Côn Luân

Chương 44 : Lục hoa diệu thuật

Ngày đăng: 20:59 22/04/20


Trong lúc Lương Tiêu ngóng nhìn, A Thuật cùng A Lý Hải Nha đã thúc ngựa vượt lên. A Lý Hải Nha huơ roi ngựa chỉ:



- Kia chính là hai thành Tương Phiền đấy!



Lương Tiêu nói:



- Chỉ là hai tòa thành tầm thường, vì sao công mãi vẫn không hạ được chứ?



A Thuật nói:



- Từ khi đại tướng người Tống là Nhạc Phi thu phục Nhạc Dương đến nay,

trong vòng một trăm ba mươi năm qua, người Tống đã khổ tâm trù hoạch cho Tương Phiền. Đến thời của Oa Khoát Đài đại hãn, kể cả những danh tướng

lớn cũng phải chắp tay cung kính những trọng binh thủ vệ của Giang Hán.

Bọn chúng lại càng dốc thêm quốc lực, nhiều lần mở rộng Tương Dương,

không nói đến chuyện thành trì vững chắc, thế gian hiếm thấy, lại thêm

binh tốt lương đủ, vũ khí công thủ nhiều đến ba mươi tư khố. Theo như Bá Nhan nguyên soái và Sử Thiên Trạch suy đoán, nếu không thể công phá

được tường thành thì gần như Tương Dương có khả năng chống đỡ đến hơn

hai mươi năm, nhưng nếu chỉ dựa vào những phương pháp công thành bình

thường thì căn bản không thể phá nổi.



Lương Tiêu bảo:



- Nói như vậy, hai bên chỉ có thể lưỡng bại câu thương hay sao?



A Lý Hải Nha thở dài:



- Điều đó cũng không khác biệt lắm. Cách duy nhất hiện tại chỉ có thể là

cắt đứt viện trợ của hai thành từ bên ngoài, làm tiêu hao lương thảo và

vũ khí tích trữ bên trong. Quân ta sớm đã củng cố được Lộc Môn Sơn, lại

bố trí thêm rào cọc tại Quán Tử Sơn, năm rồi đồng loạt tiến kích, đánh

bại bọn Tống nhân, xây đài thật vững nơi trung lưu Hán thủy, ngâm bảy

khối cự thạch vào nước, dàn thành thủy trận, tại Vạn Sơn, Bách Trượng

Sơn, Hổ Đầu Sơn, Hiện Sơn hợp thành một đường, lại xây nơi bờ tây Hán

thủy một tòa thành mới. Hiện nay hai thành Tương Phiền, cả đông tây nam

bắc, trên thủy trên bộ đều đã bị tuyệt viện cả rồi.



Hắn nói tới đây, lại hướng về A Thuật hỏi:



- Ta trên đường có nghe nói Tống quân đến tiếp viện cho Tương Phiền?



A Thuật gật gật đầu. A Lý Hải Nha cười nói:



- Hơn phân nửa đã bị ngươi giết đến một mảnh giáp cũng không chừa!



A Thuật lạnh nhạt hỏi:



- Phạm Văn Hổ kia là con rể của Cổ Tự Đạo à?



A Lý Hải Nha đáp:



- Đúng vậy!



A Thuật cười lạnh nói:



- Hắn cùng cái tên Hạ Quý kia, chưa đánh đã bỏ chạy mất, thật so với

chuột còn lanh lợi hơn. Sao không phái Trương Thế Kiệt và Lý Đình Chi đi chứ? Hại ta uổng công xuất binh cả buổi, lại chẳng có đất dụng võ.



A Lý Hải Nha cười nói:



- Nếu không có cái đám vô dụng này, bọn ta sao có thể dễ dàng vây khốn Tương Dương như thế?



A Thuật lặng im một lúc rồi đáp:



- Nói không sai, người Tống chính là càng ngày càng kém đi. Năm đó tại

Hợp Châu, ta còn gặp gỡ được vài tên có đảm khí, hôm nay lại cùng mấy

tên vô dụng này đánh nhau, thật khiến người ta nhụt chí mà.



Lời thốt ra ẩn vẻ quạnh hiu.



Chẳng mấy chốc, mọi người đều tản ra khỏi đại doanh Nguyên quân. A Lý Hải Nha an trí cho Lương Tiêu ở tại trong trướng của mình, gọi tới một đại phu

tốt nhất, lại tìm ra được hai nữ tử tòng quân hầu hạ A Tuyết đắp thuốc

thay quần áo. A Tuyết da thịt vỡ tóe, máu hòa vào y sam bện lại một chỗ, không thể nào cởi ra, chỉ có thể dùng dao cắt nát rồi dùng từng khối

từng khối nước nóng mà làm tan đi khối máu khô cứng ấy.



