Charlie Bone 2: Charlie Bone Và Quả Cầu Xoắn Thời Gian

Chương 26 :

Ngày đăng: 15:22 19/04/20


"Nhốt nó vô hầm ngục!"



Henry Yewbeam trải qua phần còn lại của kỳ nghỉ cuối tuần trong những căn phòng bí mật của bà bếp trưởng.



"Nếu rời khỏi đây cậu sẽ bị bắt," bà bếp trưởng cảnh báo Henry. "Rồi sau đó thì ra sao nào? Có người nào đó ở đây cứ muốn tống khứ cậu đi, cậu phải biết chớ!"



"Cháu cá đó là Zeke," Henry lẩm bẩm. "Nó không bao giờ tha thứ cho cháu vì đã làm xong được cái tấm xếp hình của nó."



"Ezekiel, đúng rồi," bà bếp trưởng thừa nhận. "Lão ta đấy, một lão già ốm yếu sắp kề miệng lỗ, trong khi thằng em họ mà lão tưởng là đã tống đi mãi mãi giờ đã trở về, lại là một thằng bé với cả cuộc đời ở trước mặt."



Henry không thể không nhe răng cười.



"Lão ta chắc phải điên tiết lên," nó nói.



"Phải. Và chúng ta không muốn lão đặt một dấu chấm hết cho cuộc đời phơi phới còn dài trước mặt cậu, đúng không nào?"



"Đúng ạ." Tuy nhiên, Henry thấy khó tưởng tượng ra nổi cuộc đời đó là cuộc đời kiểu gì.



Bà bếp trưởng bắt tay vào chuẩn bị một bữa ăn. Lát nữa bà Bloor sẽ tới ăn cùng họ, và Henry giúp sắp xếp ba chỗ ngồi quanh chiếc bàn tròn nhỏ ở góc phòng.



Trong lúc nấu nướng, bà bếp trưởng bắt đầu kể cho Henry nghe câu chuyện đời bà. Còn Henry thì cuộn tròn trong chiếc ghế bành kế bên lò sưởi, lắng nghe một trong những câu chuyện kỳ lạ nhất cậu từng được nghe.



Bà bếp trưởng và em gái Pearl khi xưa sống chung với ba mẹ trên một hòn đảo ở miền bắc. Cha của họ, ông Gregor, là một ngư dân. Khi các cô bé lên 5 và 6 tuổi, thì mọi người thấy rõ họ là những lá bùa may mắn. Cứ hễ khi nào họ tiễn cha khởi hành ra khơi trên chiếc thuyền nhỏ, là ông luôn luôn bắt được nhiều cá đến nỗi không mang về xuể. Chẳng bao lâu sau, người ta kéo đến hòn đảo ấy để mua cá của ông Gregor. Ông trở nên giàu có và đã mua được toàn bộ hòn đảo. Ông xây một căn nhà thiệt lớn, ngó ra những quanh cảnh hấp dẫn của đại dương, và mặt biển bao quanh hòn đảo của ông luôn tĩnh lặng. Theo như mọi người nói, điều này là do các cô con gái của ông được ban phép may mắn và bình an.



Một ngày kia có một thanh niên đến đảo.



"Gã ta khá đẹp trai," bà bếp trưởng nhớ lại, "nhưng có một cái gì đó ở gã cứ khiến ta và Pearl phải sởn gai óc. Hóa ra, gã đến để xin cưới một trong hai chị em ta. Cưới ai không thành vấn đề. Lúc ấy hai chị em ta, người 15, người 16 tuổi, và cha ta bảo: Cút đi cho khuất mắt, Grimwald - đó là tên gã ta - Cút đi, các con gái ta còn quá trẻ để kết hôn. Chúng muốn tìm hiểu thế giới trước khi yên bề gia thất.



"Nhưng Grimwald cứ khăng khăng: Tôi cần một trong hai cô con gái của ông ngay bây giờ, gã bảo, khi cô ấy còn trẻ. Tôi muốn lấy cô ấy vì vẻ đẹp trinh nguyên, tươi trẻ, vì sự ngọt ngào và an lành của cô ấy, và vì sự may mắn mà cô ấy sẽ đem đến cho tôi. Thái độ của gã thanh niên khiến cha ta bực bội. Một lần nữa ông lại từ chối gã. Và rồi Grimwald bắt đầu đe dọa gia đình ta."



