Charlie Bone 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian
Chương 19 :
Ngày đăng: 15:22 19/04/20
Olivia gây náo loạn
Billy Raven nằm thức thao láo. Mới hai tuần trước nó còn ngủ một mình trong phòng ngủ chung dài thượt. Giờ nó đã phải làm quen với những tiếng ngáy, tiếng nói mớ, tiếng thở khò khè và thút thít của những thằng bé khác. Điều đó không phải dễ dàng. Billy vốn là đứa ngủ rất yên.
Đêm nay, nó vô cùng phấn khích. Nó đã có chuyện để kể cho lão Ezekiel Bloor nghe. Chắc thể nào nó cũng sẽ được thưởng. Khi đã chắc chắn bọn kia say ngủ cả rồi, Billy xỏ chân vô đôi dép lê và choàng thêm chiếc áo khoác. Ván sàn hơi kẹt lên vài tiếng khi nó bước qua phòng và lỉnh ra ngoài.
Manfred Bloor đã tặng nó món quà Giáng sinh: một chiếc đèn pin dài đen nhẫn, tỏa ánh sáng cực mạnh. Billy không hề mong đợi lại được huynh trưởng tặng quà, nhưng khi Manfred cúi xuống thì thầm:
"Bọn ta phải giữ cho các điệp viên của mình được sung sướng chớ," thì Billy hiểu liền.
Nó bật đèn pin lên và một luồng ánh sáng sắc lẻm quét xuống tận cuối hành lang. Billy bắt đầu cuộc hành trình dài lên khu vực trên cùng của chái phía tây. Thường thì nó vẫn chờ May Phúc dẫn đi, nhưng đêm nay nó không thể chờ nổi.
Khi Billy lần đường gần căn phòng của lão già, nó phải khó nhọc dò dẫm vượt qua một khu vực lúc nào trông cũng u ám. Đó là một trong số ít ỏi những nơi mà phép thuật kém cỏi của lão già còn có thể phát huy tác dụng đúng như lão mong muốn. Vì vậy mà bàn chân mang dép lê của Billy tuyệt nhiên không để lại dấu vết trên lớp bụi dày, và những mạng nhện thì tự đan kết lại như cũ ngay sau khi nó đi qua. Nếu không có những tiếng rít thỉnh thoảng nổi lên từ chiếc đèn khí, thì người ta có thể nghĩ những bậc thang cọt kẹt và những hàng lang tối um này đã bỏ hoang cả trăm năm rồi.
Billy đi tới một cánh cửa đen, lớp sơn bong tróc do bị con chó cào trong nhiều năm. Nó gõ cửa hai tiếng. Một giọng ộp ộp cất lên:
"Ai đó?"
"Billy Raven," Billy nói.
"Vô đi, Billy Raven," cái giọng đó bảo.
Billy bước vô.
Lão Ezekiel Bloor ngồi trên xe lăn bên cạnh lò sưởi. Một tấm chăn bằng da cừu bọc quanh vai lão, và gương mặt giống như hộp sọ lâu năm của lão lòi ra bên dưới cái nón len màu đen. Đỡ sau lưng lão là một đống gối nệm nhung bạc màu, và chiếc áo khoác nhung đen của lão mặc nổi bật những hàng nút bằng vàng. Mặc dù đã được khoác cả mớ áo quần trang trọng như thế, Billy vẫn thấy lão giống như một con cừu chết. Không đợi mời, thằng bé ngồi phịch vô chiếc ghế đối diện với lão già. Sự thay đổi bầu không khí đột ngột khiến nó chóng mặt.
"Con chó đâu?" Lão già giật giọng nói.
"Cháu không biết. Cháu không đợi nó được. Cháu muốn kể cho ông một chuyện."
Mắt kính của Billy bị mờ sương vì không khí trong phòng đầy hơi nước. Nó tháo kính ra và chùi chùi bằng ngón tay dài.
"A, tốt. Chuyện về Charlie hả?" Lão già dướn về trước, vẻ háo hức.
"Kiểu kiểu vậy... ," Billy nhát gừng.
"Nào nào. Kể đi, kể đi."
"Ừm, đúng ra là May Phúc. May Phúc trông thấy nó."
"Nó?" Lão già rít lên. "Nó? Nó là cái gì? Con chó đó tên là Thương Hại. Ông đã bảo mày bao nhiêu lần rồi!"
"Xin lỗi. Nhưng cháu nghĩ tên nó là May Phúc."
"Rồi rồi, thây kệ. Tiếp tục đi!" Lão Ezekiel Bloor vẩy tay nôn nóng.
Billy đeo kính trở lại, và nó hối hận vì đã đeo vô. Gương mặt khô quắt của lão già chợt bị phóng to, sát lại một cách dễ sợ. Billy có thể thấy rõ rành rành từng cái mụn cóc và từng cọng lông cứng.
"Con chó đó tự nhiên tru lên nên anh Manfred bảo cháu ra coi có chuyện gì, vì anh ấy biết cháu có thể hiểu được chó nói chuyện, thế đấy."
"Giá mà tao có thể hiểu được cái con chó ghẻ lở đó," lão Ezekiel Bloor lắc đầu. "Thế nó nói gì?"
"Nó nói nó thấy một thằng bé, không biết từ đâu chui ra. Thằng bé này có một quả bóng, rất nhỏ, sáng loáng. Nó bảo thật là tệ... "
"Cái gì?" Lão già bụp tay lên miệng. "Cái gì? Một thằng bé... và... quả bóng đó bằng pha lê phải không?"
"Có lẽ vậy," Billy nói, ngạc nhiên vì sự sửng sốt mà tin tức của nó gây ra.