Nước vừa

thấm lên miệng vết thương, A Tuyết nhất thời bật ra tiếng kêu thảm

thiết. Lương Tiêu cố nhịn cơn nhói lòng, ôm lấy nàng nhỏ giọng an ủi. A

Tuyết sợ hắn lo lắng, đành cắn răng giấu lệ, liều mình chịu đựng. Hai ả

Sắc Mục nữ tử kia nhìn thảm trạng khắp người nàng, cũng rơi nước mắt

theo, hai tay không ngừng run rẩy, càng làm tăng thêm đau đớn cho A

Tuyết. Lương Tiêu đành phải tự mình động thủ xé áo tra thuốc, trong lòng càng hận bọn Vân Thù đến không thể hận hơn được nữa.



Chẳng mấy

chốc, bọn người Thổ Thổ Cáp đã đuổi kịp trở về, liếc thấy A Tuyết trong

bộ dáng như thế, kinh nộ đan xen, cả thảy đều chửi bới om sòm. Lương

Tiêu không muốn mọi người quấy rầy đến A Tuyết bèn đuổi bọn họ ra ngoài

trướng, nghiêm mặt nói:



- Bảo các ngươi trị thương tại đại doanh, sao lại không tuân theo mệnh lệnh của ta?



Mọi người ngơ ngác, Thổ Thổ Cáp gạt nước mắt nói:



- Bá Nhan nguyên soái đã đồng ý rồi.



Lương Tiêu nói:



- Lần này bỏ qua, lần sau nếu còn trái lệnh…



Hắn lấy một tay ra dấu, trầm giọng nói:



- Bất kể là ai, đều chém không tha.



Mọi người đồng thanh đáp ứng. Lương Tiêu mới gật đầu nói:



- Các ngươi trong người đều có thương tích, tất cả hãy đi nghỉ ngơi đi,

trước khi vết thương lành, không được phép loạn động đấy.



Mọi

người chỉ đành tản đi nơi khác. Thổ Thổ Cáp lưu luyến không nỡ rời khỏi, vừa đi được vài bước lại ngoảnh đầu, hướng sang bên này nhìn quanh.



Ngày kế, Lương Tiêu nhờ người mang tro cốt của Triệu San về Hoa Âm, còn bản

thân cả ngày bên cạnh A Tuyết, chăm nom cho thương thế của nàng. Đại phu chữa bệnh vốn xuất thân là ngự y, lâu ngày ở trong quân đội, đối với

những vết thương về da thịt vô cùng rành rẽ, dùng thuốc khá chính xác.

Sau sáu bảy ngày chạy chữa, A Tuyết đã dần dần tỉnh táo, miệng vết

thương đã bắt đầu kéo da non, có điều gân cốt cả người còn đau đớn, khó

mà rời giường được.



Lương Tiêu liền hao phí tâm tư, nghĩ ra vài

câu chuyện vui lúc xưa kể cho nàng nghe, khiến cho A Tuyết hợp ý cười

tươi không ngớt, hầu như mọi đớn đau đã quên đi, chỉ cảm thấy nếu như có thể vĩnh viễn được thế này, thì cho dù có bị roi quất thêm nhiều lần

nữa cũng không sợ.



Chớp mắt đã qua hơn một tháng, một hôm lính

canh truyền lệnh, nói Bá Nhan triệu kiến. Lương Tiêu theo lính canh phía trước đi đến đại trướng của Nguyên soái. Vén lều đi vào, chỉ thấy Bá

Nhan hai tay chắp ra sau, đang nhìn lên tấm địa đồ trên tường, nghe

Lương Tiêu tiến đến, cũng không quay đầu lại.



Lương Tiêu ngây người cả nửa ngày, dần cảm thấy mất kiên nhẫn, vừa định rút lui, chợt nghe Bá Nhan cười ha hả, quay người bảo:



- Đã lâu không gặp, ngươi lại trở thành một kẻ vội vàng như thế sao?



Hai người vốn xa cách đã lâu mới gặp lại, bốn mắt nhìn nhau, tâm tình phức

tạp khó giải. Lương Tiêu nghĩ đến người này chính là đệ tử của Tiêu

Thiên Tuyệt liền không khỏi oán hận, nhưng thiết tưởng hắn cũng chính là sư huynh của mẫu thân, lại không khỏi sinh ra chút cảm giác ấm áp.



