đã nghe thấy từ rất xa đoàn lữ hành đang đi tới và kiên nhẫn chờ đợi, đứng bất động giữa những bia mộ trồi lên từ đất. Những tấm áo xám giúp họ ngụy trang một cách hoàn hảo. Zoltan suýt chút nữa thì gõ trúng một người bằng cây gậy vì tưởng rằng đó là một bia mộ.
“Ôi da!” ông kêu lên. “Xin lỗi nhé, hàng xóm! Tôi không thấy ông ở đó. Buổi sáng tốt lành! Xin chào!”
Một dàn đồng ca từ mười người nông dân u ám lầm bầm đáp lại. Những người nông dân đang cầm xẻng, cuốc và cọc gỗ trên tay.
“Tôi nói, buổi sáng tốt lành.” người lùn nhắc lại. “Tôi đoán mọi người tới từ khu trại Cholta. Đúng chứ?”
Thay vì trả lời, một người chỉ vào con ngựa của Milva.
“Ngựa đen,” ông ta lầm bầm. “Mọi người thấy không?”
“Ngựa đen,” một người khác lên tiếng, liếm môi. “Nó sẽ rất có ích cho chúng ta.”
“Hả?” Zoltan nhìn thấy những ánh mắt và cử chỉ. “Một con ngựa đen, thì sao? Nó là một con ngựa chứ có phải hươu cao cổ đâu, có gì mà ngạc nhiên. Các ông đang làm gì ở đây thế hả, hàng xóm, trong cái nghĩa địa này?”
“Còn ông?” người nông dân ném một ánh mắt ghê tởm về phía đoàn lữ hành. “Ông đang làm gì ở đâu?”
“Chúng tôi đã mua khu đất này.” Người lùn nhìn thẳng vào mắt ông ta và gõ gậy lên một tảng đá. “Tôi đang đo diện tích bằng bước chân, để chắc là chúng tôi đã không bị lừa.”
“Còn chúng tôi ở đây để săn ma cà rồng!”
“Cái gì?”
“Ma cà rồng.” Người cao tuổi nhất trong đám nông dân nhắc lại, gãi gãi vầng trán bên dưới một cái mũ bẩn thỉu, rách rưới. “Nó có hang động ở đâu đó quanh đây, con quỷ đấy. Chúng tôi có cọc bằng gỗ tro, mà sẽ dùng để đâm xuyên tim nó, để nó không sống lại được nữa.”
“Tôi có nước thánh, đã được ban phước bởi một linh mục!” Một người khác kêu lên phấn khích, lắc lắc cái lọ cầm trên tay. “Nó sẽ tiêu diệt cái thứ hút máu đó vĩnh viễn.”
“Ha ha.” Zoltan mỉm cười. “Đi săn kia đó, và chuẩn bị rất kỹ càng nữa. Các ông nói ma cà rồng sao? Chà, các ông may đấy, chúng tôi có một chuyên gia trong đoàn, về ghoul và...”
Người lùn dừng giữa câu, vì witcher đã đá một cú thật mạnh vào chân ông ta.
“Ai đã trông thấy con ma cà rồng?” Geralt hỏi, liếc nhìn những người đồng hành nghiêm nghị, ra lệnh cho họ im lặng. “Làm sao các ông biết là có thể tìm thấy nó ở đây?”
Những người nông dân xôn xao thì thầm.
“Chưa ai từng nhìn thấy nó,” cuối cùng người đàn ông đội chiếc mũ rách rưới thú nhận, “hay nghe thấy nó. Làm sao chúng tôi thấy được khi nó bay trong đêm? Làm sao chúng tôi nghe được khi đôi cánh dơi của nó không phát ra tiếng động?”
“Chúng tôi chưa từng nhìn thấy con ma cà rồng,” một người khác lên tiếng, “nhưng chúng tôi đã thấy dấu vết công việc của nó. Hai đêm trăng tròn trước, con ma cà rồng đã giết hai người. Một phụ nữ và một đứa bé trai. Thật khủng khiếp! Hai kẻ xấu số bị xé xác và máu trong người họ bị uống sạch. Vậy chẳng lẽ chúng tôi cứ ngồi đây đợi đến đêm thứ ba?”
