Côn Luân

Chương 46 : Tương dương công phòng

Ngày đăng: 20:59 22/04/20


Lương Tiêu thấy cách tính của Lan Á thập phần cổ quái, khác xa với các

phương pháp của Trung Thổ, nhưng các bước tính toán lại rất ngắn gọn chứ không hề phức tạp như cách tính Trung Thổ, nên không khỏi gật đầu khen

ngợi:



- Đây là phương pháp tính của người Hồi phải không? Quả nhiên có chút phương pháp riêng.



Lòng nghĩ dù trước đây mình đã giận dữ với nàng, nhưng giờ cũng nên gạt bỏ

thành kiến, thành tâm thỉnh giáo sự tinh diệu của số thuật Hồi Hồi. Nghĩ vậy, hắn nhất thời bỏ qua cơn giận, thở dài, cùng với A Tuyết kể lại

tình hình gần đây. A Tuyết khi nghe hắn kể việc những ngày qua thì lòng

biến đổi không ngừng. Khi hắn nói đến tính hung hãn của bọn quân Khâm

Sát, bất giác nàng không còn cười nổi; khi nghe đến đọan đại chiến Tống

Nguyên thì nàng trở nên khẩn trương, nắm chặt tay hắn; đến lúc hắn nói

đến việc đã được thống lĩnh quân Khâm Sát, thì trong lòng nàng nhất thời cảm thấy mơ hồ như đang ở trong giấc mộng.



Lan Á vùi đầu tính

toán một vài thời thần, giải đề thứ nhất đến bước thứ hai mươi vẫn không ra, nhìn chằm chằm đề toán đến ngây ngốc. Lương Tiêu lúc này đã nguôi

cơn giận, nhớ lại hồi niên thiếu hắn cũng đã nhức đầu, khổ ải vì các đề

toán, nay nhìn bộ dạng sầu khổ của nàng thì sinh đồng cảm, hạ giọng nói:



- Tính không ra phải không?



Lan Á nghiến răng, nói nhỏ:



- Ngươi... ngươi đưa ra cái đề quỷ không thể giải ra này để hại người mà!



Lương Tiêu cười cười, một tay nắm tay A Tuyết, tay kia cầm kiếm, soạt soạt

soạt một lèo giải ra. Hắn biết Lan Á cũng không tầm thường, cho nên chỉ

giải một cách vắn tắt, đồng thời cũng chỉ cho nàng chỗ quan trọng. Trong khoảnh khắc, đề thứ nhất đã được giải xong; rồi hắn lại đưa ra cách

giải đề thứ hai. Lan Á thấy cách giải tinh diệu, vừa mừng vừa sợ, mày

động mắt chớp, gật đầu liên tục. Đến khi Lương Tiêu giải đến đề thứ ba,

Lan Á nói gấp:



- Thế nào cũng có cách giải khác! Thế nào cũng có cách giải khác!



Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:



- Sao? Nàng cũng tính ra à?



Lan Á đỏ mặt nói:



- Bây giờ tính chưa ra, ta nghĩ từ từ, cuối cùng cũng ra thôi.



Lương Tiêu nghe nói vậy, lòng mừng cảm thấy như gặp tri kỉ, nghiêm mặt nói:



-Tốt, nếu tính không ra, ta sẽ nói với nàng.



Thấy vậy, A Tuyết cười nói:



- Ca ca không mắng chửi người ta à? A Tuyết cũng tính không ra, nhưng mà bị mắng chửi không ngừng.



Lương Tiêu liếc mắt nhìn nàng nói:



- Ta giải chỉ vài bước người ta đã hiểu. Còn muội, thiệt là đầu đá, cho dù ta có giải đến trăm lần cũng chưa chắc đã hiểu.



A Tuyết cong môi đáp:



- A Tuyết vốn ngu ngốc mà!



Lương Tiêu trừng mắt:



- Ngu ngốc thì có gì ghê gớm lắm à?



A Tuyết dựa vào vai hắn cười hì hì.



Lan Á thấy huynh muội họ tình thâm, trong lòng thấy ấm áp, thở dài nói:



-Lương Tiêu, ta nên trở về rồi, không thì cha ta sẽ lo lắng.



Lương Tiêu đứng dậy nói:



- Ta đưa nàng về.



Đoạn quay hắn qua nói với A Tuyết:



- Ngoan ngoãn ở lại dưỡng thương, ngày mai ta quay trở lại gặp muội.



A Tuyết gật đầu:



- Muội đợi ca ca.



Lương Tiêu và Lan Á rời khỏi đại doanh, tới trước trại của Trát Mã Lỗ Đinh.

Lan Á dừng ngựa, trù trừ cả nửa ngày trời, đột nhiên nàng hỏi:



- Lương Tiêu, ngươi là có phải là toán giả vĩ đại nhất Trung Thổ không?



Lương Tiêu lắc đầu nói:



- Không thể nói như thế! Tuy nhiên, thật sự đến giờ ta vẫn chưa gặp ai hơn được ta.



Lan Á hai mắt ngời sáng cười nói:



- Lương Tiêu, ngươi làm khó được ta nhưng chưa chắc đã làm khó được sư phụ ta đâu.



