[Dịch] Witcher Saga #3: Baptism of Fire
Chương 2 : CHƯƠNG I.II
Ngày đăng: 23:10 07/05/20
***
Không thấy máu ở đâu, Milva bắt đầu lo lắng. Cô đột nhiên nhớ lại rằng con hươu đã nhảy lên trước một bước khi cô thả dây cung. Nếu nó đã làm thế, hoặc có ý định làm thế, kết quả đều như nhau cả. Nếu con hươu đã di chuyển, mũi tên có thể đã cắm vào bụng nó. Milva nguyền rủa. Một phát bắn vào bụng, lời nguyền và sự ô nhục đối với một thợ săn! Điềm gở! Quỷ tha ma bắt!
Cô nhanh nhẹn chạy lên sườn đồi, lục soát kỹ càng từng bụi mâm xôi, rêu mốc và dương xỉ. Cô tìm mũi tên của mình. Trang bị với đầu móc câu bốn lưỡi, sắc đến mức cạo được cả lông trên tay cô, bắn từ khoảng cách 50 thước, nó sẽ xuyên thủng con hươu.
Milva trông thấy, cô đã tìm được nó. Cô thở phào nhẹ nhõm và nhổ ba lần, để xua đi vận rủi. Cô không cần lo lắng, mọi việc tốt hơn mong đợi. Mũi tên đã không dính đầy những thứ nhớp nháp và bốc mùi trong ruột. Trên đó không bám cái chất hồng hồng xốp xốp đặc trưng của phổi. Đầu mũi tên bao phủ bởi một lớp máu đặc, đỏ quạch. Mũi tên đã bắn trúng tim. Milva sẽ không cần phải nhón chân hay rình rập quanh khu rừng một lúc lâu. Con hươu chắc chắn đã nằm chết trong một bụi cây nào đó, cách không quá 100 bước chân từ khoảng rừng thưa, nơi mà vết máu sẽ dẫn đến. Một con hươu bị bắn trúng tim sẽ chết sau vài bước nhảy, và cô biết mình có thể lần theo nó dễ dàng.
Sau khoảng một chục bước chân, cô tìm thấy dấu vết con mồi và đi theo nó, lại hòa mình vào dòng ký ức và suy tư.
***
Giữ đúng lời hứa với witcher, cô quay trở lại Brokilon còn sớm hơn đã hẹn, năm ngày sau lễ thu hoạch, năm ngày sau tuần trăng mới, bắt đầu của tháng 8 theo lịch của con người, ngày Lammas đối với người elves.
Cô vượt qua dòng Ribbon vào lúc hừng đông, cùng với 5 người elves. Biệt đội Sóc mà cô dẫn đi ban đầu có 9 con ngựa, nhưng lính đánh thuê Brugge đã săn lùng họ trong suốt cả quãng đường. Có ba nhóm tấn công ở khoảng 500 thước từ bờ sông, quấy rối họ cho đến tận sáng, khi họ bắt đầu trông thấy Brokilon ở phía bên kia bờ sông. Những kẻ tấn công sợ Brokilon. Chính điều này đã cứu Milva và nhóm của cô. Họ vượt qua sông. Mệt mỏi, thương tích đầy mình. Và không phải mọi người đều sống sót.
Cô có tin cho witcher, và cô cho rằng Gwynbleidd vẫn đang ở Col Serrai. Cô định đi gặp anh sau buổi trưa, sau khi đã đánh một giấc. Cô đã rất ngạc nhiên khi thấy anh hiện ra từ màn sương như một bóng ma. Không nói câu nào, anh ngồi xuống gần đó, quan sát cô chuẩn bị giường chiếu, phủ chăn lên một đống lá và cành khô.
“Sao, anh đang vội à?” cô mỉa mai, “witcher, tôi cũng biết mệt đó chứ. Cả ngày lẫn đêm trên yên ngựa, tôi thậm chí chẳng còn cảm giác gì ở mông nữa rồi, và người tôi ướt đến tận rốn, bởi vì chúng tôi phải lội qua suối vào lúc sáng....”
“Làm ơn hãy kể cho tôi. Cô có biết được gì mới không?”
“Có.” cô khịt mũi, tháo đôi giầy ướt sũng ra. “Cũng chẳng khó khăn lắm, bởi vì có vẻ như cô bé đã gây ra một vụ lùm xum không nhỏ. Anh đã không nói là quý cô này quan trọng đến vậy! Tôi cứ tưởng con bé là con nuôi của anh, hẳn phải là một trong mấy đứa trẻ mồ côi tội nghiệp tối ngày bị đánh đập. Thế mà hóa ra chúng ta lại có hẳn công chúa của Cintra! Ha! Và có lẽ anh cũng là một hoàng tử đang giả trang chăng?”
“Làm ơn, hãy kể cho tôi.”
“Có vẻ như các vị vua đều muốn sờ vào con bé, bởi vì Cirilla bé bỏng của anh, từ những gì mà tôi được nghe, đã được cứu khỏi Thanedd và đưa thẳng đến Nilfgaard, cùng với những tên pháp sư tạo phản. Ở Nilfgaard con bé được Hoàng đế Emhyr chào đón nồng nhiệt. Và anh biết gì không? Có vẻ như ông ta đã quyết định sẽ cưới con bé. Và giờ thì để tôi thở cái đã. Nếu anh muốn, chúng ta có thể tiếp tục cuộc trò chuyện này sau khi tôi nghỉ ngơi xong.”
Witcher im lặng. Milva treo tất lên một cành cây, để ánh mặt trời có thể sấy khô chúng, rồi cởi thắt lưng ra.
“Tôi ước là anh không đứng đó với vẻ khó chịu như vậy,” cô làu bàu, “Anh còn muốn tin tốt lành nào nữa đây? Không có gì đe dọa anh, không ai hỏi han về anh và lũ gián điệp đã không còn quan tâm đến anh nữa rồi. Còn về cô nương của anh, con bé đã thoát khỏi tay các vị vua, và sẽ được trở thành Nữ hoàng....”
“Cô có chắc thông tin này chính xác không?”
“Chẳng có gì là chắc chắn vào thời buổi này,” cô đáp lại với một cái ngáp dài, ngồi lên giường. “Ngoại trừ việc mặt trời mọc đằng đông và lặn đằng tây. Nhưng những gì mà họ nói về Hoàng đế Nilfgaard và công chúa Cintra chắc đúng là sự thật. Người ta đang bàn tán khắp nơi về nó.”
“Tại sao chuyện này lại đột nhiên nổi như vậy?”
“Cứ như là anh không biết ý! Nghĩ đi....con bé sẽ đem cho Emhyr một mảnh đất ngon lành với vai trò một người vợ! Không chỉ Cintra, mà còn cả những vùng nằm ở phía bên này của Yaruga nữa! Ha, con bé thậm chí có thể trở thành nữ hoàng của tôi nữa không chừng, bởi vì tôi xuất thân từ Upper Sodden, và toàn bộ vùng Sodden rồi sẽ trở thành địa phận của ông ta. Rồi một ngày, tôi sẽ săn một con hươu trong khu rừng của họ, và rồi tôi sẽ bị treo cổ theo lệnh của con bé....cái thế giới tàn nhẫn khốn khiếp! Ah, mẹ kiếp, mắt tôi mỏi lắm rồi....”
“Chỉ một câu hỏi nữa thôi. Mấy nữ pháp sư đó....trong số những tay pháp sư đã tạo phản đó, một số đã bị bắt phải không?”