“Ai nói thủ phạm là con ma cà rồng mà không phải một loài dã thú hay quái vật nào khác? Ai đã có ý tưởng lục soát khu nghĩa địa?”
“Vị linh mục của chúng tôi. Ông ấy là một người thông thái và sùng đạo, cảm tạ các thần linh đã đưa ông ấy tới trại của chúng tôi. Ông ấy nhận ra ngay tức khắc thủ phạm là một con ma cà rồng. Nó chính là sự trừng phạt giáng xuống đầu chúng tôi vì đã bỏ bê cúng tế và làm từ thiện cho đền thờ. Giờ ông ấy đang cầu nguyện ở trại và sai chúng tôi đi tìm nơi con quái vật say ngủ vào ban ngày.”
“Và tại sao lại ở đây?”
“Thế đi tìm mộ của ma cà rồng thì không ở nghĩa địa chứ ở chỗ nào nữa? Và sau cùng thì đây là một nghĩa trang của người elves, mọi đứa trẻ đều biết elves là một giống loài ác độc và vô thần, và cứ mỗi hai người thì một kẻ sẽ bị kết án phải chết lần nữa! Tất cả ác quỷ này đều là do lũ elves hết”
“Và vị linh mục,” Zoltan gật đầu nghiêm trọng. “Phải. Mỗi đứa trẻ đều biết. Cái trại của các ông cách đây bao xa?”
“À, không xa lắm...”
“Đừng nói địa điểm cho họ, cha à,” một thanh niên tóc bù xù la lên, người mà nãy giờ tỏ vẻ khó chịu. “Có quỷ dữ mới biết họ là ai, họ có thể là một băng nhóm nào đó. Hãy bảo họ giao nộp con ngựa ra đây rồi biến đi đâu thì tùy.”
“Con nói đúng,” ông nông dân lên tiếng. “Chúng ta phải làm nốt công việc, vì thời gian sắp hết rồi. Đưa con ngựa cho chúng tôi. Con màu đen đó. Chúng tôi cần nó để tìm con ma cà rồng. Bế đứa trẻ xuống khỏi yên ngựa đi, người phụ nữ kia.”
Milva, người mà trong suốt cuộc nói chuyện đã lơ đãng ngắm nhìn những đám mây, từ từ nhìn xuống người nông dân, nét mặt cô đanh lại nguy hiểm.
“Ông đang nói với tôi à, con lợn kia?”
“Đương nhiên là cô rồi. Giao con ngựa đen ra đây, chúng tôi cần nó.”
Milva lau đi cái cổ nhễ nhại mồ hôi và nghiến răng. Ánh nhìn trong đôi mắt mệt mỏi của cô trở thành giống một con sói.
“Các ông định đi đâu vậy, ông bạn?” Witcher mỉm cười, cố làm dịu tình hình. “Sao các ông lại cần con ngựa, mà các ông đã hỏi xin rất lịch sự?”
“Và làm cách nào để tìm ra mộ của con ma cà rồng được nữa chứ? Ai chả biết là nếu ta đi loanh quanh trong nghĩa trang trên lưng một con ngựa đen, khi nào nó dừng lại trước một ngôi mộ và không chịu đi tiếp, thì đó chính là hang ổ của con ma cà rồng. Sau đó chúng ta phải đào nó lên và cắm cọc xuyên qua tim nó. Chúng tôi phải có con ngựa đen!”
“Các ông không dùng ngựa màu khác được sao?” Dandelion điều đình, đưa dây cương con Pegasus ra cho người nông dân.
“Chúng tôi không thể.”
“Vậy thì các người không may rồi,” Milva nói qua hàm răng nghiến chặt, “bởi vì tôi sẽ không giao nộp con ngựa của mình.”
“Sao cô lại không đưa? Cô không nghe những gì tôi đã nói sao, đồ đàn bà kia? Chúng tôi phải...”
“Các người phải. Nhưng đó không phải vấn đề của tôi.”
“Có một giải pháp đây,” Regis khẽ cất lời. “Như tôi hiểu, thì cô Milva không muốn giao con ngựa của mình vào tay người khác...”
“Ông có thể chắc chắn về điều đó.” Nữ cung thủ nói, khạc một bãi xuống đất. “Nghĩ đến thôi là tôi đã rùng mình rồi.”
