Charlie Bone 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian
Chương 18 :
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
Trong phòng Nhà Vua, thằng bé có gương mặt dài, rầu rĩ Gabriel Silk cứ nhấp nhỏm liếc nhìn chỗ ngồi bỏ trống của Charlie. Nó thấy lo cho Charlie. Đáng lý ra nó nên chạy theo Tancred, chứ không nên để Charlie đi. Charlie nhỏ hơn và hình như cứ chực chuốc lấy những rắc rối – nó thuộc týp nhóc con gặp toàn những việc không may.
Thình lình, có tiếng tru vang lên. Mới đầu tất cả bọn chúng đều cố phớt lờ, nhưng cuối cùng, Manfred buông viết xuống và nghiến răng bảo:
“Con chó gớm ghiếc! Billy, đi khóa mõm nó lại ngay.”
“Để tôi đi,” Gabriel xung phong.
“Anh bảo Billy.”
Manfred thảy cho Gabriel một cái nhìn kinh khủng nhất, đoạn chĩa thẳng mắt qua Billy.
“Đi mau,” hắn gằn giọng, “mày biết nói chuyện với cái đồ ghẻ lở đó. Hỏi xem có phải nó đau bụng không?”
“Vâng, thưa anh Manfred.” Billy lật đật ra cửa.
Khi chạy xuống những bậc thang lạnh toát và hành lang tối mù, Billy phải tự độc thoại. Nó rất ghét những khi tất cả mọi người ai nấy nhốt mình trong phòng làm bài tập. Nó sợ gặp ma. Nó biết là có ma quỷ, cứ lượn lờ trong bóng tối.
Đến chỗ chiếu nghỉ rộng, nơi cầu thang lớn dẫn xuống tiền sảnh, nó thấy con May Phúc đang ngồi chầu hẫu trên cầu thang, vẫn không ngớt rú lên.
Billy đến ngồi bên cạnh con chó và đặt một tay lên cái lưng núc ních:
“Chuyện gì vậy, May Phúc?” Lời nói phát ra thành những tiếng ậm ừ, ư ử, khò khè. Đó là một thứ ngôn ngữ mà May Phúc có thể hiểu được.
Con chó già ngừng tru.
“Thằng đến,” nó nói. “Việc xấu. Sai”
“Thằng bé nào? Tại sao sai?” Billy hỏi.
May Phúc ngẫm nghĩ câu hỏi này. Xem ra nó rất khó trả lời. Cuối cùng, nó khụt khịt:
“Thằng bé đến từ không đâu. Với bóng, rất nhỏ. Sáng loáng. May Phúc không thích bóng này. Là ma thuật.”
Billy hoang mang. “Phải đó là anh Tancred không?” Nó hỏi. “Anh ấy có nhiều tóc vàng?”
Không. Thằng giống thằng kia.” May Phúc nhìn chằm chằm xuống tiền sảnh.
Dõi theo ánh nhìn của con chó, Billy ngạc nhiên khi thấy Charlie Bone đang lặng lẽ đóng cánh cửa đi vô chái phía tây.
“Nãy giờ anh ở đâu vậy?” Billy gọi.
Charlie ngẩng lên, giật nảy mình.
“Không ở đâu cả,” nó nói. “Chỉ đi kiếm anh Tancred mà.”
“May Phúc nói có một thằng bé khác ở đây; một thằng bé giống anh.”
“Phải ông Pilgrim không ạ?” Henry hỏi.
Không có câu trả lời. Trong ánh sáng lập lòe từ cửa số hắt vô, Henry nhận ra một gương mặt xanh xao và mái tóc đen. Nét mặt ông thật nghiêm trang và xa xăm.
“Cháu là Henry Yewbeam,” Henry nói.
Vẫn không có lời đáp.
Cứ như nói chuyện với người không có mặt ở đó vậy. Có lẽ cũng chẳng sao nếu Henry nói cho ông biết hết sự thật.
“Cháu rất già,” Henry nói. “Hay đúng ra là cháu đã phải già lắm rồi.”
Phía xa xa, đồng hồ bắt đầu điểm giờ. Những tiếng chuông ngân vang từ nhà thờ lớn, tỏa khắp thành phố. Thầy Pilgrim quay qua nhìn Henry. Mắt ông lóe sáng lên rất lạ.
Henry vừa đếm đến tiếng chuông thứ mười hai thì thầy Pilgrim nói.
“Cậu lạnh không?”
“Có,” Henry đáp.
Thầy giáo dương cầm cởi chiếc áo chùng xanh da trời đang mặc ra và quàng quanh vai cậu bé.
“Cháu cảm ơn,” Henry nói, bước xuống khỏi ghế.
Thầy Pilgrim mỉm cười. Thầy với tay lên một kệ sách cao và lấy từ hàng sách xuống một chiếc hộp thiếc. Mở nắp ra, thầy đưa cái hộp cho Henry.
“Bánh bột lúa mạch đấy,” thầy bảo. “Cậu thấy đấy, tôi sống ở trên đây. Và đã là người thì phải đói.”
“Đúng là người thì phải đói,” Henry đồng ý, lịch sự nhón lấy một cái bánh.
Thầy Pilgrim không mời Henry thêm nữa. Thầy đặt cái hộp trên ghế và bảo. “Cứ lấy mà ăn.” Ánh nhìn xa xôi lại hiện về trong mắt thầy. Hình như thầy đang cố nhớ một điều gì đó. Nhíu mày, nhăn trán, thầy lẩm bẩm:
“Chúc ngủ ngon.”
Và rồi thầy đi khỏi, lướt xuống các bậc thang đá mà không gây ra một tiếng động nào.
Henry rất muốn người đàn ông ở lại. Nó rất biết ơn vì ông đã cho nó mượn chiếc áo chùng, nhưng quả thật mà nói, trời đã không còn lạnh như lúc nãy nữa. Nhiệt độ tăng nhanh chóng. Những tảng băng treo bên ngoài cửa sổ đang bắt đầu tan chảy.
Khắp tòa tháp vang những tiếng lách tách, lách tách của băng tan thành nước. Chính âm thanh đó khiền Henry linh tính về một cái gì đó bất trắc. Cậu chợt hiểu ra rằng việc cậu bị xoắn lộn thời gian chắc chắn có tác động đến cái lạnh. Cậu đã quay về Học viện Bloor khi nhiệt độ đạt đúng bằng lúc cậu rời nó, vào năm 1916.
Giờ đây nhiệt độ đã thay đổi, và như thế cuộc du hành thời gian cũng sẽ thay đổi theo.
“Mình sẽ không về nhà được nữa,” Henry thầm nghĩ. “Mình sẽ không bao giờ gặp lại gia đình nữa.” Đột nhiên, hoàn cảnh của cậu bỗng dưng quá nghiệt ngã, không sao chịu đựng nổi.
“Nhưng mình phải về!” Cậu nói thành tiếng.