Bà bếp trưởng nếm thử món hầm bà đang nấu.



"Thêm chút muối," bà lẩm bẩm.



"Kể tiếp đi bà," Henry nóng lòng giục.



Bà bếp trưởng tiếp tục, "Cha ta ra lệnh cho Grimwald phải rời khỏi hòn đảo, và cuối cùng gã cũng ra đi, nhưng phải sau khi đã trút cơn điên giận lên hai chị em ta. Mấy người nghĩ mấy người điều khiển được đại dương à, mấy con ranh lỏi kia, gã chửi. Hừ, không đâu. Sẽ mau thôi, chúng mày sẽ nhận ra quyền phép của tao mạnh mẽ hơn của chúng mày nhiều. Và rồi chúng mày, cả hai đứa mày, sẽ phải chạy đến cầu cạnh tao cho mà xem, hãy nhớ lấy lời tao. Giá như bọn ta đã tin lời hắn," bà bếp trưởng buồn bã.



"Một năm sau, Pearl và ta rời hòn đảo của mình. Bọn ta đi chu du khắp thế giới. Bọn ta đi ăn tối, đi khiêu vũ và gặp được ý trung nhân của mình - tình cở cả hai đều là thuỷ thủ. Bọn ta về nhà để báo tin cho cha mẹ biết thì thấy... "



Đến đây bà bếp trưởng thở dài não ruột và mấy giọt nước mắt rơi vô cái chảo bà đang khuấy.



"Thấy gì hả bà?" Henry hỏi.



"Không thấy gì cả," bà bếp trưởng đáp. "Tất cả đều tiêu tan: hòn đảo, căn nhà, cha mẹ - tất cả đều bị phá huỷ. Bị một cơn sóng thủy triều lớn nhất trong lịch sử nhấn chìm. Bọn ta nghi ngờ, nhưng bọn ta không chắc lắm. Và sau đó, khi hai vị hôn phu của bọn ta bị chết đuối ngoài khơi, thì bọn ta chắc chắn, đó chính là do Grimwald!"



Henry há hốc miệng kinh ngạc. "Ý bà nói là hắn ta có thể... ?"



"Ồ, đúng vậy. Hắn có thể làm bất cứ điều gì liên quan đến nước. Ta và em gái phải từ biệt nhau. Sẽ an toàn hơn khi đi một mình. Sẽ ít bị nhận ra hơn. Bọn ta sống dưới lòng đất, làm việc ở những nơi tối và bí mật mà hắn không thể tìm ra. Đến bất cứ nơi đâu, bọn ta đều cố gắng làm cho mọi thứ được tốt hơn, giữ cho trẻ em được an toàn. Một ngày nọ, ta nghe tin rằng Học viện Bloor cần một người nấu bếp. Ta vốn đã nghe nói đấy là nơi xưa kia Vua Đỏ từng thiết triều, và ta nghĩ mình có thể giúp một số đứa trẻ học ở đó. Ta đoán rằng, giống như Pearl và ta, nếu chúng được ban phép thuật, thì chúng thể nào cũng chẳng được yên ổn vì tài phép của mình."



Bà bếp trưởng vừa liếm cái muỗng bà mới dùng để khuấy, vừa ậm ừ ra vẻ hài lòng, rồi đậy nắp vung lại.



Chắc hẳn là Henry rất muốn bà kể tiếp, nhưng vào lúc đó, bà Bloor bước vô qua cái cửa nhỏ xíu ở góc phòng, và bà bếp trưởng thông báo là bữa cuối cùng trong ngày đã sẵn sàng.



Sau bữa tối, bà Bloor giúp bà bếp trưởng rửa chén đĩa. Xong, bà lẳng lặng trở về căn phòng hiu quạnh của bà ở chái phía tây.



"Bà Bloor là một quý bà thật u sầu," Henry nhận xét trong khi đang cẩn thận xếp những chiếc dĩa sứ của bà bếp trưởng lên tủ đựng chén dĩa.



"Quả là buồn," bếp trưởng thở dài. "Phải như chị ấy có thể là chị ấy như trước khi bị nghiến nát bàn tay."



"Biết đâu Quả Cầu Xoắn Thời Gian làm được việc đó." Henry đề nghị.



Bà bếp trưởng phóng một cái nhìn đầy cảnh giác về phía cậu.



"Người ta không thể trở về quá khứ, cậu biếu điều đó mà, Henry."