“Vậy nên để cả sói và cừu đều thỏa mãn và vui vẻ,” người bác sĩ tiếp tục, “tôi đề nghị cô Milva sẽ ngồi trên con ngựa và đi quanh nghĩa trang.”
“Tôi sẽ không đi quanh cái nghĩa trang này như một thằng đần.”
“Chẳng ai khiến cô cả, con đàn bà kia !” người nông dân tóc bù xù kêu lên. “Chúng ta cứ nên lấy con ngựa thôi. Phụ nữ thì phải ở trong bếp, với nồi niêu xoong chảo. Mặc dù một đứa con gái có thể hữu dụng sau khi chúng ta dụ được con quái vật ra, vì nước mắt của trinh nữ khi chạm vào da thịt ma cà rồng sẽ cháy như sắt nung. Nhưng đứa con gái phải sạch sẽ và chưa bị người đàn ông nào chạm vào bao giờ. Tôi không thấy được cô có lợi ích gì cả.”
Milva bước một bước lên trước và tung một cú đấm bằng tay phải nhanh như cắt. Có một tiếng bốp, cái đầu của hắn ta bay ra sau và cái cổ và cằm đầy râu trở thành mục tiêu dễ dàng. Nữ cung thủ tiến thêm một bước nữa và đánh vào cổ hắn, xoay hông và vai để tạo thêm lực cho cú đấm. Gã thanh niên ngã ra sau, vấp phải chính chân mình và đổ xuống với một tiếng rắc thật to, đập đầu vào một tảng đá.
“Giờ thì mi có thể thấy ta có ích gì.” Nữ cung thủ nói, giọng cô run rẩy vì phẫn nộ, xoa xoa nắm tay. “Giờ thì ai là đàn ông, ai phải ở trong bếp? Không gì tuyệt hơn là một trận ẩu đả. Kẻ nào vẫn đứng thì là đàn ông còn kẻ nào nằm dưới đất thì là thằng đàn bà. Ta nói có đúng không?”
Những người nông dân rối rít đồng tình, nhìn chằm chằm vào Milva với mồm há hốc. Người nông dân đội chiếc mũ rách rưới quỳ xuống bên cạnh gã thanh niên và vỗ vào má anh ta. Mà không có phản hồi.
“Chết rồi,” ông ta kêu, ngước lên. “Nó chết rồi. Cô đã làm gì hả, người phụ nữ kia? Cô giết nó chẳng vì cái gì sao?”
“Tôi không cố ý,” Milva thì thầm, buông thõng tay và tái nhợt đi. Và rồi cô làm điều mà không ai, không một ai ngờ được.
Cô quay đi, cúi gập người xuống, tựa trán lên một tảng đá và nôn thốc nôn tháo.
***
“Cậu ta bị làm sao thế?”
“Một cơn chấn thương nhẹ.” Regis trả lời, đứng lên và buộc cái túi lại. “Sọ cậu ta dày lắm. Cậu ta đã tỉnh rồi, và vẫn còn nhớ được tên mình cũng như chuyện gì vừa xảy ra. Đây là dấu hiệu tốt. Cơn bộc phát nhất thời của tiểu thư Milva, rất may là, đã không để lại hậu quả gì.”
Witcher nhìn nữ cung thủ, đang ngồi trên một tảng đá cạnh họ, mắt dõi về phía xa.
“Cô ấy không phải là người nhạy cảm với những chuyện như thế,” anh lầm bầm. “Tôi nghĩ rằng đó là do dư vị của đám cà dược ngày hôm qua còn sót lại.”
“Cô ấy đã nôn một lần rồi.” Zoltan chen vào. “Ngày hôm kia, lúc bình minh. Khi mọi người vẫn đang ngủ. Tôi đã nghĩ đó là do những quả nấm chúng ta lấy ở Turlough. Tôi cũng đã bị đau bụng mất hai ngày.”
Regis bắn về phía witcher một ánh mắt khó hiểu từ bên dưới hàng lông mày xám, cười bí hiểm và quấn mình trong tấm áo choàng đen. Geralt lại gần Milva và hắng giọng.
“Cô thấy thế nào rồi?”
“Khổ sở. Gã kia sao rồi?”