“Không. Nhưng họ nói có một người đã tự vẫn, Sau khi Vengerberg thất thủ, và quân đội Nilfgaard tiến vào Aedirn và Kaedwen. Có lẽ là do đau buồn hay sợ bị tra tấn....”
“Biệt đội mà cô mang tới đây có dư ngựa, liệu những người elves có cho tôi một con được không?”
“Aha, tôi có thể thấy là anh nóng lòng muốn lên đường,” cô lầm bầm, quấn người trong chăn. “Và tôi nghĩ là tôi biết....”
Cô ngừng lại, ngạc nhiên trước biểu cảm trên gương mặt anh. Đột nhiên cô nhận ra rằng tin tức mình đem đến không tốt lành tí nào cả, cô chẳng hiểu gì hết. Cô bỗng dưng muốn ngồi xuống bên cạnh anh, dìm anh trong hàng đống câu hỏi, lắng nghe anh, cho anh lời khuyên....Cô dụi mắt bằng mu bàn tay. Mình mệt quá rồi, cô nghĩ, chết chóc, bị truy sát cả đêm. Mình cần phải nghỉ ngơi. Sau cùng thì mình quan tâm quái gì đến những vấn đề của anh ta? Có ý nghĩa gì không? Và đứa bé gái đó? Kệ xác anh ta và con bé! Mẹ kiếp, mình lại đi mất ngủ vì ba cái chuyện vớ vẩn này....”
Witcher đứng dậy.
“Liệu những người elves có cho tôi một con ngựa không?” Anh hỏi lại.
“Cứ lấy bất kỳ con nào anh muốn.” Cô nói sau một lúc. “Chỉ cần đảm bảo là họ không trông thấy anh. Đám lính đánh thuê tấn công chúng tôi gần bờ sông, máu me khắp nơi....À, và đừng động vào con Moreau, nó là của tôi.....Sao anh vẫn còn đứng đây?”
“Cảm ơn sự giúp đỡ của cô. Cảm ơn vì tất cả.”
Cô không đáp lại.
“Tôi nợ cô. Làm sao tôi có thể đền đáp được đây?”
“Làm sao ư? Anh có thể biến đi là được rồi!” Cô la lên, kéo chăn trùm kín đầu. “Tôi....Tôi muốn ngủ! Hãy cứ lấy một con ngựa....đi đi.....đến Nilfgaard, xuống địa ngục, tôi đếch quan tâm! Biến đi! Để tôi yên thân!”
“Tôi sẽ trả lại những gì đã nợ cô,” anh nói nhẹ nhàng. “Tôi sẽ không quên đâu. Có lẽ một ngày nào đó, cô mới là người cần giúp đỡ, cần một bờ vai, một bờ vai để tựa. Vậy thì hãy gọi, gọi vào màn đêm. Và tôi sẽ tới.”
***
Con hươu nằm dưới chân dốc, cặp mắt thủy tinh của nó hướng lên bầu trời. Đất xung quanh khá xốp và ẩm ướt, phủ đầy dương xỉ. Milva trông thấy một con rận to đùng đậu trên cái bụng phẳng lỳ của con thú.
“Mi sẽ phải tìm một nạn nhân khác thôi, đồ côn trùng bé nhỏ của ta à,” cô lầm bầm, xắn tay áo lên và rút dao ra. “Bởi vì con này đã lạnh ngắt rồi.”
Bằng những động tác nhanh nhẹn, điêu luyện, cô rạch bộ da từ xương ngực cho đến đuôi, khéo léo tránh qua bộ phận sinh dục. Cô cẩn thận tách ra lớp mỡ, cắt cuống họng và với máu ngập lên tận cùi chỏ, cô lục lọi qua mớ ruột và túi mật để tìm sỏi. Cô không tin tưởng lắm vào công dụng ma thuật của sỏi thận, nhưng có không ít những gã khờ khác tin sái cổ và sẵn sàng trả rất nhiều tiền cho chúng.
Cô vác xác con hươu lên và đặt nó nằm xuống một khúc gỗ, bụng phơi ra ngoài để máu chảy ra hết. Cô lấy lá dương xỉ chùi tay và ngồi xuống cạnh con mồi.
“Anh chắc bị điên hoặc ma nhập rồi, witcher.” Cô nói khẽ, lơ đãng nhìn bức tường thông của Brokilon, tán của chúng cao cả trăm mét phía trên đầu cô. “Đến tận Nilfgaard để tìm đứa bé gái đó. Đến tận cùng thế giới, để băng qua lửa, và thậm chí còn chẳng thèm tích trữ nhu yếu phẩm. Tôi biết là anh sống vì con bé, nhưng có nhất thiết phải như vậy không?”
Những cái cây, đương nhiên là không bình phẩm hay cắt ngang màn độc thoại của cô.
“Tôi đang nghĩ,” Milva tiếp tục, lấy dao cạo máu khô ra khỏi móng tay, “Anh chẳng có chút cơ hội nào để giải cứu quý cô bé nhỏ của mình đâu. Anh sẽ chẳng thể đến nổi Nilfgaard, hay thậm chí là sông Yaruga. Ở trong tình trạng này, anh còn chẳng đến nổi Sodden nữa là. Cái chết của anh đã được viết sẵn rồi. Nó đã viết sẵn trên cái gương mặt bướng bỉnh của anh, anh có thể nhìn thấy nó bằng chính đôi mắt kinh hãi của anh. Cái chết sẽ bất ngờ đến với anh, witcher, sớm thôi. Nhưng nhờ vào con hươu nhỏ này, anh sẽ không chết đói. Và đó là một điều tốt. Ít ra thì....tôi nghĩ vậy.”
***
Trông thấy đại sứ của Nilfgaard bước vào phòng, Dijkstra khẽ thở dài. Shilard Fitz-Osterlen, sứ thần của Hoàng đế Emhyr var Emreis, có sở thích nói toàn thuật ngữ ngoại giao và biến thứ ngôn ngữ kệch cỡm và câu từ mâu thuẫn thành một loại giao tiếp chỉ có các nhà thông thái và học giả mới hiểu nổi. Dijkstra đã theo học ở Học viện Oxenfurt và mặc dù không có bằng thạc sĩ, ông ta cũng biết căn bản cái thứ tiếng thổ dân của mấy tay học giả này. Tuy nhiên ông ta rất miễn cưỡng phải dùng nó, bởi vì bản tính vốn không thể chịu nổi những trò khoe mẽ và hình thức, hay bất cứ thể loại giả tạo nào như vậy.
“Xin chào mừng, đại sứ.”
“Ngài bá tước,” Shilard Fitz-Osterlen cúi chào theo nghi lễ. “Ah, làm ơn bỏ quá cho tôi. Hay có lẽ giờ tôi nên nói là đại công tước nhỉ? Vương công cao quý và tôn kính? Quốc trưởng của quốc gia? Xin thề có trời, thưa ngài, rằng những lời ca tụng đang đổ xuống đầu ngài nhiều tới nỗi tôi không biết nên dùng tước hiệu nào cho phải đây.”
“Cứ gọi “điện hạ” là tốt nhất rồi.” Dijkstra khiêm tốn. “Ông biết mà, sau cùng thì, triều đình mới tạo nên một vị vua. Và chắc ông cũng đã quen với sự thật rằng mỗi khi tôi nói “nhảy!”, thì cả triều đình Tretogor đều hỏi “cao bao nhiêu?”