Bá Nhan cũng nhìn ra tâm ý của hắn bèn chuyển sang chủ đề khác, chỉ lên bức địa đồ trên tường hỏi:



- Lương Tiêu, ngươi có biết đây là gì không?



Lương Tiêu đáp:



- Là bản đồ địa lý núi sông của Đại Tống.



Bá Nhan mỉm cười, ngón tay chỉ lên đất Tương Phiền nói:



- Một khi Tương Phiền bị phá, đại quân của ta lập tức có thể xuôi theo

Hán Thủy, mau chóng đổ vào đại giang, băng qua Giang Nam, lướt qua Ngạc

Châu rồi sau đó với trăm vạn tàu lớn, xuôi dòng về hướng đông, quét sạch Đại Tống, tiếp lấy Lâm An.



Ngón tay hắn theo đường sông mà di chuyển, dừng lại phía trên Lâm An, thở dài thườn thượt:



- May mà ngươi đã cứu được A Lý Hải Nha trở về, cái này gọi là “Ngàn quân dễ kiếm, một tướng khó cầu”, nếu thiếu đi hắn khác nào đã chặt đứt một

cánh tay của ta, ngày sau công diệt Đại Tống có thể sẽ gian nan hơn gấp

nhiều lần!



Dứt lời hắn bước dạo hai bước, chắp tay nhìn trời, sắc mặt khi sáng khi tối, tựa như gặp phải một vấn đề thập phần khó xử, rất lâu sau mới quay đầu lại, chăm chú nhìn Lương Tiêu bảo:



- A

Thuật vì mến ngươi kiêu dũng đã tiến cử ngươi đến Khâm Sát doanh dưới

tay hắn để làm bách phu trưởng, hôm nay ta đã đồng ý, ngươi hãy gắng mà

làm cho tốt. Nhớ kỹ, làm một tướng quân giỏi so với luyện võ công cao

càng không dễ dàng đâu!



Vừa nói vừa gỡ nhẫn bạch ngọc xuống trao cho hắn, lại tiếp tục nói:



- Ngày sau nếu gặp chuyện khó xử, hãy đến tìm ta, chỉ cần không phạm vào quân kỷ quốc pháp, ta nhất định sẽ giúp ngươi.



Lương Tiêu khuôn ngực nóng ran, hai tay tiếp lấy. Bá Nhan hỏi qua một chút về thương thế bạn bè hắn, lại cảm thấy không có việc gì khác để phân phó,

liền lệnh cho hắn trở về, lập tức chuyển đến Khâm Sát doanh.



Lương Tiêu trở lại nơi ở, đem mệnh lệnh của Bá Nhan nói cho A Tuyết nghe, để

nàng ở lại trong trướng của A Lý Hải Nha mà dưỡng thương. A Tuyết trong

lòng tất nhiên không muốn, nhưng biết quân lệnh như núi, không thể cưỡng lại. Đêm ấy, Lương Tiêu chuyển vào Khâm Sát đại doanh, tiếp nhiệm chức

Bách phu trưởng.



Khâm Sát doanh chính là kỵ binh tinh nhuệ nhất

trong Nguyên quân, có từ thời cháu của Thành Cát Tư Hãn là Bạt Đô kiến

lập Khâm Sát Hãn Quốc, trong đó có những Sắc Mục nhân như Khâm Sát, A

Tốc, Oát La Tư, Hung Gia Lợi; sau này cũng có pha tạp chút máu huyết của người Mông Cổ, tóc vàng mắt xanh, từ nhiều nơi hợp lại, tất cả đều nhân cường mã tráng, nhanh nhẹn và hung mãnh dị thường. Lương Tiêu trong đám người Hán cũng được kể như có vóc người cao lớn, nhưng khi đến doanh

trung này rồi thì cũng trở nên tầm thường mà thôi.