"Dạ, nhưng trường hợp của bà Bloor thì chỉ mới có 5 năm. Và từ đó tới nay bà ấy không sống một cuộc đời thực ở đây. Vậy ai mà để ý nào?"



"Hừm!" Bà bếp trưởng chỉ nói được có chừng ấy.




"Ở lại?" Lão Ezekiel rú lên. "Không bao giờ trong vòng một ngàn năm nữa! Đem nó đi cho khuất mắt tao. Đem ngay! Tao không thể chịu nổi khi nhìn thấy nó, trẻ trung và tràn trề hy vọng thế này. Đem nó RA NGAY!"



Henry bị lôi tuột ra ngoài.



"Làm ơn mà!" Cậu gào lên. "Đừng làm thế."



Manfred và Zelda kéo Henry ra ngoài hành lang, và đóng sầm cửa lại. Trong khi Zelda giữ cho cậu đứng yên, Manfred bịt miệng cậu lại bằng một dải băng keo dày. Và rồi Henry bị kéo đi, bị dúi xuống tiền sảnh và bị đẩy ra ngoài màn đêm băng giá. Cái lạnh tấn công cậu với một sức mạnh khủng khiếp đến nỗi cậu thôi không vùng vẫy nữa, mà để mặc cho hai tên bắt giam giải đi trên mặt đất đóng băng.



Những ngôi sao băng giá trên cao tỏa xuống thế giới một thứ ánh sáng lờ nhờ, kỳ dị, nhưng mặt trăng đã biến mất. Cây đèn pin của Zelda rảy một vệt ánh sáng hẹp lên những mảng tuyết, và mặc dù Henry hầu như không thể thấy một thứ gì đằng trước, nhưng cậu biết chúng sẽ phải đi đến đâu. Tuy nhiên, cậu vẫn thấy sững sờ khi những bức tường vĩ đại của tòa lâu đài đổ nát lù lù hiện ra trước mặt cậu.



Cậu bị đẩy qua cổng vòm, và rồi vô một trong những lối đi dẫn ra khỏi mảnh sân gạch. Khác với lối hôm qua cậu đi vô, lối này dường như dẫn xuống dưới. Mặt đất ẩm ướt đầy nấm mốc, và thỉnh thoảng Henry thấy mình trượt dúi vô người Zelda đang dẫn đường.



"Thôi đi," con bé hầm hè, "Không tao sẽ kéo lết cái mông của mày tơi đó bây giờ."



Tới đó là tới đâu? Henry tự hỏi.



Chúng càng lúc càng xuống dưới. Xuống, xuống nữa. Không khí đặc lại và có mùi mốc, đến nỗi Henry bắt đầu nghẹt thở. Băng keo dán miệng càng làm cậu khó thở. Ngay khi cậu vừa nghĩ mình sẽ chết ngạt mất, thì cả bọn nhô ra ở một gò đất đầy cỏ. Những hàng cây cao vút đâm thẳng vô bầu trời đêm, nhẹ nhàng xào xạc.



"Đi tiếp!" Manfred rít lên, sấn sổ đẩy Henry một cái.



Henry ngã dụi xuống gò đất, trong khi hai đứa kia chạy theo sau, cười rộ lên đầy ác ý.



Chúng lôi Henry đứng dậy và áp giải tới một tảng đá đen, chìm một nửa vô bụi cây thấp.



"Rồi, Zelda. Làm thôi," Manfred ra lệnh.



Zelda ngoác ra một nụ cười gian manh. Con nhỏ nhìn trao tráo vô tảng đá. Trong ánh sáng mờ mờ, Henry thấy nụ cười của Zelda trở nên oằn oại kinh khủng, khi rất chậm chạp, tảng đá bắt đầu chuyển động. Rõ ràng, Zelda là một trong những đứa có phép thuật. Không người bình thường nào có thể làm được như vậy. Với một tiếng rít ghê tai, tảng đá trượt ra sau, để lộ một cái hố tròn, đen ngòm.



Henry chưa kịp nhận ra chuyện gì thì Manfred đã xô cậu đến miệng hố.



"Đi," Manfred quát. "Xuống!"



"Umm!" Henry lắc đầu.



"Hừ, rồi mày cũng phải xuống thôi."



Manfred đấm một quả vô lưng Henry, cậu loạng choạng về phía trước, ngã huỵch xuống một bậc thang đá hẹp.