Người đại sứ biết là Dijkstra đang nói chơi, nhưng cũng không hẳn là quá khác xa so với sự thật. Hoàng tử Radovid chỉ là một thằng nhãi, nữ hoàng Hedwig thì đang suy sụp vì cái chết bi thảm của chồng, các nhà hiền triết thì hoảng loạn, trở nên ngu đần, chia bè kết phái.
Sự thật thì đúng là Redania được cai quản bởi Dijkstra. Ông ta có thể có được bất cứ vinh quang nào mà mình muốn. Nhưng ông ta lại chẳng muốn gì cả.
“Ngài đã có nhã ý cho gọi tôi,” người sứ giả nói sau một hồi. “Mà không cần sự có mặt của Bộ trưởng Ngoại giao. Xin hỏi cớ làm sao tôi lại có được vinh hạnh này?”
“Ngài bộ trưởng,” Dijkstra ngước mắt lên trần nhà, “đã xin từ chức vì lý do sức khỏe.”
Ngài đại sứ gật đầu nghiêm trang. Ông ta biết rất rõ rằng bộ trưởng ngoại giao hiện giờ đang ngồi trong nhà giam, và chắc chắn chỉ cần liếc sơ qua những dụng cụ tra tấn là đủ để ông ta khai ra hết tất cả mối liên hệ của mình với sở mật vụ của Nilfgaard, bởi vì ông ta là một thằng ngu và một tên hèn. Ngài đại sứ biết rằng mạng lưới gián điệp được tổ chức bởi Vattier de Rideaux, trưởng cơ quan tình báo của đế chế, đã bị đập tan, và giờ tất cả những sợi dây còn lại đều nằm trong tay Dijkstra. Ông ta cũng biết rằng những sợi dây này có thể dẫn trực tiếp đến mình. Nhưng quyền miễn trừ ngoại giao bảo vệ ông ta, và truyền thống cùng trách nhiệm buộc ông ta phải chơi cho đến cùng.
Đặc biệt là sau bức mật thư kỳ lạ mà Vattier và “thanh tra” Stefan Skellen, đặc vụ hoàng gia chuyên đảm nhận những chiến dịch đặc biệt, mới gửi đến đại sứ quán gần đây.
“Vì người kế vị hiện vẫn chưa được chọn,” Dijkstra bắt đầu, “nên trách nhiệm khó khăn này đổ lên đầu tôi. Tôi rất tiếc phải thông báo rằng ngài đại sứ không còn được chào đón tại vương quốc Redania nữa.”
Ngài đại sứ cúi chào.
“Quả đúng là rất tiếc,” ông ta nói, “rằng sự thiếu tin tưởng dẫn đến việc trục xuất đại sứ của hai bên này lại xuất phát từ những sự thật mà không liên can trực tiếp đến vương quốc Redania, hay đế chế Nilfgaard. Đế chế đã không hề có hành động gây hấn nào với Redania.”
“Ngoại trừ vành đai cấm vận ở cửa sông Yaruga và Quần đảo Skellige dành cho tàu và hàng hóa của chúng tôi? Ngoại trừ tiếp vũ khí và hỗ trợ các băng nhóm Scoia’tael?”
“Đó chỉ là những lời vu khống.”
“Vậy còn trại tập trung của quân đội đế chế nằm ở Verden và Cintra thì sao? Những cuộc công kích của các băng nhóm vũ trang ở Sodden và Brugge? Sodden và Brugge đều là những vùng đất nằm dưới sự bảo hộ của Temeria, và trong khi chúng tôi đang ở cùng một liên minh với Temeria, thưa ngài đại sứ, tấn công vào họ cũng đồng nghĩa là vào chúng tôi. Cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd và vụ ám sát vua Vizimir cũng đều là những vấn đề liên can trực tiếp đến Redania. Tôi vẫn đang thắc mắc về vai trò của đế chế trong những sự kiện này.”
“Về sự cố trên đảo Thanedd,” ngài đại sứ xòe tay ra, “tôi không được quyền đưa ra bình luận nào. Ngoại trừ những người trực tiếp phục vụ mình, Hoàng đế Emhyr var Emreis không hề dính dáng đến các pháp sư khác. Tôi lấy làm tiếc về hậu quả không nhỏ gây ra bởi những động thái của chúng tôi, nhằm phản đối chiến dịch tuyên truyền đang phát tán những thông tin hoàn toàn sai sự thật. Chiến dịch tuyên truyền được tiếp tay, tôi xin mạo muội, bởi chính người cầm quyền cao nhất của Redania.”
“Những động thái phản đối của ông đã làm tôi ngạc nhiên. Và tôi xin nói là rất ngạc nhiên là đằng khác.” Dijkstra mỉm cười nhẹ nhàng. “Sau cùng thì, Hoàng đế đâu có giấu diếm sự thật rằng Công chúa của Cintra, người đã bị bắt cóc khỏi Thanedd, hiện đang ở trong triều đình của ngài ấy.”
“Cirilla, Nữ hoàng của Cintra,” Shilard Fitz-Osterlen sửa lại ngay lập tức, “đã không bị bắt cóc, mà xin được trú ẩn tại Đế chế. Nó không dính dáng gì với sự kiện trên đảo Thanedd cả.”
“Thật sao?”
“Sự cố trên Thanedd,” ngài đại sứ tiếp tục với một gương mặt lạnh như đá, “đã khiến Hoàng đế thực sự ghê tởm. Và cuộc tấn công hèn hạ bởi một kẻ điên khùng nhằm vào vua Vizimir đã khơi dậy trong ngài một nỗi căm thù sâu sắc. Tuy nhiên, nó đã lên đến đỉnh điểm khi những lời đồn khủng khiếp lan trong đại bộ phận quần chúng, những người dám nhìn Đế chế như thủ phạm đích thực của tội ác này.”
“Hy vọng khám phá ra hung thủ đích thực,” Dijkstra tiếp lời thật từ tốn, “sẽ chấm dứt những lời đồn này. Kẻ gây án sẽ bị bắt, và công lý sẽ được thực thi, chỉ là vấn đề thời gian thôi.”
“Justitian Est Fundamentum Regnorumb,” Shilard Fitz-Osterlen trả lời nghiêm túc. “Crimen horribilis non potest non esse punibile. Tôi cũng nghĩ là điện hạ muốn được nhìn thấy điều đó thành sự thật.”
“Sức mạnh để biến điều đó thành sự thật hoàn toàn nằm trong tay Hoàng đế.” Dijkstra điềm nhiên thêm vào, tay bắt chéo trước ngực. “Một trong số những kẻ đầu não của âm mưu, Enid an Gleanna, cho đến gần đây, được biết đến với chức danh nữ pháp sư Francesca Findabair, đang ngồi chơi trò nữ hoàng elves của vương quốc bù nhìn Dol Blathanna, từ trên băng ghế của Đế chế.”
“Hoàng đế tối cao,” ngài đại sứ cúi đầu cứng nhắc, “không thể can thiệp vào nội vụ của Dol Blathanna, một quốc gia độc lập có chủ quyền được công nhận bởi tất cả các vương quốc láng giềng.”