Tổ phụ của A

Thuật là Tốc Bất Đài từng cùng Triết Biệt, Bạt Đô hai lần tây chinh,

dương oai Tuyệt vực. Đám binh sĩ trong Khâm Sát doanh này đều rất kính

sợ A Thuật nhưng lại xem thường Hán nhân. Trước tiên là vì không thông

ngôn ngữ, thứ hai là do dựa theo luật lệ Đại Nguyên, Sắc Mục nhân tuy

thấp hơn người Mông Cổ nhưng lại cao hơn Hán nhân, địa vị của họ vì

không bằng người Mông Cổ nên thiết tưởng có thể lấy lại thể diện trên

mình người Hán, cho nên khi gặp một trọng thần danh tướng như Sử Thiên

Trạch cũng không thèm xuống ngựa hành lễ. Thêm vào đó bọn họ tác chiến

kiêu dũng, trong ba quân chiếm số đông, dựa vào công lao càng thêm hoành hành bá đạo, chẳng chịu để Hán quân vào mắt.



Lương Tiêu trong bộ dáng của người Hán, lại bị phái đến nơi Khâm Sát doanh này, hơn nữa lại đến với thân phận bách phu trưởng khiến cho bọn binh lính Khâm Sát vô

cùng khó chịu, ngấm ngầm thương nghị với nhau tìm cách gây khó dễ cho

hắn.



Đến ngày kế, Lương Tiêu theo lệ xuất trướng điểm binh, tù và thổi ba hồi vẫn không thấy một người tới báo. Hắn không rõ nguyên do,

trong lòng kinh ngạc: “Bọn họ không nghe hiệu lệnh của ta hay sao? Nếu

muốn thi hành quân pháp, thì cứ đem trăm tên gia hỏa này ra chém đầu,

nhưng như thế chẳng phải bách phu trưởng ta sẽ trở thành kẻ lạm sát hay

sao?”



Cùng lúc này, những đội ngũ tướng sĩ khác đã hoàn thành

xong phần huấn luyện buổi sớm, đều kéo đến xem nhiệt náo, vây quanh

Lương Tiêu mà chỉ chỉ trỏ trỏ, hi hi cười nhạo, dùng ba cái thứ tiếng xí xô xí xào kêu réo ầm ĩ. Lương Tiêu một mình một bóng đứng giữa nơi ấy,

tiến lùi không xong, xấu hổ vô cùng, ngôn ngữ đối phương lại không cách

nào nghe hiểu được, cũng chẳng biết vì sao lại thành ra thế này. Im lặng cả nửa ngày, hắn chỉ đành siết quyền nén giận, không nói lời nào trở

vào trong trướng.



Khâm Sát tướng lãnh lập tức đem việc này bẩm

báo lên A Thuật, kể xấu phóng đại về Lương Tiêu. A Thuật để cho Lương

Tiêu vào một địa phương như thế, cố ý muốn làm cho hắn tiêu tan ngạo

khí, nghe vậy chỉ cười trừ, nghĩ ngợi rồi nói: “Để xem tiểu tử này xử

trí ra sao?”



Ai ngờ tới hai ngày sau, Lương Tiêu vẫn không xuất

trướng triệu binh, đám binh sĩ Khâm Sát kia vốn cũng không định đi tập

luyện, chỉ thêm mừng rỡ lười nhác ngủ nướng, lũ binh sĩ trong đội ngũ

của hắn càng thêm đố kỵ. Những tướng lãnh Khâm Sát khác cũng vô cùng bất mãn, lại đến dưới trướng của A Thuật, nói Lương Tiêu vô dụng, không thể cầm binh.



A Thuật nghe nói Lương Tiêu mãi không lộ diện, cũng

cảm thấy kinh ngạc, suy đi nghĩ lại đành để cho chúng tướng lãnh lui

xuống, bảo rằng nếu ngày mai mà Lương Tiêu vẫn không có động tĩnh gì thì chính mình sẽ có chủ trương. Chúng tướng nghe lệnh, vui mừng rời đi.



Đến buổi tập sớm ngày thứ ba, Mông Cổ đại doanh tù và thổi vang, các bộ

nhân mã đều xuất trướng, nhưng trong doanh của Lương Tiêu vẫn chẳng chút động tĩnh. Chúng quân sĩ sớm nhận được tin tức, quyết tâm đuổi Lương

Tiêu đi, người người đều nằm sấp trên giường, rụt đầu trùm chăn say ngủ, những tướng lãnh của các đội ngũ khác đều phái thám tử đi rình trộm,
Phía trên Tương Dương thành không ngừng

rung chuyển, nỏ pháo khổng lồ gầm thét, hướng về trận địa Nguyên quân

trút xuống, đội tiên phong của Nguyên quân chết la liệt, hướng về sau

dần rút lui. Bộ binh của Tống nhân thừa thế xông lên, một đội mang theo

khiên gỗ đoản đao, lăn đến chém vào chân kỵ mã, một đội giương thần tí

cung, hướng về phía bộ binh của Nguyên quân mà xạ tới.



