Ấn Tượng Sai Lầm
Chương 40 :
Ngày đăng: 15:10 19/04/20
Khi Krantz tỉnh dậy sau cuộc phẫu thuật, điều đầu tiên mà cô ta nhận thấy là cảm giác đau buốt ở vai phải. Cô ta cố nhấc đầu khỏi gối vài inch và nhìn quanh căn phòng nhỏ được sơn trắng: chỉ có những đồ vật thật cần thiết - một chiếc giường, một chiếc tủ, một tấm ga, một chiếc chăn và một chiếc quạt nhỏ để giường. Chắc là bệnh viện, nhưng không phải là bệnh viện tư, bởi vì không có cửa sổ, không có hoa, không đồ ăn thức uống. Krantz cố nhớ lại những gì đã xảy ra với cô ta. Cô ta nhớ là khẩu súng của người tài xế tắc xi đã chĩa thẳng vào tim cô ta, và chỉ nhớ được có thế. Cô ta chỉ có đủ thời gian để quay đi 1 inch, không hơn, trước khi viên đạn xé bả vai cô ta. Chưa bao giờ cô ta phải đối mặt với thần chết ở cự ly gần đến thế. Viên đạn thứ hai bị trượt hoàn toàn, nhưng cô ta đã có được khoảng thời gian một giây giữa hai lần bắn của người tài xế tắc xi, đủ để cô ta cắt đứt họng ông ta.
Chắc chắn ông ta là một người trong nghề, một cựu sỹ quan cảnh sát, cũng có thể là một cựu binh. Cô ta chỉ nhớ được có thế, bởi vì sau khi kịp cắt họng ông già, chắc chắn cô ta đã ngất đi.
Jack đăng kỷ ngủ qua đêm tại Wentworth Arms, và đặt một bàn ăn tối vào lúc 8 giờ. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, anh mong đợi phút giây được nghiến ngấu một tảng bít tết to dày. Cho dù chắc chắn Anna đã ngủ lại Lâu đài Wentworth, Jack vẫn không thể yên tâm khi anh nghĩ tới chuyện Người Lùn có thể đang lảng vảng đâu đây. Anh đã yêu cầu Tom thông báo cho cảnh sát địa phương, trong khi bản thân anh vẫn tiếp tục tự mình theo dõi. Anh ngồi trong phòng đợi, nhấm nháp một cốc Guinness và nghĩ về Anna. Trước khi đồng hồ điểm 8 giờ, Tom bước vào, nhìn quanh và thấy bạn mình đang ngồi gần lò sưởi. Jack đứng dậy chào anh ta, và xin lỗi vì đã lôi anh ta xuống Wentworth trong khi nhẽ ra anh ta đã được hưởng một buổi tối vui vẻ với câu lạc bộ Chloe và Hank.
“Một khi quán này có thể chế được món đồ uống Tom Collins ngon lành thì cậu sẽ không phải nghe lời phàn nàn của tớ”, Tom trả lời.
Tom đang giải thích với Jack về lịch sử hơn nửa thế kỷ của câu lạc bộ Hank thì người phục vụ bàn bước tới và ghi các món mà hai người gọi. Cả hai cùng chọn bít tết, nhưng với tư cách là một người Texas, Tom thú nhận anh vẫn không thể nào quen với kiểu bít tết của Anh quốc, vì theo anh thì bít tết bò của Anh quốc trông giống như được làm từ thịt cừu.
“Tôi sẽ gọi cho hai anh”, người phục vụ bàn nói, “ngay khi bàn ăn sẵn sàng”.
“Cảm ơn”, Jack nói, trong khi Tom cúi xuống và mở cặp ra. Anh ta lấy ra một tập hồ sơ dày và đặt lên bàn. Chuyện phiếm chưa bao giờ là sở trường của anh ta.
“Hãy bắt đầu bằng những tin quan trọng trước nhé”, Tom vừa nói vừa mở tập hồ sơ ra. “Bọn mình đã xác định được người phụ nữ trong bức ảnh mà cậu gửi tới từ Tokyo”. Jack bỏ cốc đồ uống xuống và tập trung vào nội dung của tập hồ sơ. “Tên cô ta là Olga Krantz, và cô ta có một điểm chung với Tiến sỹ Petrescu”.
“Đó là gì vậy?”, Jack hỏi.