“Ngoại trừ Redania. Đối với Redania, Dol Blathanna vẫn là một phần của vương quốc Aedirn, mặc dù các ông đã cắt xẻ Aedirn và Lyria ra thành từng mảnh vụn với sự trợ giúp của người elves và Kaedwen. Các ông đã xóa tên những vương quốc này ra khỏi bản đồ sớm quá. Sớm quá, ngài đại sứ à. Tuy nhiên, đây không phải nơi cũng như lúc để bàn chuyện đó. Hãy cứ để Francesca Findabair cầm quyền trong lúc này, thời khắc dành cho công lý sẽ đến sau. Vậy còn những tên phản loạn khác, và kẻ chủ mưu vụ ám sát Vua Vizimir? Vilgefortz vùng Roggeveen, và Yennefer thành Vengerberg? Có đủ mọi lý do để tin rằng sau khi sự việc bại lộ, cả hai đều đã trốn đến Nilfgaard.”
“Tôi xin đảm bảo với ngài,” người sứ giả ngẩng đầu lên, “rằng chúng không hề. Và kể cả nếu có thật, tôi xin cam đoan rằng chúng sẽ không thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng.”
“Chúng đã không phạm tội chống lại các ông, vậy nên các ông không có quyền trừng phạt chúng. Bằng cách giao nộp chúng ra, Hoàng đế Emhyr sẽ cung cấp được bằng chứng chân thành nhất cho khát khao công lý của ngài. Sau cùng thì, Justitia Est Fundamentum Regnorum.”
“Không thể phản bác lại sự khôn ngoan trong yêu cầu của ngài,” Shilard Fitz-Osterlen thừa nhận, giả bộ cười hổ thẹn. “Đầu tiên, những kẻ này không nằm trong phạm vi lãnh thổ của Đế chế. Thứ hai, kể cả khi chúng có đi chăng nữa, vẫn có một chút vấn đề. Việc dẫn độ sẽ phải được thi hành bởi một cơ quan hành pháp chính thức, trong trường hợp này, là Hội đồng Hoàng gia. Xin hãy cân nhắc điều này, thưa điện hạ, việc trục xuất đại sứ là một hành động gây hấn từ phía Redania. Thế nên sẽ là phi logic nếu Hội đồng lại chấp thuận một yêu cầu dẫn độ từ một vương quốc thù địch. Sẽ là một thông lệ chưa từng có....trừ phi....”
“Trừ phi cái gì?”
“Ngài tạo ra một tiền lệ.”
“Tôi không hiểu.”
“Nếu vương quốc Redania sẵn sàng giao nộp ra một cá nhân được coi là tội phạm đối với Đế chế, thì Hoàng đế và Hội đồng sẽ có lý do để cân nhắc động thái hợp tác này.”
Dijkstra im lặng trong một lúc lâu, trông như đang lạc trong suy nghĩ.
“Các ông muốn ai?”
“Tên của kẻ tội phạm này ư?” ngài đại sứ ra vẻ cố nhớ lại cái tên, và cuối cùng thì thò tay vào trong cặp và lấy ra xấp tài liệu. “Xin thứ lỗi cho trí nhớ của tôi. Tôi có nó đây rồi. À, phải, một người tên Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach. Không thể phủ nhận là các cáo buộc chống lại hắn là vô cùng nghiêm trọng. Hắn bị truy nã vì tội giết người, đào ngũ, bắt cóc, cưỡng bức, trộm cắp và làm giả tài liệu. Hắn đã trốn thoát khỏi cơn thịnh nộ của hoàng đế bằng cách chuồn ra nước ngoài.”
“Đến Redania sao? Hắn đã chọn một con đường xa đấy.”
“Thưa ngài,” Shilard Fitz-Osterlen mỉm cười, “hắn không nhất định là đang ở trong lãnh thổ Redania. Nhưng tôi không nghi ngờ là nếu tên phạm nhân bị phát hiện ở bất kỳ vương quốc nào nằm trong liên minh của ngài, ngài sẽ ngay lập tức được thông báo nhờ vào....những mối liên hệ cá nhân.”
“Ông nói tên của kẻ này là gì?”
“Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach.”
Dijkstra trầm ngâm một lúc lâu, giả bộ lục lọi trí nhớ.
“Không.” Cuối cùng ông ta nói. “Chúng tôi chưa bắt được ai có tên như vậy cả.”
“Thật sao?”
“Lần này thì trí nhớ của tôi rất minh mẫn. Xin thứ lỗi, ngài đại sứ.”
“Tôi cũng vậy,” Shilard Fitz-Osterlen lạnh lùng đáp. “Đặc biệt là có vẻ như trong hoàn cảnh này, việc tổ chức hợp tác dẫn độ sẽ là bất khả thi. Tôi sẽ không làm phiền điện hạ nữa. Xin chúc ngài mạnh khỏe và thành công trong công việc.”
“Chúc sức khỏe và chúc may mắn.”
“Tôi cũng vậy. Tạm biệt, thưa điện hạ.”
Ngài đại sứ bước ra ngoài, sau khi thực hiện xong vài nghi lễ cúi chào phức tạp.
“Đi mà hôn cái sempitemum meam của ta ý, đồ khôn lỏi.” Dijkstra lầm bầm, bắt chéo tay trước ngực. “Ori!”
Người thư ký, mặt đỏ lựng vì ho và khục khặc, hiện ra từ sau bức màn.
“Philippa vẫn đang ở Montecalvo phải không?”
“Phải, hem, hem. Cùng với các bạn của cô ta, Laux-Antille, Merigold và Metz.”
“Bất kỳ ngày nào thôi, chiến tranh sẽ nổ ra, biên giới tại Yaruga sẽ tan tành, thế mà họ lại đi nhốt nhau trong một cái pháo đài hoang dã nào đó! Lấy giấy bút ra đi, và viết. “Phil thân yêu...” Mẹ kiếp!”
“Tôi đã viết là: Philippa thân mến.”
“Tốt, tiếp tục: “Cô có thể sẽ hứng thú khi biết rằng, cái gã kỳ dị đội chiếc mũ cánh chim mà đã biến mất bí hiểm cũng như khi xuất hiện trên Thanedd, tên là Cahir Mawr Dyffryn và là con trai của quan nhiếp chính Caellach. Ngạc nhiên thay là không chỉ có mình chúng ta là đang tìm kiếm nhân vật lạ lùng này, mà cả Vattier de Rideaux và cấp dưới của thằng con hoang đó....”
“Quý cô Philippa, hem, hem, không thích ngôn từ như vậy đâu. Tôi viết là: tên vô lại đó.”
“Rồi, thì tên vô lại Stefan Skellen đó. “Và cô cũng biết rõ như tôi, Phil thân mến, rằng sở mật vụ của Emhyr đang khẩn trương tìm kiếm các đặc vụ và sứ giả đó, những kẻ mà Emhyr đã thề sẽ xé xác ra làm trăm mảnh. Những kẻ đáng ra phải thực hiện ý nguyện của ông ta trong thành phố đêm hôm đó hoặc là chết, nhưng đã tạo phản, và để lại mệnh lệnh của mình chưa được thực thi. Mọi việc có vẻ khó hiểu, tuy nhiên chúng tôi tự tin rằng Cahir đã được lệnh bắt sống công chúa Cirilla và áp tải cô ta đến Nilfgaard.” Sang đoạn mới. “Vấn đề này đã dấy lên sự nghi ngờ không hề nhỏ trong tôi và mặc dù nghe có vẻ kỳ lạ, tôi đã nghĩ ra được vài giả thiết khá bất ngờ. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn là vô nghĩa, và tôi muốn bàn luận về chúng cùng cô một cách riêng tư. Chúc sức khỏe, vân vân và vân vân.”