Kỵ binh,

bộ binh của Nguyên quân lập tức trở nên cảnh lộn xộn. Đầu thành lại vang lên tiếng pháo, người ngựa phe Tống đột nhập vào bên trong trận thế của Nguyên quân, oằn cung múa thương, xung đột qua lại, chỉ mới hai hiệp mà Nguyên quân nhất thời đã rối loạn.



Hợp Xi Man bật người lên sườn núi, trông về xa xa, cười bảo:



- Người Tống thật phí sức, Hán quân không xong rồi, chúng ta lên thôi!



Chúng quân đang muốn thúc ngựa chạy đi bỗng nghe Lương Tiêu kêu lên:



- Chậm đã!



Hợp Xi Man hỏi:



- Sao vậy?



Lương Tiêu đáp:



- Đợi cho phục binh của người Tống đi ra đã.



Hợp Xi Man nhíu mày hỏi:



- Vậy là ý gì?



Lương Tiêu đáp:



- Ta vừa rồi có tính qua, nơi mà hai quân giao chiến vẫn chưa nằm trong

phạm vi bao trùm của cường cung đại nỏ. Tống quân chỉ dẫn mà không phát, phái binh mã cùng ta kịch chiến rõ ràng là cố ý ra vẻ giả vờ, hấp dẫn

tinh kỵ của chúng ta đuổi theo vào trong, sau đó trá bại vào thành, còn

kỵ bộ của chúng ta đều bị kẹt lại bên dưới pháo nỏ, đến lúc này Tống

nhân sẽ đồng loạt khai hỏa, cho dù kỵ binh có cường thịnh trở lại cũng

khó tránh khỏi trận cước rối loạn, sau đó đội tinh nhuệ bên ấy sẽ đột

ngột xuất ra giết ta không kịp đối phó, nếu ta đoán không lầm, phía sau

Tống nhân còn có tinh binh ẩn nấp.



Hợp Xi Man chau mày, còn chưa nói gì chợt nghe một gã kỵ binh phi ngựa truyền tin đến báo:



- A Thuật đại nhân có lệnh, bảo ngài án binh bất động, đợi một chút cho

phục binh của Tống quân trong thành tấn công ra thì lập tức xông lên,

cắt đứt đường về của bọn chúng, tiêu diệt chúng ngay dưới thành.



Hợp Xi Man nhìn Lương Tiêu thầm nghĩ: “Quái thật, hắn cùng A Thuật đại nhân có ý nghĩ giống nhau.”



Lệnh truyền binh còn chưa dứt, hai nhóm kỵ binh người Hán đã đuổi tới, theo

hai hướng trái phải của Tống quân mà xông vào. Đương qua cự lại một

chút, Tống quân nhất thời tan rã, hướng vào trong thành rút lui. Quân

Nguyên chưa kịp xua quân tiến kích, Tống quân đã sớm cho khởi động pháo

nỏ.



“Uỳnh” một tiếng chấn động màng nhĩ, trong khoảnh khắc pháo

thạch như mưa hướng kỵ binh Hán nhân rơi xuống, Nguyên quân bỗng chốc bị cắt làm hai, chỉ nghe trong thành pháo hiệu nổi lên, bốn ngàn Tống kỵ

như cuồng phong bão táp, hòa vào trận thế Nguyên quân, thỏa sức giết

chóc.



Nguyên quân chống cự không nổi, lùi về phía sau, Tống quân

được thế, theo kế hoạch nổi trống trợ khí, đem bốn cánh Nguyên quân này

bẻ gãy, nhất thời thế như chẻ tre, đuổi gấp không tha. Cùng lúc này, bên trong thành bước ra hai ngàn kẻ bắn cung nỏ, tạo thành hình cánh ưng

theo hai bên trái phải phối hợp với trận thế của kỵ binh, hướng về phía

Nguyên quân bắn tới. Nguyên quân tiến lùi không được, trái phải khó

thoát, nhất thời người ngựa giẫm đạp lên nhau, tử thương trầm trọng.



Lương Tiêu xem đến đây thì kêu lên:



- Đến lúc rồi!



Hợp Xi Man nói:



- A Thuật đại nhân còn chưa lên tiếng mà!



Lương Tiêu nói:



- Thời cơ không đợi người. Tống nhân vốn nhút nhát, bất ngờ tấn công sẽ

đắc thủ, bọn chúng khó tránh khỏi việc rút lui, ta xem trận thế, nhất

quyết phải truy cùng giết tận.