“Cậu ta sẽ ổn thôi. Cậu ta đã tỉnh rồi. Tuy nhiên, Regis vẫn cấm cậu ta không được đứng dậy. Những người nông dân đang làm một cái cáng, chúng ta sẽ đưa cậu ta về trại trên hai con ngựa.”
“Hãy lấy con của tôi.”
“Chúng ta sẽ dùng Pegasus và con ngựa màu hạt dẻ. Chúng hiền lành hơn. Đi nào, đến lúc xuất phát rồi.”
***
Đoàn lữ hành được bổ sung giờ nhìn giống một đám tang, và di chuyển với tốc độ hệt như vậy.
“Anh nghĩ sao về con ma cà rồng của họ?” Zoltan Chivay hỏi witcher. “Anh có tin câu chuyện đó không?”
“Tôi vẫn chưa nhìn thấy nạn nhân. Tôi không thể nói trước được gì.”
“Rõ ràng là nhảm nhí,” Dandelion nói với vẻ chắc nịch. “Đám nông dân bảo là nạn nhân đã bị xé xác. Ma cà rồng đâu có làm thế, chúng cắn vào động mạch và hút máu, để lại hai dấu răng. Nạn nhân thường sống sót. Tôi đã đọc được trong một quyển sách. Nó còn có hình vẽ mô tả ma cà rồng cắn cổ trinh nữ. Anh nghĩ sao, Geralt?”
“Tôi biết nói gì đây? Tôi chưa nhìn thấy những hình vẽ đó. Và tôi cũng không biết nhiều lắm về trinh nữ.”
“Đừng mỉa mai. Anh đã trông thấy không chỉ một lần vết cắn của ma cà rồng rồi. Anh đã bao giờ gặp con nào mà xé xác nạn nhân ra chưa?”
“Không. Chuyện đó chưa từng xảy ra.”
“Và sẽ không bao giờ xảy ra, nếu chúng ta đang đối phó với một ma cà rồng cấp cao,” Emiel Regis tham gia vào cuộc bàn luận. “Từ những gì tôi biết, nạn nhân của alp, katakan, mula, bruxa, nosferat không bị thương nghiêm trọng lắm. Tuy nhiên, fleder và ekimmara có thể khá tàn bạo.”
“Rất giỏi,” Geralt nhìn người bác sĩ với vẻ ngưỡng mộ. “Ông không bỏ lỡ bất kỳ giống ma cà rồng nào. Và cũng không hề nhắc đến những loài trong truyền thuyết, mà chỉ tồn tại trong những câu truyện cổ tích. Quả thật, một vốn kiến thức rất ấn tượng. Vậy nên chắc ông cũng biết fleder và ekimmara không sinh sống trong vùng khí hậu này chứ?”
“Thật tốt,” Zoltan nói, vung vẩy cây gậy. “Nhưng thứ gì sinh sống trong vùng khí hậu này có thể xé xác một người phụ nữ và một thằng bé? Họ bị sát hại trong cơn tức giận sao?”
“Danh sách những sinh vật có khả năng làm điều này là khá dài. Đó có thể, nói ví dụ, là một đàn chó dại, một vấn nạn rất phổ thông trong thời kỳ chiến tranh. Ông không thể tưởng tượng nổi những con chó này có thể làm gì đâu. Một nửa số nạn nhân bị cho là sát hại dưới tay quái vật thực ra chỉ là do một đàn cẩu hoang.”
“Vậy thì loại trừ bọn quái vật ra sao?”
“Dĩ nhiên là không rồi. Đó vẫn có thể là một con striga, gravier, ghoul, harppy...”
“Nhưng không phải một con ma cà rồng?”
“Chắc là không.”
“Đám nông dân có nói về một vị linh mục,” Percival nhắc họ. “Linh mục có biết nhiều về ma cà rồng không?”
“Có vài người sở hữu kiến thức sâu rộng về nhiều vấn đề, đa phần thì ý kiến của họ là rất đáng lắng nghe. Đáng tiếc là không phải tất cả.”