Không thấy máu ở đâu, Milva bắt đầu lo lắng. Cô đột nhiên nhớ lại rằng con hươu đã nhảy lên trước một bước khi cô thả dây cung. Nếu nó đã làm thế, hoặc có ý định làm thế, kết quả đều như nhau cả. Nếu con hươu đã di chuyển, mũi tên có thể đã cắm vào bụng nó. Milva nguyền rủa. Một phát bắn vào bụng, lời nguyền và sự ô nhục đối với một thợ săn! Điềm gở! Quỷ tha ma bắt!
Cô nhanh nhẹn chạy lên sườn đồi, lục soát kỹ càng từng bụi mâm xôi, rêu mốc và dương xỉ. Cô tìm mũi tên của mình. Trang bị với đầu móc câu bốn lưỡi, sắc đến mức cạo được cả lông trên tay cô, bắn từ khoảng cách 50 thước, nó sẽ xuyên thủng con hươu.
Milva trông thấy, cô đã tìm được nó. Cô thở phào nhẹ nhõm và nhổ ba lần, để xua đi vận rủi. Cô không cần lo lắng, mọi việc tốt hơn mong đợi. Mũi tên đã không dính đầy những thứ nhớp nháp và bốc mùi trong ruột. Trên đó không bám cái chất hồng hồng xốp xốp đặc trưng của phổi. Đầu mũi tên bao phủ bởi một lớp máu đặc, đỏ quạch. Mũi tên đã bắn trúng tim. Milva sẽ không cần phải nhón chân hay rình rập quanh khu rừng một lúc lâu. Con hươu chắc chắn đã nằm chết trong một bụi cây nào đó, cách không quá 100 bước chân từ khoảng rừng thưa, nơi mà vết máu sẽ dẫn đến. Một con hươu bị bắn trúng tim sẽ chết sau vài bước nhảy, và cô biết mình có thể lần theo nó dễ dàng.
Sau khoảng một chục bước chân, cô tìm thấy dấu vết con mồi và đi theo nó, lại hòa mình vào dòng ký ức và suy tư.
***
Giữ đúng lời hứa với witcher, cô quay trở lại Brokilon còn sớm hơn đã hẹn, năm ngày sau lễ thu hoạch, năm ngày sau tuần trăng mới, bắt đầu của tháng 8 theo lịch của con người, ngày Lammas đối với người elves.
Cô vượt qua dòng Ribbon vào lúc hừng đông, cùng với 5 người elves. Biệt đội Sóc mà cô dẫn đi ban đầu có 9 con ngựa, nhưng lính đánh thuê Brugge đã săn lùng họ trong suốt cả quãng đường. Có ba nhóm tấn công ở khoảng 500 thước từ bờ sông, quấy rối họ cho đến tận sáng, khi họ bắt đầu trông thấy Brokilon ở phía bên kia bờ sông. Những kẻ tấn công sợ Brokilon. Chính điều này đã cứu Milva và nhóm của cô. Họ vượt qua sông. Mệt mỏi, thương tích đầy mình. Và không phải mọi người đều sống sót.
Cô có tin cho witcher, và cô cho rằng Gwynbleidd vẫn đang ở Col Serrai. Cô định đi gặp anh sau buổi trưa, sau khi đã đánh một giấc. Cô đã rất ngạc nhiên khi thấy anh hiện ra từ màn sương như một bóng ma. Không nói câu nào, anh ngồi xuống gần đó, quan sát cô chuẩn bị giường chiếu, phủ chăn lên một đống lá và cành khô.
“Sao, anh đang vội à?” cô mỉa mai, “witcher, tôi cũng biết mệt đó chứ. Cả ngày lẫn đêm trên yên ngựa, tôi thậm chí chẳng còn cảm giác gì ở mông nữa rồi, và người tôi ướt đến tận rốn, bởi vì chúng tôi phải lội qua suối vào lúc sáng....”
“Làm ơn hãy kể cho tôi. Cô có biết được gì mới không?”
“Có.” cô khịt mũi, tháo đôi giầy ướt sũng ra. “Cũng chẳng khó khăn lắm, bởi vì có vẻ như cô bé đã gây ra một vụ lùm xum không nhỏ. Anh đã không nói là quý cô này quan trọng đến vậy! Tôi cứ tưởng con bé là con nuôi của anh, hẳn phải là một trong mấy đứa trẻ mồ côi tội nghiệp tối ngày bị đánh đập. Thế mà hóa ra chúng ta lại có hẳn công chúa của Cintra! Ha! Và có lẽ anh cũng là một hoàng tử đang giả trang chăng?”
“Làm ơn, hãy kể cho tôi.”
“Có vẻ như các vị vua đều muốn sờ vào con bé, bởi vì Cirilla bé bỏng của anh, từ những gì mà tôi được nghe, đã được cứu khỏi Thanedd và đưa thẳng đến Nilfgaard, cùng với những tên pháp sư tạo phản. Ở Nilfgaard con bé được Hoàng đế Emhyr chào đón nồng nhiệt. Và anh biết gì không? Có vẻ như ông ta đã quyết định sẽ cưới con bé. Và giờ thì để tôi thở cái đã. Nếu anh muốn, chúng ta có thể tiếp tục cuộc trò chuyện này sau khi tôi nghỉ ngơi xong.”
Witcher im lặng. Milva treo tất lên một cành cây, để ánh mặt trời có thể sấy khô chúng, rồi cởi thắt lưng ra.
“Tôi ước là anh không đứng đó với vẻ khó chịu như vậy,” cô làu bàu, “Anh còn muốn tin tốt lành nào nữa đây? Không có gì đe dọa anh, không ai hỏi han về anh và lũ gián điệp đã không còn quan tâm đến anh nữa rồi. Còn về cô nương của anh, con bé đã thoát khỏi tay các vị vua, và sẽ được trở thành Nữ hoàng....”
“Cô có chắc thông tin này chính xác không?”
“Chẳng có gì là chắc chắn vào thời buổi này,” cô đáp lại với một cái ngáp dài, ngồi lên giường. “Ngoại trừ việc mặt trời mọc đằng đông và lặn đằng tây. Nhưng những gì mà họ nói về Hoàng đế Nilfgaard và công chúa Cintra chắc đúng là sự thật. Người ta đang bàn tán khắp nơi về nó.”
“Tại sao chuyện này lại đột nhiên nổi như vậy?”
“Cứ như là anh không biết ý! Nghĩ đi....con bé sẽ đem cho Emhyr một mảnh đất ngon lành với vai trò một người vợ! Không chỉ Cintra, mà còn cả những vùng nằm ở phía bên này của Yaruga nữa! Ha, con bé thậm chí có thể trở thành nữ hoàng của tôi nữa không chừng, bởi vì tôi xuất thân từ Upper Sodden, và toàn bộ vùng Sodden rồi sẽ trở thành địa phận của ông ta. Rồi một ngày, tôi sẽ săn một con hươu trong khu rừng của họ, và rồi tôi sẽ bị treo cổ theo lệnh của con bé....cái thế giới tàn nhẫn khốn khiếp! Ah, mẹ kiếp, mắt tôi mỏi lắm rồi....”
“Chỉ một câu hỏi nữa thôi. Mấy nữ pháp sư đó....trong số những tay pháp sư đã tạo phản đó, một số đã bị bắt phải không?”