Trải qua lần cá cược trước, Hợp Xi Man đối với hắn hoàn toàn tin tưởng, lập tức hiệu lệnh ba quân.



Tướng sĩ Khâm Sát quân sớm đã không còn kiên nhẫn nữa, nghe tiếng lập tức

hành động, theo sườn núi phía trên bất ngờ tản xuống dưới. Lúc này tên

lính truyền lệnh của A Thuật cũng đâm đầu chạy tới, gọi Khâm Sát quân

tiến kích, chợt thấy tất cả đã xuất kích rồi, kinh ngạc vô cùng. Hợp Xi

Man không kịp nghe lệnh, suất quân chớp nhoáng, nhắm đến ngay trước

Tương Dương thành. Lúc này Hán quân đã rối loạn, tử thương vô số, kỵ

binh Tống nhân chính muốn rút lui, hai ngàn cung nỏ thủ vừa bắn ra một

đợt tiễn đã lại gấp gấp rút tên lắp nỏ, yểm hộ kỵ binh về thành, không

ngờ Khâm Sát quân đột ngột đến nơi, trong cơn hốt hoảng, chẳng biết phải ngăn cản thế nào, đạp trước đẩy sau tranh nhau chạy vào trong thành.



Hợp Xi Man mau chóng phất roi ngựa ra hiệu, ba cánh Khâm Sát quân trong lúc chạy điên cuồng chia ra làm ba đội, một đội tiêu diệt nỏ thủ, một đội

cắt đứt đường về của kỵ binh, còn một đội do đích thân Hợp Xi Man suất

lãnh, xông vào giữa bọn kỵ binh Tống quân. Chỉ thấy ngựa phi như rồng,

tên rớt như mưa, thiết kỵ Khâm Sát như gió thu cuốn lá rụng, quét qua

dưới thành Tương Dương, Hán quân của Nguyên triều thừa cơ phản kích, bốn phía chém giết, chỉ qua hai nén hương, năm ngàn Tống quân đã hoàn toàn

tan tác, hầu như chết sạch.



Hợp Xi Man phút giây tham chiến, xa

xa trông thấy bại quân rút lui, cổng thành Tương Dương còn chưa kịp khép kín, phát hiện ra cơ hội có thể tận dụng. Y trước giờ vênh vang, tự phụ chiến mã của mình là ngựa tốt, nhanh như cắt roi dài phất lên, chỉ muốn thừa thắng xua quân, chớp nhoáng thẳng tiến vào Tương Dương khuấy đảo,

lập nên đại công lao to lớn.



Lương Tiêu đang lúc dẫn trăm thủ hạ tiêu diệt tàn địch của Tống quân, thấy vậy kinh hãi hô lên:



- KHÔNG ĐƯỢC ĐIIIII !!!!



Nhưng tiếng hô đã chìm ngập vào giữa những tiếng la thét chém giết, Hợp Xi

Man làm sao nghe được. Y vọt ngựa lên trước, cùng với hai thiên phu

trưởng dẫn theo binh mã, phi ngựa tiến sát bên dưới Tương Dương thành.

Đúng lúc ấy, chỉ nghe một tiếng nổ lớn vang lên, một viên đại thạch che

trời lấp đất từ cự nỏ đầu thành giáng xuống, nhất thời bao phủ toàn bộ

bọn người Hợp Xi Man vào trong.



Lương Tiêu kinh hãi thất sắc, phi thân xuống ngựa, dựa vào thân pháp khinh công, mạo hiểm chui vào giữa

pháo thạch, chỉ thấy Hợp Xi Man toàn thân một khối máu thịt lẫn lộn, cả

người lẫn ngựa sớm đã thành một đống bùi nhùi, chẳng thể phân biệt được

nữa.



Lương Tiêu thấy chẳng còn ai sống sót đành phải rời khỏi,

luồn qua lách lại bất định trong đám pháo thạch. Quân Tống thủ thành sớm đã có chuẩn bị, pháo thạch dày đặc, liên miên không dứt, cho dù khinh

công của hắn có lợi hại, bộ pháp tuyệt thế, nhưng miễn cưỡng chỉ có thể

tránh được các tảng đá to cây lớn, còn tiểu thạch thì không thể né khỏi.