Lương Tiêu bình thản nói:



- Nạp Tốc Lạp Đinh? Ông ta ở đâu?



Lan Á nói:



- Người ở Hồi Hồi, trong đài thiên văn của Mã Lạp Gia. Đó là đài thiên

văn tráng lệ nhất thế giới, tàng trữ không biết bao nhiêu đồ thư, có

những khí cụ thiên văn tốt nhất. Sư phụ ta mỗi ngày đều ở đó, lắng nghe

âm thanh của sao trời.



Nói đến đây, mặt nàng lộ lên vẻ tôn kính vô vàn.



Lương Tiêu im lặng một lúc rồi hạ giọng nói:



- Lan Á, cô quay về Hãn quốc, nói với Nạp Tốc Lạp Đinh rằng một khi xong

việc ở Trung thổ, ta nhất định sẽ đến Mã Lạp Gia (Malaga - ND) thỉnh

giáo người. Lúc đó mới biết ai là tinh học giả vĩ đại nhất, ai mới là

minh giả chi vương.



Lan Á nghe hắn nói thế, trong lòng chấn động, vội nói:



- Ngươi nói nghiêm túc chứ?



Lương Tiêu mỉm cười đáp:



- Tuyệt không hư ngôn.



Lan Á nhìn hắn chằm chằm, rồi đột nhiên cười lộ hai núm đồng tiền, giống như giọt thủy ngân sóng sánh long lanh, lẩm nhẩm:



- Thật muốn ngươi đi ngay bây giờ!



Lương Tiêu ngạc nhiên hỏi:



- Sao cô lại cao hứng thế? Không sợ ta đánh bại sư phụ cô à?



Lan Á cười đáp:



- Sư phụ ta không màng thắng bại, chỉ mong gặp các bậc trí giả mà thôi.



Rồi nàng kín đáo thở dài, trong mắt toát ra vẻ thần bí, nói tiếp:



- Thật muốn thấy ngươi gặp mặt sư phụ. Bậc trí tuệ siêu việt nhất thế

giới Hồi giáo gặp gỡ người có học vấn sâu rộng nhất Trung Thổ, khi đó có thể tạo ra những cảnh tượng kinh hãi thế tục như thế nào đây?



Lương Tiêu quay đầu lại, nhìn ánh đèn rực rỡ từ thành Tương Dương, thần sắc buồn bã, thở dài nói:



- Bây giờ thì không thích hợp!



Lan Á cũng nhìn theo hắn, cười khổ, rồi quay người thúc ngựa đi vào doanh

trại, nhưng được vài bước, vội quay đầu lại, ngây ra nhìn Lương Tiêu.

Lương Tiêu nói:



- Có việc gì nữa à?



Lan Á chợt run lên, hoảng hốt trả lời:



- Không có gì, không có gì.



Vội vàng chạy vào doanh trại, hai má nóng bừng, nàng tự nói với lòng:



- Lan Á, ngươi làm sao thế? Không phải trinh tiết và tính mạng ngươi đã

phó thác cho tinh tú rồi sao? Ngươi sao lại có thể như thế được?



Nghĩ thì nghĩ vậy nhưng trong nàng, tâm trạng vẫn dao động không ngừng, không sao ổn định được.



Ngày hôm sau, Lương Tiêu nhận chức Đại Thống Soái Khâm Sát Quân, rồi trong

suốt mười ngày sau đó hắn chuyên tâm thao luyện binh sĩ. Những lúc rảnh, hắn cũng không ngừng trao dồi tướng sóai chi pháp và học tiếng Khâm Sát với Thổ Thổ Cáp để tiện bề thống lãnh ba quân.



Kể từ ngày hôm

ấy, mỗi chiều Lan Á đều đến chỗ A Tuyết, cùng Lương Tiêu nghiên cứu số

học. Lương Tiêu si mê toán học, không giữ kiến thức làm của riêng, nên

mỗi khi Lan Á không hiểu hắn đều giảng giải tận tình. Lan Á thấy hắn sử

dụng số học vô cùng tinh diệu, nên lại càng kinh phục khả năng của hắn,

thầm than toán học Trung Thổ thật tinh tế, có thể hơn cả thuật toán của

người Hồi. Nhưng rồi lại tự nhủ, sư phụ Nạp Tốc Lạp Đinh trí tuệ bao la, lớn rộng như biển thì sao có thể thua người này được.