“Không. Nhưng họ nói có một người đã tự vẫn, Sau khi Vengerberg thất thủ, và quân đội Nilfgaard tiến vào Aedirn và Kaedwen. Có lẽ là do đau buồn hay sợ bị tra tấn....”
“Biệt đội mà cô mang tới đây có dư ngựa, liệu những người elves có cho tôi một con được không?”
“Aha, tôi có thể thấy là anh nóng lòng muốn lên đường,” cô lầm bầm, quấn người trong chăn. “Và tôi nghĩ là tôi biết....”
Cô ngừng lại, ngạc nhiên trước biểu cảm trên gương mặt anh. Đột nhiên cô nhận ra rằng tin tức mình đem đến không tốt lành tí nào cả, cô chẳng hiểu gì hết. Cô bỗng dưng muốn ngồi xuống bên cạnh anh, dìm anh trong hàng đống câu hỏi, lắng nghe anh, cho anh lời khuyên....Cô dụi mắt bằng mu bàn tay. Mình mệt quá rồi, cô nghĩ, chết chóc, bị truy sát cả đêm. Mình cần phải nghỉ ngơi. Sau cùng thì mình quan tâm quái gì đến những vấn đề của anh ta? Có ý nghĩa gì không? Và đứa bé gái đó? Kệ xác anh ta và con bé! Mẹ kiếp, mình lại đi mất ngủ vì ba cái chuyện vớ vẩn này....”
Witcher đứng dậy.
“Liệu những người elves có cho tôi một con ngựa không?” Anh hỏi lại.
“Cứ lấy bất kỳ con nào anh muốn.” Cô nói sau một lúc. “Chỉ cần đảm bảo là họ không trông thấy anh. Đám lính đánh thuê tấn công chúng tôi gần bờ sông, máu me khắp nơi....À, và đừng động vào con Moreau, nó là của tôi.....Sao anh vẫn còn đứng đây?”
“Cảm ơn sự giúp đỡ của cô. Cảm ơn vì tất cả.”
Cô không đáp lại.
“Tôi nợ cô. Làm sao tôi có thể đền đáp được đây?”
“Làm sao ư? Anh có thể biến đi là được rồi!” Cô la lên, kéo chăn trùm kín đầu. “Tôi....Tôi muốn ngủ! Hãy cứ lấy một con ngựa....đi đi.....đến Nilfgaard, xuống địa ngục, tôi đếch quan tâm! Biến đi! Để tôi yên thân!”
“Tôi sẽ trả lại những gì đã nợ cô,” anh nói nhẹ nhàng. “Tôi sẽ không quên đâu. Có lẽ một ngày nào đó, cô mới là người cần giúp đỡ, cần một bờ vai, một bờ vai để tựa. Vậy thì hãy gọi, gọi vào màn đêm. Và tôi sẽ tới.”
***
Con hươu nằm dưới chân dốc, cặp mắt thủy tinh của nó hướng lên bầu trời. Đất xung quanh khá xốp và ẩm ướt, phủ đầy dương xỉ. Milva trông thấy một con rận to đùng đậu trên cái bụng phẳng lỳ của con thú.
“Mi sẽ phải tìm một nạn nhân khác thôi, đồ côn trùng bé nhỏ của ta à,” cô lầm bầm, xắn tay áo lên và rút dao ra. “Bởi vì con này đã lạnh ngắt rồi.”
Bằng những động tác nhanh nhẹn, điêu luyện, cô rạch bộ da từ xương ngực cho đến đuôi, khéo léo tránh qua bộ phận sinh dục. Cô cẩn thận tách ra lớp mỡ, cắt cuống họng và với máu ngập lên tận cùi chỏ, cô lục lọi qua mớ ruột và túi mật để tìm sỏi. Cô không tin tưởng lắm vào công dụng ma thuật của sỏi thận, nhưng có không ít những gã khờ khác tin sái cổ và sẵn sàng trả rất nhiều tiền cho chúng.
Cô vác xác con hươu lên và đặt nó nằm xuống một khúc gỗ, bụng phơi ra ngoài để máu chảy ra hết. Cô lấy lá dương xỉ chùi tay và ngồi xuống cạnh con mồi.
“Anh chắc bị điên hoặc ma nhập rồi, witcher.” Cô nói khẽ, lơ đãng nhìn bức tường thông của Brokilon, tán của chúng cao cả trăm mét phía trên đầu cô. “Đến tận Nilfgaard để tìm đứa bé gái đó. Đến tận cùng thế giới, để băng qua lửa, và thậm chí còn chẳng thèm tích trữ nhu yếu phẩm. Tôi biết là anh sống vì con bé, nhưng có nhất thiết phải như vậy không?”
Những cái cây, đương nhiên là không bình phẩm hay cắt ngang màn độc thoại của cô.
“Tôi đang nghĩ,” Milva tiếp tục, lấy dao cạo máu khô ra khỏi móng tay, “Anh chẳng có chút cơ hội nào để giải cứu quý cô bé nhỏ của mình đâu. Anh sẽ chẳng thể đến nổi Nilfgaard, hay thậm chí là sông Yaruga. Ở trong tình trạng này, anh còn chẳng đến nổi Sodden nữa là. Cái chết của anh đã được viết sẵn rồi. Nó đã viết sẵn trên cái gương mặt bướng bỉnh của anh, anh có thể nhìn thấy nó bằng chính đôi mắt kinh hãi của anh. Cái chết sẽ bất ngờ đến với anh, witcher, sớm thôi. Nhưng nhờ vào con hươu nhỏ này, anh sẽ không chết đói. Và đó là một điều tốt. Ít ra thì....tôi nghĩ vậy.”
***
Trông thấy đại sứ của Nilfgaard bước vào phòng, Dijkstra khẽ thở dài. Shilard Fitz-Osterlen, sứ thần của Hoàng đế Emhyr var Emreis, có sở thích nói toàn thuật ngữ ngoại giao và biến thứ ngôn ngữ kệch cỡm và câu từ mâu thuẫn thành một loại giao tiếp chỉ có các nhà thông thái và học giả mới hiểu nổi. Dijkstra đã theo học ở Học viện Oxenfurt và mặc dù không có bằng thạc sĩ, ông ta cũng biết căn bản cái thứ tiếng thổ dân của mấy tay học giả này. Tuy nhiên ông ta rất miễn cưỡng phải dùng nó, bởi vì bản tính vốn không thể chịu nổi những trò khoe mẽ và hình thức, hay bất cứ thể loại giả tạo nào như vậy.
“Xin chào mừng, đại sứ.”
“Ngài bá tước,” Shilard Fitz-Osterlen cúi chào theo nghi lễ. “Ah, làm ơn bỏ quá cho tôi. Hay có lẽ giờ tôi nên nói là đại công tước nhỉ? Vương công cao quý và tôn kính? Quốc trưởng của quốc gia? Xin thề có trời, thưa ngài, rằng những lời ca tụng đang đổ xuống đầu ngài nhiều tới nỗi tôi không biết nên dùng tước hiệu nào cho phải đây.”
“Cứ gọi “điện hạ” là tốt nhất rồi.” Dijkstra khiêm tốn. “Ông biết mà, sau cùng thì, triều đình mới tạo nên một vị vua. Và chắc ông cũng đã quen với sự thật rằng mỗi khi tôi nói “nhảy!”, thì cả triều đình Tretogor đều hỏi “cao bao nhiêu?”