Khối lượng tiểu thạch trút xuống lưng hắn phải ước chừng nặng đến bảy tám

trăm cân. Lương Tiêu cả người lảo đảo, cố tiêu trừ phần lớn lực đạo, cổ

họng một trận phát ngọt, lắc mình thoát khỏi một khối cự thạch trăm cân

giáng xuống, loạng choạng chạy vào bên trong đại đội, nhảy lên lưng

chiến mã, đợi đến khi thoát khỏi phạm vi công kích của pháo nỏ, hắn

không thể chịu đựng nổi nữa, nằm rạp trên lưng ngựa, miệng phun ra một

ngụm máu tươi.



Lúc họp lại, Khâm Sát quân tổn thất vô cùng thảm

trọng, ba gã thiên phu trưởng đã ra đi bên dưới thành, đồng thời có đến

ba trăm người mất mạng, lưu lại mười mấy gã bách phu trưởng, lớn nhỏ như nhau, ai nấy đều tự ra lệnh. Chư quân như rắn mất đầu, cả đoàn hò hét

loạn xạ.



Thái thú Tương Dương Lữ Đức là danh tướng của Đại Tống,

tài thao lược uyên sâu, trông thấy cơ hội bày sẵn bèn không thèm để ý

đến đội binh tinh nhuệ vừa mất đi, tức tốc điều khiển ba ngàn thiết kỵ

rời khỏi cổng thành, một ngàn kỵ binh tiến về phía Hán quân, nhiệm vụ

không cho bọn chúng tiếp viện, hai ngàn kỵ binh trực tiếp giao chiến

cùng Khâm Sát quân, chủ tâm đem đội binh tinh nhuệ nhất của Nguyên quân

này một lần xóa sổ, triệt phá nhuệ khí của người Nguyên.



Khâm Sát quân từ khi lập ra đến nay chưa từng bị đánh bại, thắng thì đương nhiên càng đánh càng hăng, khí thế cực sắc bén, nhưng phàm những thứ sắc bén

ít khi dài lâu, khí thế cũng dễ tiêu tán, cái đám sư binh (1) bất bại

này một khi thua trận ngược lại sẽ càng thêm mất tinh thần không lấy lại được sĩ khí.



Huống chi bọn họ luôn trị quân dựa trên nghĩa đồng

bào, cực kỳ trọng tình, bọn người Hợp Xi Man vừa chết, mỗi người đều mất hết lý trí, lập tức đã không còn tuân theo chiến pháp, ùn ùn mà kéo ra, dựa vào tài kỵ xạ tinh thục, mạnh ai nấy chiến, liều mạng cùng Tống

nhân. Điều này vô tình đã phạm vào cấm kỵ lớn trong binh gia, cũng chính là mong mỏi của người Tống.



Phe Tống dựa vào hoàn cảnh, trận

hình dày đặc, thừa thế trùng đột, đem Khâm Sát quân chia cắt ra, khiến

cho trước sau trái phải không thể hổ trợ, mặt sau lại phân binh thỏa sức công kích, bốn mặt tàn sát.



Ngày thường Khâm Sát nhân mắt để

trên đầu kẻ khác, khinh người vô cùng, các lộ Hán quân đối với nhóm kỵ

quân sắc mục này ghét cay ghét đắng, trông thấy lần này bọn họ tan tác

đại bại, trong lòng mừng thầm, cả thảy đều ứng chiến một cách cầm chừng, không có bất kỳ ý niệm ứng cứu nào.



A Thuật đang lãnh nhiệm mặt

phía Nam của Tương Phiền, chỉ huy thủy lục hai quân, lúc này thủy chiến

gặp phải đối thủ lợi hại, khó có thể phân thân giúp đỡ. Chợt nghe truyền lệnh binh báo cáo, nhìn về xa xa, chỉ thấy trên bộ tình thế đang nắm

chắc phần thắng đột nhiên xoay chuyển mau lẹ. Hắn kinh hãi thất sắc,

cũng không thèm quan tâm đến thủy chiến nữa, lúc này bước xuống soái

đài, sai truyền lệnh binh hỏa tốc triệu tập kỵ binh, định tự mình đích

thân ứng cứu. Trong khoảnh khắc ấy, Khâm Sát quân mười phần đã bị tiêu

diệt mất hai phần.



Liền lập tức, chợt thấy trận thế Tống quân xao động. Một đội Khâm Sát nhân mã đang đột phá xuyên qua trùng vây của

Tống quân, ước chừng đông đến trăm kỵ, chỉ tụ mà không tán, thế trận gọn gàng, tại bên trong trận thế của Tống quân tiến lùi quét sạch.