"XUỐNG!" Manfred ra lệnh, lần này hắn nhấn đầu Henry xuống.



Henry nảy xóc rồi tuột dài xuống một dãy cầu thang. Bấn loạn, cậu cố giải phóng đôi bàn tay. Đau đớn, cậu cuồng quờ tìm cái gì đó có thể chặn cho mình ngừng rơi. Cuối cùng, cậu đụng phải một vòng sắt đóng vô thành hố, liền túm chặt lấy. Nhưng, đúng lúc cậu vừa bắt đầu leo trở lên những bậc thang, thì tảng đá khổng lồ kia rùng rùng che kín miệng hố. Henry bị quẳng vô màn đêm đen kịt, sâu hun hút và đầy chết chóc, đến nỗi cậu cảm thấy mình sẽ chết chắc.



° ° °



Choàng tỉnh giấc vì tiếng ồn từ phòng bên cạnh, bà bếp trưởng tìm thấy cái ca không và chiếc ghế đổ chỏng chơ. Bà đoán ngay điều gì đã xảy ra. Những con mèo lửa đã tới và đang cào cào vô ô cửa trời trên mái nhà. Ngay khi được bà cho vô, lũ mèo lanh lẹ phóng ngang qua căn phòng và leo lên dãy cầu thang ẩn. Chúng biết khi nào thì có một đứa trẻ đang gặp nạn. Nhưng lúc lũ mèo đến chỗ chiếu nghỉ, thì Henry Yewbeam đã bị bắt đi rồi, và chúng thấy Billy Raven đang nhìn trợn trạo qua tay vịn cầu thang. Vừa trông thấy lũ mèo, Billy liền chạy ngay về phòng nó.



Lũ mèo tìm thấy May Phúc, đang nằm nghiêng và thở khó nhọc. Nhẹ nhàng, chúng hích cho con chó già đứng dậy, và rồi, với tiếng gừ nhẹ nhàng khích lệ, chúng xoa dịu cơn đau và nâng đỡ tinh thần cho May Phúc, cho tới khi nó lết về được tới nơi mà nó gọi là nhà. Bây giờ nó nằm dưới chân bà bếp trưởng, cuộn mình trong một tấm chăn và ngủ lơ mơ.



"Con chó đáng thương, mày phải trả giá vì giữ bí mật cho ta, phải không?" Bà bếp trưởng thì thầm.



"Cảm ơn bọn bay nhé, nó sẽ sống mà," bà nói với lũ mèo. "Nhưng ở đâu đó trong nơi tiêu điều này, có một thằng bé tội nghiệp có lẽ sẽ không qua khỏi đêm nay."



Bà vùi mặt vô lòng bàn tay.



"Ôi, Henry, cậu ngốc quá, giờ cậu đang ở đâu?"



Dương Cưu không thể chịu nổi tiếng than khóc. Meo lên một tiếng nhẹ ru, nó đứng dậy và cọ cọ vô đầu gối bà bếp trưởng.



Bà bếp trưởng lau mắt.



"Mày nói đúng, như thế này ích gì, đúng không? Bọn bay nên đi mà kiếm thằng bé đi, mấy con mèo của ta."



Bà mở ô cửa trời, và ba con mèo lửa phóng ra, nhảy vô bóng tối. Lòng bà nguôi ngoai bớt khi nhìn ba thân hình sáng rực mất hút vô màn đêm.



"Điều gì đã xảy ra với Quả Cầu Xoắn Thời Gian vậy, ta rất muốn biết." bà bếp trưởng thì thầm một mình. "Hay là thằng oắt Billy Raven kia đã tìm thấy nó rồi?" Trong khi đóng ô cửa trời lại, bà nghe tiếng chuông xa xăm của chiếc đồng hồ nhà thờ lớn, báo hiệu đã nửa đêm.



Billy Raven ngủ thiếp đi trên giường. Dưới tiền sảnh, Quả Cầu Xoắn Thời Gian vẫn sáng lờ mờ trong một góc. Cửa dẫn ra chái phía tây để mở he hé, và bây giờ một bóng người hiện ra. Nương trong bóng tối, một bóng đen đủng đỉnh đi vòng quanh tiền sảnh, cho tới khi tới được chỗ quả cầu. Khối thủy tinh lấp lánh được nhặt lên khỏi góc kẹt và được lẹ làng đút sâu vô túi áo.