"Không, không, không thể thế được." Lão Ezekiel định đứng lên, nhưng đôi cẳng vô dụng níu lão rơi phịch xuống, và lão chìm nghỉm vô cái tổ kén bằng len, lông cừu và nhung của lão.
"Xong rồi cháu thấy Charlie Bone ở trong tiền sảnh, May Phúc nói Charlie Bone trông giống thằng bé mới xuất hiện kia."
Manfred thúc giục, "Lạy Chúa, nhanh nhanh lên, bà kia."
Bà bếp trưởng sựng lại. Bà quẳng cây lau nhà xuống và quắc mắt nhìn Manfred, hai tay chống nạnh:
"Đừng có nói với ta kiểu đó. Mày dám nói thế à. Đừng bao giờ, đừng khi nào dùng cái giọng đó với ta nữa đấy."
"Vâng! Vâng!" Manfred cuống quít, vẻ sợ sệt.
"Xin lỗi mau," bà bếp trưởng ra lệnh.
"Xin lỗi bà," Manfred lẩm bẩm, giả bộ như đang xem xét mấy cái móng tay của mình.
Olivia hầu như không thể tin nổi. Chỉ bằng vài lời mà bà bếp trưởng đã dìm thằng huynh trưởng xuống còn một thằng nhóc sợ sệt.
Bà bếp trưởng xách cái xô và nhặt cây lau nhà lên.
"Nếu mày muốn cái đống đó biến đi, thì mày tự đi mà dọn lấy."
"Nhưng tôi không làm ra cái đống đó!" Manfred hét lên, đỏ mặt tía tai.
Bà bếp trưởng nhún vai rồi bỏ đi.
Manfred hằn học đẩy Olivia một cái ra cửa. Ngay khi chúng ra khỏi nhà bếp, hắn dúi cái xô vô tay con bé.
Vào đúng lúc đó, Charlie và Fidelio đang băng qua tiền sảnh. Vì giờ này tất cả đám trẻ khoa kịch đều đang ở cả trong căn tin, nên có rất ít người qua lại, và Charlie cố lẻn qua cánh cửa vô chái phía tây mà không để bị trông thấy. Fidelio đứng canh chừng. Chừng nào hoàn tất sứ mạng của mình, Charlie sẽ gõ hai tiếng lên cửa, và nếu tình hình yên ổn thì Fidelio sẽ gõ lại báo hiệu.
Charlie phóng lẹ lên cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên đỉnh tháp. Khi vố đến phòng nhạc, nó hết cả hơi và bị một vết toạc ở bên hông.
Nhưng Henry đã đi rồi. Một chiếc áo chùng xanh da thùng thình nằm vắt trên thành ghế. Và trên mặt ghế có một cái hộp thiếc trống không. Vài cuốn sách dính đầy vụn bánh, và hai miếng giấy gói kẹo rớt ngay gần cửa sổ.
Hôm nay thầy Pilgrim chơi đàn rất khẽ. Thầy cứ đánh đi đánh lại mãi một điệu nhạc, tựa hồ như thầy không thể nhớ ra đoạn tiếp theo của bản nhạc phải như thế nào.
Không gõ cửa, Charlie mở cửa ra và nhìn vô. Chỉ cố một mình thầy Pilgrim, không mặc áo chùng. Charlie chợt nhớ ra thầy cũng đã có lần không mặc áo chùng ở trong hội trường, nhưng thầy Pilgrim vốn hay quên mà.
Ông thầy giáo dạy nhạc nhìn qua chiếc đàn dương cầm và nhíu mày với Charlie.
"Xin lỗi thầy," Charlie nói. "Thầy có trông thấy một cậu bé không ạ? Một cậu bé giống con?"
Thật vô cùng ngạc nhiên, thầy Pilgrim trả lời rành rọt.
"Có. Có một cậu bé."
"Thế thầy có biết bây giờ anh ấy đang ở đâu không ạ?"
"Đúng ra cậu ấy không nên ở đây một mình," thầy Pilgrim nói. "Nhất là vào ban đêm. Trời quá lạnh đi!"
"Vâng, nhưng... anh ấy đi đâu rồi ạ?"
"Cậu ấy đói bụng."
Rồi như chợt nhớ ra phần nhạc nãy giờ vẫn đang lần mò, thầy Pilgrim bỗng chơi đàn thật ầm ĩ, rồi tiếp sau đó cuốn mình vào một đoạn nhạc hết sức phức tạp.
Charlie nhận thấy thật vô ích nếu hỏi ông thầy này thêm câu nào nữa. Ngoài ra,� nếu nó không trở lại ngay thì Manfred và Asa sẽ truy lùng nó khắp tiền sảnh.
"Cảm ơn thầy."
Charlie rời căn phòng và đóng cửa lại, chạy một mạch hết các cầu thang xuống tới đáy tháp. Nó lao qua những cầu thang xoắn nhanh đến nỗi, khi xuống tới tầng trệt, nó lảo đảo cả người.
Trước khi bước vô hành lang tối dẫn ra tiền sảnh, nó dừng lại để nghe ngóng. Không nghe thấy gì. Vậy là an toàn khi vô hành lang. Nhón gót, nó đi rón rén trên nền đá. Được vài mét, bỗng nó va thẳng vô một cái gì đó; một hình hài nhỏ không ra hình người. Cái hình hài đó rên rỉ rồi chạy đi; nhưng khi Charlie quay lại nhìn, các người hay vật này cũng quay lại nhìn nó. Đôi mắt hấp háy đằng sau một tấm mạng đen mỏng, cái hình hài đó thì thầm:
"Cậu bé," rồi biến đi khỏi.