“Mọi người cũng nghĩ rằng cô ta đã mất tích, có thể đã chết. Như cậu có thể thấy trong hồ sơ về cô ta”, Tom vừa nói thêm vừa đẩy một tờ giấy qua bàn, “chúng ta đã mất dấu cô ta vào năm 1989, khi cô ta không còn là vệ sỹ của Ceausescu nữa. Nhưng bây giờ thì có thể kết luận cô ta hiện nay đang làm việc cho Fenston”.
“Chỉ là suy diễn”, Jack nói, cùng lúc đó, người hầu bàn đem đến một ly Tom Collins và một cốc Guinness.
“Không phải thế, nếu cậu xem xét các sự kiện một cách lôgic”, Tom nói, “và nối kết các chi tiết lại với nhau”, anh ta nói thêm rồi nhấp một ngụm rượu, “Ừm, không phải tồi. Suy cho cùng, cô ta và Fenston có thời cùng làm việc cho Ceausescu”.
“Chỉ là trùng hợp”, Jack nói. “Không thể đứng vững trước toà”.
“Có thể, nếu cậu biết rõ công việc của cô ta”.
“Cậu thử nói xem nào”, Jack nói.
“Cô ta có nhiệm vụ loại bỏ bất kỳ ai có thể gây nguy hiểm cho Ceausescu”.
“Vẫn chỉ là suy diễn”.
“Cho đến khi cậu phát hiện ra cách thức giết người của cô ta”.
“Một con dao làm bếp?”, Jack hỏi mà không nhìn xuống tờ giấy trước mặt.
“Cậu đoán đúng”, Tom nói.
Tom miễn cưỡng theo Jack ra khỏi phòng ăn, qua một căn phòng đầy khách, những người chăm chú nói chuyện và ăn uống như thể không có chuyện gì bất thường xảy ra quanh họ. Khi ra tới cửa, Tom nói, “Cậu có cần tớ cùng đi tới đồn cảnh sát không?”.
“Không”, Jack trả lời, “tại sao cậu không ở lại. Đừng lo, tớ sẽ về kịp giờ để uống cà phê”.
Có hai người phụ nữ nhìn Jack chằm chằm từ phía bên kia hành lang.
“Có phải anh ta không, thưa bà?”.
“Đúng là anh ta”, một trong hai người phụ nữ ấy khẳng định.
Khi Tina nghe thấy tiếng mở cửa, chị ngay lập tức tắt màn hình theo dõi. Chị không nhìn lên, bởi vì chỉ có một người không bao giờ gõ cửa khi bước vào phòng chị.
“Tôi nghĩ cô biết Petrescu đang trên đường trở về New York?”.
“Tôi đã nghe nói”, Tina vừa nói vừa tiếp tục đánh máy.
“Nhưng cô có nghe nói rằng”, Leapman đặt cả hai tay lên bàn chị, “cô ta đã tìm cách đánh cắp bức tranh Van Gogh?”.
“Bức tranh trong phòng chủ tịch à?”, Tina hỏi một cách ngây thơ.
“Đừng vờ vịt với tôi”, Leapman nói. “Cô nghĩ tôi không biết là cô nghe lỏm mọi cuộc nói chuyện điện thoại của chủ tịch à?”. Tina ngừng đánh máy và nhìn lên. “Có lẽ đã đến lúc báo cho ngài Fenston biết về nút chuyển mạch dưới bàn làm việc của cô, và việc cô có thể theo dõi chủ tịch mỗi khi ông ấy nói chuyện với bất kỳ ai trong văn phòng”.
“Ông doạ tôi đấy à, ông Leapman?”, Tina hỏi. “Bởi vì nếu thế, tôi cũng có chuyện muốn nói với chủ tịch”.
“Và tại sao tôi lại phải quan tâm tới chuyện của cô?”, Leapman hỏi.
“Về những cuộc điện thoại mà hàng tuần ông nhận được từ một người tên là Pickford, và có thể chúng ta sẽ biết ai là người đang vờ vịt”. Leapman bỏ tay ra khỏi bàn và đứng thẳng dậy.
“Tôi nghĩ cơ quan điều tra sẽ rất quan tâm khi biết rằng ông đã quấy rối nhân viên của một ngân hàng mà ông không làm việc cho nó, không có văn phòng trong đó, và không nhận lương của ngân hàng ấy”.
Leapman lùi lại một bước.
“Lần sau tới thăm tôi, ông Leapman, ông hãy gõ cửa, như bất kỳ một vị khách nào của ngân hàng”.
Leapman lùi lại một bước nữa, lưỡng lự, rồi bước ra ngoài mà không nói lấy một lời.
Khi cánh cửa đóng lại, Tina run tới mức chị phải nắm chặt lấy tay ghế.