Người đại sứ biết là Dijkstra đang nói chơi, nhưng cũng không hẳn là quá khác xa so với sự thật. Hoàng tử Radovid chỉ là một thằng nhãi, nữ hoàng Hedwig thì đang suy sụp vì cái chết bi thảm của chồng, các nhà hiền triết thì hoảng loạn, trở nên ngu đần, chia bè kết phái.
Sự thật thì đúng là Redania được cai quản bởi Dijkstra. Ông ta có thể có được bất cứ vinh quang nào mà mình muốn. Nhưng ông ta lại chẳng muốn gì cả.
“Ngài đã có nhã ý cho gọi tôi,” người sứ giả nói sau một hồi. “Mà không cần sự có mặt của Bộ trưởng Ngoại giao. Xin hỏi cớ làm sao tôi lại có được vinh hạnh này?”
“Ngài bộ trưởng,” Dijkstra ngước mắt lên trần nhà, “đã xin từ chức vì lý do sức khỏe.”
Ngài đại sứ gật đầu nghiêm trang. Ông ta biết rất rõ rằng bộ trưởng ngoại giao hiện giờ đang ngồi trong nhà giam, và chắc chắn chỉ cần liếc sơ qua những dụng cụ tra tấn là đủ để ông ta khai ra hết tất cả mối liên hệ của mình với sở mật vụ của Nilfgaard, bởi vì ông ta là một thằng ngu và một tên hèn. Ngài đại sứ biết rằng mạng lưới gián điệp được tổ chức bởi Vattier de Rideaux, trưởng cơ quan tình báo của đế chế, đã bị đập tan, và giờ tất cả những sợi dây còn lại đều nằm trong tay Dijkstra. Ông ta cũng biết rằng những sợi dây này có thể dẫn trực tiếp đến mình. Nhưng quyền miễn trừ ngoại giao bảo vệ ông ta, và truyền thống cùng trách nhiệm buộc ông ta phải chơi cho đến cùng.
Đặc biệt là sau bức mật thư kỳ lạ mà Vattier và “thanh tra” Stefan Skellen, đặc vụ hoàng gia chuyên đảm nhận những chiến dịch đặc biệt, mới gửi đến đại sứ quán gần đây.
“Vì người kế vị hiện vẫn chưa được chọn,” Dijkstra bắt đầu, “nên trách nhiệm khó khăn này đổ lên đầu tôi. Tôi rất tiếc phải thông báo rằng ngài đại sứ không còn được chào đón tại vương quốc Redania nữa.”
Ngài đại sứ cúi chào.
“Quả đúng là rất tiếc,” ông ta nói, “rằng sự thiếu tin tưởng dẫn đến việc trục xuất đại sứ của hai bên này lại xuất phát từ những sự thật mà không liên can trực tiếp đến vương quốc Redania, hay đế chế Nilfgaard. Đế chế đã không hề có hành động gây hấn nào với Redania.”
“Ngoại trừ vành đai cấm vận ở cửa sông Yaruga và Quần đảo Skellige dành cho tàu và hàng hóa của chúng tôi? Ngoại trừ tiếp vũ khí và hỗ trợ các băng nhóm Scoia’tael?”
“Đó chỉ là những lời vu khống.”
“Vậy còn trại tập trung của quân đội đế chế nằm ở Verden và Cintra thì sao? Những cuộc công kích của các băng nhóm vũ trang ở Sodden và Brugge? Sodden và Brugge đều là những vùng đất nằm dưới sự bảo hộ của Temeria, và trong khi chúng tôi đang ở cùng một liên minh với Temeria, thưa ngài đại sứ, tấn công vào họ cũng đồng nghĩa là vào chúng tôi. Cuộc nổi loạn trên đảo Thanedd và vụ ám sát vua Vizimir cũng đều là những vấn đề liên can trực tiếp đến Redania. Tôi vẫn đang thắc mắc về vai trò của đế chế trong những sự kiện này.”
“Về sự cố trên đảo Thanedd,” ngài đại sứ xòe tay ra, “tôi không được quyền đưa ra bình luận nào. Ngoại trừ những người trực tiếp phục vụ mình, Hoàng đế Emhyr var Emreis không hề dính dáng đến các pháp sư khác. Tôi lấy làm tiếc về hậu quả không nhỏ gây ra bởi những động thái của chúng tôi, nhằm phản đối chiến dịch tuyên truyền đang phát tán những thông tin hoàn toàn sai sự thật. Chiến dịch tuyên truyền được tiếp tay, tôi xin mạo muội, bởi chính người cầm quyền cao nhất của Redania.”
“Những động thái phản đối của ông đã làm tôi ngạc nhiên. Và tôi xin nói là rất ngạc nhiên là đằng khác.” Dijkstra mỉm cười nhẹ nhàng. “Sau cùng thì, Hoàng đế đâu có giấu diếm sự thật rằng Công chúa của Cintra, người đã bị bắt cóc khỏi Thanedd, hiện đang ở trong triều đình của ngài ấy.”
“Cirilla, Nữ hoàng của Cintra,” Shilard Fitz-Osterlen sửa lại ngay lập tức, “đã không bị bắt cóc, mà xin được trú ẩn tại Đế chế. Nó không dính dáng gì với sự kiện trên đảo Thanedd cả.”
“Thật sao?”
“Sự cố trên Thanedd,” ngài đại sứ tiếp tục với một gương mặt lạnh như đá, “đã khiến Hoàng đế thực sự ghê tởm. Và cuộc tấn công hèn hạ bởi một kẻ điên khùng nhằm vào vua Vizimir đã khơi dậy trong ngài một nỗi căm thù sâu sắc. Tuy nhiên, nó đã lên đến đỉnh điểm khi những lời đồn khủng khiếp lan trong đại bộ phận quần chúng, những người dám nhìn Đế chế như thủ phạm đích thực của tội ác này.”
“Hy vọng khám phá ra hung thủ đích thực,” Dijkstra tiếp lời thật từ tốn, “sẽ chấm dứt những lời đồn này. Kẻ gây án sẽ bị bắt, và công lý sẽ được thực thi, chỉ là vấn đề thời gian thôi.”
“Justitian Est Fundamentum Regnorumb,” Shilard Fitz-Osterlen trả lời nghiêm túc. “Crimen horribilis non potest non esse punibile. Tôi cũng nghĩ là điện hạ muốn được nhìn thấy điều đó thành sự thật.”
“Sức mạnh để biến điều đó thành sự thật hoàn toàn nằm trong tay Hoàng đế.” Dijkstra điềm nhiên thêm vào, tay bắt chéo trước ngực. “Một trong số những kẻ đầu não của âm mưu, Enid an Gleanna, cho đến gần đây, được biết đến với chức danh nữ pháp sư Francesca Findabair, đang ngồi chơi trò nữ hoàng elves của vương quốc bù nhìn Dol Blathanna, từ trên băng ghế của Đế chế.”
“Hoàng đế tối cao,” ngài đại sứ cúi đầu cứng nhắc, “không thể can thiệp vào nội vụ của Dol Blathanna, một quốc gia độc lập có chủ quyền được công nhận bởi tất cả các vương quốc láng giềng.”