“Đặc biệt là những kẻ lang thang trong rừng với dân tị nạn,” người lùn khụt khịt. “Chắc đó chỉ là một gã cuồng tín nào đó thôi. Ông ta đã cử đoàn thám hiểm này vào nghĩa địa của ông, Regis. Khi đi nhổ nhân sâm vào đêm trăng tròn, ông đã bao giờ trông thấy một con ma cà rồng chưa? Thậm chí một con nhỏ thôi?”
“Không, chưa bao giờ.” Vị bác sĩ cười mỉm. “Và cũng chẳng ngạc nhiên lắm. Con ma cà rồng, như mọi người đã nghe, bay trong đêm trên đôi cánh dơi, mà không gây tiếng động. Khó để phát hiện ra nó.”
“Và càng khó hơn khi nó chưa bao giờ có thực,” Geralt xác nhận. “Hồi còn trẻ, tôi cũng đã nhiều lần phí thời gian đuổi theo những ảo ảnh và mê tín, mà cả một ngôi làng đã kể cho tôi nghe, bao gồm cả trưởng làng. Tôi đã từng ở hai tháng trong một lâu đài bị ma cà rồng đe dọa. Chẳng có con ma cà rồng nào cả. Nhưng có tay đầu bếp nấu rất ngon.”
“Không nghi ngờ gì là có những vụ như thế. Tuy nhiên, nếu tin đồn về ma cà rồng là có thật,” Regis nói, mà không nhìn witcher, “thì tôi nghĩ là thời gian và công sức bỏ ra đã không phí hoài. Con quái vật sẽ chết dưới lưỡi kiếm của anh?”
“Đôi lúc.”
“Đằng nào thì,” Zoltan nói, “đám nông dân đã gặp may. Tôi sẽ đợi Munro Bruys và các chàng trai ở khu trại. Được nghỉ ngơi cũng chẳng có hại gì. Và bất kể thứ gì đã giết người phụ nữ và thằng bé đó thì cũng coi chừng, bởi vì sẽ có một witcher.”
“Và sẵn nói tới,” Geralt mím môi. “Tôi yêu cầu ông không chạy loanh quanh và bép xép với mọi người tên tôi và tôi là ai. Điều này cũng áp dụng cả với cậu nữa, Dandelion.”
“Như anh muốn.” Người lùn gật đầu. “Anh có lý do của riêng mình. Chà, anh cảnh báo vừa kịp lúc, vì khu trại đã ở trong tầm mắt rồi.”
“Và cả tầm tai nữa,” Milva nói, phá vỡ sự im lặng đã kéo dài. “Tiếng loảng xoảng hãi hùng nào kia.”
“Âm thanh mà cô đang nghe đó,” Dandelion lên tiếng giảng giải, “là bản giao hưởng đặc trưng của một trại tị nạn. Như mọi khi, cất lên từ hàng trăm cái cổ họng người, bò, cừu và gia cầm. Phần song ca được biểu diễn bởi phụ nữ cằn nhằn, trẻ con ẩu đả, gà gáy quang quác và một con lừa, mà nếu tôi không nhầm, thì đã bị ai đó cắm một cành cây vào mông. Tiêu đề của bản nhạc là: Cộng đồng loài người vật lộn để sống sót.”
“Bản giao hưởng,” Regis nói, hếch mũi lên, “thường cũng rất gợi mùi. Từ đám người đang đấu tranh sinh tồn bốc lên hương thơm quyến rũ của bắp cải và rau luộc, mà có vẻ như thiếu chúng thì họ không thể tồn tại nổi. Mùi hương đặc trưng cũng được tổng hợp nên từ vô số nhu cầu giải quyết của cơ thể, ở bất cứ đâu có thể, phần lớn là ngoài rìa khu trại. Tôi không bao giờ hiểu được tại sao cuộc đấu tranh sinh tồn lại đẻ ra tính lười đào hố.”
“Cầu cho quỷ dữ bắt các người đi với mấy mớ ngôn từ cao sang đó,” Milva giận dữ cắt ngang. “Thay vì dùng những từ ngữ thô tục chả ai hiểu được, chỉ cần dùng ba cái duy nhất mà thôi: bắp cải và cứt.”
“Bắp cải và cứt luôn đi thành cặp,” Percival Schuttenbach tuyên bố một sự thật hiển nhiên. “Cái nọ sinh ra cái kia. Một vòng lặp bất tận.”