Người dẫn đầu chính là Lương Tiêu. Hắn đã thụ nội thương bèn trao quân vụ lại cho Thổ Thổ Cáp nắm giữ, chợt thấy Tống quân đánh tới, binh mã bên mình đã mất sự khống chế, vội vàng thúc ngựa lao ra, lớn tiếng hô hét, giữa

đám loạn quân gắng gượng quản thúc binh chúng.



Trăm thủ hạ của

hắn mấy ngày nay liên tục chịu sự bẻ mặt, không như các đội ngũ khác vẫn kiêu ngạo hống hách, thêm vào bọn năm người Thổ Thổ Cáp cùng Khế Nhĩ Ni Lão toàn lực tương trợ, một trăm người này rốt cuộc cũng không rối

loạn.



Lương Tiêu quan sát sơ hở địch, cản chỗ mạnh đánh chỗ yếu.

Đợi đến khi lòng quân ổn định liền cùng năm người Thổ Thổ Cáp kết thành

“Lục Hoa trận”, lấy trận pháp làm mấu chốt, thúc đẩy cả đội trăm người,

dẹp bỏ tự ái đánh vào chỗ trống, lặp lại thế trùng phá trận địch, lại để cho Thổ Thổ Cáp, Nang Cổ Ngạt, Khế Nhĩ Ni Lão dùng tiếng Khâm Sát hô

gọi đồng bạn, nhập trận với mình.



Khâm Sát quân sĩ trong lúc phẫn kích, trận thế rồi loạn, bấy giờ tử thương trầm trọng thê thảm mới giật mình hiểu ra, thầm biết nếu không đồng tâm hiệp lực sẽ chắc bại chẳng

thể nghi ngờ, lúc này đều gia nhập vào đội ngũ của Lương Tiêu.



Lương Tiêu trong lúc đuổi giết, hô to gọi nhỏ tùy ý chỉ điểm, cùng ở chung vị trí với mọi người, thụ thương khắp nơi trên cơ thể, không gì không gánh chịu. Cơ may sống sót nhờ đó đã thu hút được sự tự nguyện gia nhập của

chúng quân sĩ.



Qua lại bốn năm lần, Lương Tiêu từ trong cảnh cực

kỳ hỗn loạn, đem một đội quân đang lúc thảm bại tan rã một lần nữa tập

hợp lại mạnh mẽ, hơn hai ngàn người gầm thét hú dài, tất cả đều trông

theo sự chỉ đạo của hắn. Khâm Sát quân vốn lợi hại như thế nào, mới rồi

chia rẽ tự nhiên dễ dàng bị khi dễ, lúc này có thủ lĩnh, nghìn lòng như

một, ai nấy đều có thể lấy một địch mười, bọn họ chưa bao giờ chịu qua

sự thất bại như thế, lửa giận bên trong thiêu đốt, nghe theo hiệu lệnh

của Lương Tiêu, tả xung hữu đột, liều mình truy giết.



Lương Tiêu

xem trận thế địch, thấy binh mã Tống quân di động như muốn lệch ra hai

bên sườn núi, liền lệnh Khâm Sát quân tản ra hai cánh, ngăn trở Tống

quân bất ngờ tập kích, lại lệnh cho Thổ Thổ Cáp lãnh đội tinh nhuệ binh

vốn có, thừa dịp thì phi mã đột trận, xuyên thẳng vào nơi yếu hại của

đối phương, lấy kình cung duệ tiễn (2) bắn chết mấy tên đại tướng của

Tống quân. Ba ngàn Tống quân như rắn mất đầu, nhất thời tan rã, bị Khâm

Sát quân đột phá qua lại, giết cho thây chất khắp nơi.



Lữ Đức

thấy thế kinh hãi, tự thân lãnh bốn ngàn kỵ bộ xuất viện, gắng gượng cứu được hai ngàn tàn quân, còn hơn một ngàn người khác không ai may mắn

thoát được. Lữ Đức lệnh quân vừa đánh vừa lui hướng thẳng về dưới tường

thành.



Lương Tiêu biết pháo thạch của đối phương sẽ lập tức giáng xuống bèn gấp rút lệnh cho toàn quân triệt thoái về sau, đến khi điểm

binh, gộp lại chỉ còn hơn bảy trăm người.



------------------------------



(1): sư binh gồm khoảng 2500 lính



(2)kình cung duệ tiễn: cung lớn tên nhọn