“Ngoại trừ Redania. Đối với Redania, Dol Blathanna vẫn là một phần của vương quốc Aedirn, mặc dù các ông đã cắt xẻ Aedirn và Lyria ra thành từng mảnh vụn với sự trợ giúp của người elves và Kaedwen. Các ông đã xóa tên những vương quốc này ra khỏi bản đồ sớm quá. Sớm quá, ngài đại sứ à. Tuy nhiên, đây không phải nơi cũng như lúc để bàn chuyện đó. Hãy cứ để Francesca Findabair cầm quyền trong lúc này, thời khắc dành cho công lý sẽ đến sau. Vậy còn những tên phản loạn khác, và kẻ chủ mưu vụ ám sát Vua Vizimir? Vilgefortz vùng Roggeveen, và Yennefer thành Vengerberg? Có đủ mọi lý do để tin rằng sau khi sự việc bại lộ, cả hai đều đã trốn đến Nilfgaard.”
“Tôi xin đảm bảo với ngài,” người sứ giả ngẩng đầu lên, “rằng chúng không hề. Và kể cả nếu có thật, tôi xin cam đoan rằng chúng sẽ không thoát khỏi sự trừng phạt thích đáng.”
“Chúng đã không phạm tội chống lại các ông, vậy nên các ông không có quyền trừng phạt chúng. Bằng cách giao nộp chúng ra, Hoàng đế Emhyr sẽ cung cấp được bằng chứng chân thành nhất cho khát khao công lý của ngài. Sau cùng thì, Justitia Est Fundamentum Regnorum.”
“Không thể phản bác lại sự khôn ngoan trong yêu cầu của ngài,” Shilard Fitz-Osterlen thừa nhận, giả bộ cười hổ thẹn. “Đầu tiên, những kẻ này không nằm trong phạm vi lãnh thổ của Đế chế. Thứ hai, kể cả khi chúng có đi chăng nữa, vẫn có một chút vấn đề. Việc dẫn độ sẽ phải được thi hành bởi một cơ quan hành pháp chính thức, trong trường hợp này, là Hội đồng Hoàng gia. Xin hãy cân nhắc điều này, thưa điện hạ, việc trục xuất đại sứ là một hành động gây hấn từ phía Redania. Thế nên sẽ là phi logic nếu Hội đồng lại chấp thuận một yêu cầu dẫn độ từ một vương quốc thù địch. Sẽ là một thông lệ chưa từng có....trừ phi....”
“Trừ phi cái gì?”
“Ngài tạo ra một tiền lệ.”
“Tôi không hiểu.”
“Nếu vương quốc Redania sẵn sàng giao nộp ra một cá nhân được coi là tội phạm đối với Đế chế, thì Hoàng đế và Hội đồng sẽ có lý do để cân nhắc động thái hợp tác này.”
Dijkstra im lặng trong một lúc lâu, trông như đang lạc trong suy nghĩ.
“Các ông muốn ai?”
“Tên của kẻ tội phạm này ư?” ngài đại sứ ra vẻ cố nhớ lại cái tên, và cuối cùng thì thò tay vào trong cặp và lấy ra xấp tài liệu. “Xin thứ lỗi cho trí nhớ của tôi. Tôi có nó đây rồi. À, phải, một người tên Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach. Không thể phủ nhận là các cáo buộc chống lại hắn là vô cùng nghiêm trọng. Hắn bị truy nã vì tội giết người, đào ngũ, bắt cóc, cưỡng bức, trộm cắp và làm giả tài liệu. Hắn đã trốn thoát khỏi cơn thịnh nộ của hoàng đế bằng cách chuồn ra nước ngoài.”
“Đến Redania sao? Hắn đã chọn một con đường xa đấy.”
“Thưa ngài,” Shilard Fitz-Osterlen mỉm cười, “hắn không nhất định là đang ở trong lãnh thổ Redania. Nhưng tôi không nghi ngờ là nếu tên phạm nhân bị phát hiện ở bất kỳ vương quốc nào nằm trong liên minh của ngài, ngài sẽ ngay lập tức được thông báo nhờ vào....những mối liên hệ cá nhân.”
“Ông nói tên của kẻ này là gì?”
“Cahir Mawr Dyffryn aep Caellach.”
Dijkstra trầm ngâm một lúc lâu, giả bộ lục lọi trí nhớ.
“Không.” Cuối cùng ông ta nói. “Chúng tôi chưa bắt được ai có tên như vậy cả.”
“Thật sao?”
“Lần này thì trí nhớ của tôi rất minh mẫn. Xin thứ lỗi, ngài đại sứ.”
“Tôi cũng vậy,” Shilard Fitz-Osterlen lạnh lùng đáp. “Đặc biệt là có vẻ như trong hoàn cảnh này, việc tổ chức hợp tác dẫn độ sẽ là bất khả thi. Tôi sẽ không làm phiền điện hạ nữa. Xin chúc ngài mạnh khỏe và thành công trong công việc.”
“Chúc sức khỏe và chúc may mắn.”
“Tôi cũng vậy. Tạm biệt, thưa điện hạ.”
Ngài đại sứ bước ra ngoài, sau khi thực hiện xong vài nghi lễ cúi chào phức tạp.
“Đi mà hôn cái sempitemum meam của ta ý, đồ khôn lỏi.” Dijkstra lầm bầm, bắt chéo tay trước ngực. “Ori!”
Người thư ký, mặt đỏ lựng vì ho và khục khặc, hiện ra từ sau bức màn.
“Philippa vẫn đang ở Montecalvo phải không?”
“Phải, hem, hem. Cùng với các bạn của cô ta, Laux-Antille, Merigold và Metz.”
“Bất kỳ ngày nào thôi, chiến tranh sẽ nổ ra, biên giới tại Yaruga sẽ tan tành, thế mà họ lại đi nhốt nhau trong một cái pháo đài hoang dã nào đó! Lấy giấy bút ra đi, và viết. “Phil thân yêu...” Mẹ kiếp!”
“Tôi đã viết là: Philippa thân mến.”
“Tốt, tiếp tục: “Cô có thể sẽ hứng thú khi biết rằng, cái gã kỳ dị đội chiếc mũ cánh chim mà đã biến mất bí hiểm cũng như khi xuất hiện trên Thanedd, tên là Cahir Mawr Dyffryn và là con trai của quan nhiếp chính Caellach. Ngạc nhiên thay là không chỉ có mình chúng ta là đang tìm kiếm nhân vật lạ lùng này, mà cả Vattier de Rideaux và cấp dưới của thằng con hoang đó....”
“Quý cô Philippa, hem, hem, không thích ngôn từ như vậy đâu. Tôi viết là: tên vô lại đó.”
“Rồi, thì tên vô lại Stefan Skellen đó. “Và cô cũng biết rõ như tôi, Phil thân mến, rằng sở mật vụ của Emhyr đang khẩn trương tìm kiếm các đặc vụ và sứ giả đó, những kẻ mà Emhyr đã thề sẽ xé xác ra làm trăm mảnh. Những kẻ đáng ra phải thực hiện ý nguyện của ông ta trong thành phố đêm hôm đó hoặc là chết, nhưng đã tạo phản, và để lại mệnh lệnh của mình chưa được thực thi. Mọi việc có vẻ khó hiểu, tuy nhiên chúng tôi tự tin rằng Cahir đã được lệnh bắt sống công chúa Cirilla và áp tải cô ta đến Nilfgaard.” Sang đoạn mới. “Vấn đề này đã dấy lên sự nghi ngờ không hề nhỏ trong tôi và mặc dù nghe có vẻ kỳ lạ, tôi đã nghĩ ra được vài giả thiết khá bất ngờ. Tuy nhiên, chúng không hoàn toàn là vô nghĩa, và tôi muốn bàn luận về chúng cùng cô một cách riêng tư. Chúc sức khỏe, vân vân và vân vân.”