Một lần

nói đến toán học, Lương Tiêu không nhịn được hỏi Lan Á về số học của

người Hồi. Qua lời Lan Á, hắn biết được rằng số học của người Hồi vốn

xuất phát từ nơi xa nhất về phía Tây, gọi là Hy Lạp. Hàng ngàn năm trước nơi đó đã có vô số những nhà tóan học lớn với hình học Euclide, đại số

học Pythagoras, thiên văn học Thales, Archimedes vĩ đại, tinh anh tụ

hội, phát triển vô cùng. Nhưng chiến tranh triền miên không dứt,

Archimedes bị người La Mã chém đầu, Hy Lạp cũng bị ngọn lửa chiến tranh

tiêu diệt, nền học vấn quý giá bị xem là tà thuyết dị đoan, bị đốt, bị

mất, đến giờ lưu lại cũng chẳng còn bao nhiêu. Sau đó, người Hồi trở nên hùng mạnh, thảo phạt La Mã chiếm lấy Hy Lạp, khiến những kiến thức bị

thất lạc đã rơi vào tay các vị học giả Hồi giáo. Người Hồi nghiên cứu

học vấn Hy Lạp, đến giờ phát dương quang đại, xuất hiện các hiền triết

vĩ đại, và người vĩ đại nhất hiện nay là Nạp Tốc Lạp Đinh, là đại thành

giả về học vấn của người Hồi.



Đến đây, Lan Á im lặng hồi lâu rồi nói tiếp:



- Nhưng sau đó, người Mông Cổ trở nên cường đại, vương triều A Bạt Tư của chúng ta bị Húc Liệt Ngột Hãn tiêu diệt. Sư phụ để lưu truyền học vấn,

trong cảnh chiến tranh cửu tử nhất sinh, đã chỉ dạy thuật luyện kim và

thuật chiêm tinh cho giới quyền quý người Mông Cổ, mong được sự che chở. Tuy nhiên, Húc Liệt Ngột Đại Hãn mặc dù tôn trọng lão sư, hắn lập đài

thiên văn, không phải để lão sư nghiên cứu học vấn, mà để hắn dùng thuật chiêm tinh mà xem tương lai của mình là họa hay phúc; đừng tưởng rằng

hắn sẽ chế tạo ra các dụng cụ tinh xảo để xem sao trời, hắn chủ yếu chỉ

tạo ra lợi khí công thành, nhằm phục vụ cho việc chinh phạt các quốc gia không phục tùng mà thôi.



Nói đến đây, hai mắt chợt đỏ, nàng thở dài:



- Kì thật người khác thấy sư phụ ta địa vị tôn quý, nào biết đâu rằng ngài thật sự rất đau khổ trong lòng.



Bất chợt Lương Tiêu nhớ tới lúc khó khăn ở Thiên Cơ Cung, trong lòng cảm

thấy xót xa, nhưng rồi lại chợt vui. Phải biết sáu năm gian khổ đó, hắn

đã học đến tận cùng của toán thuật Trung Thổ, đến không còn gì để học

nữa, giờ phút này biết được ngoài Trung Thổ vẫn còn môn toán học bác đại tinh thâm như thế, hỏi sao lại không vui. Hắn lập tức nhờ Lan Á chỉ

dẫn. Lan Á dĩ nhiên đáp ứng hắn, nhưng toán học của người Hồi đúng là

rất độc đáo. Để hiểu biết học vấn tinh thâm của người Hồi, trước tiên

Lương Tiêu phải học chữ Hồi. Hắn tuy thông minh, nhưng học một ngôn ngữ

của dân tộc khác cũng rất khó, nên chỉ có thể từ từ học mà thôi.



Một ngày nọ, Lan Á dạy toán, ngồi bên sa bàn viết đề bằng chữ Hồi; bên tả

nàng ra đề "Kim tự tháp bút toán", còn bên hữu là đề "Ni la hà (sông

Nile – ND) điền mẫu trượng lượng". Đề trước hỏi đến thể tích của đất và

đá xây kim tự tháp (tính bằng hình học không gian - TG), đề sau lại hỏi

về diện tích khai khẩn bên sông Nile. Hai đề này vốn có nguồn gốc từ

hình học cổ điển Euclid. Lan Á để Lương Tiêu dịch đề rồi đưa ra cách

giải.



Lương Tiêu nếu theo toán thuật Trung Thổ vốn có thể dễ dàng giải ra, chỉ là thông dịch thập phần gian khổ; nhưng hắn lại muốn dùng

toán pháp của Hy Lạp nên nghĩ đến nhức cả đầu. Cách giải của Hy Lạp thật ra thì rất khác với Trung Thổ. Cách giải của Trung Thổ thì khá nhũng

tạp, trong khi cách giải của Hy Lạp thì hướng đến sự đơn giản, tinh tế,

lí luận chuẩn mật. Cho nên Lan Á nhận xét rằng:



- Phương pháp của Trung Thổ, tựa như minh châu chuỗi ngọc, làm cho người ta thấy hoa mắt; còn phương pháp của Hy Lạp không có vẻ châu ngọc, có thể không đẹp đẽ

như của Trung Thổ, nhưng từng hạt, từng hạt đều được đặt ở những vị trí

thích đáng nhất.



Nàng nói thì dễ, nhưng Lương Tiêu đã phải bỏ hơn mười ngày, mới có thể nắm được yếu quyết của toán học Hy Lạp. Đó là hắn thông minh tuyệt đỉnh mà còn gian nan như thế, chứ nếu gặp phải người

khác, chỉ sợ còn gian nan hơn nhiều.



Lương Tiêu ước tính và giải bài "Kim Tự Tháp bút toán", cả kinh nói:



- Cái tháp này to lớn vô cùng, nó dùng để làm gì thế?



Lan Á nói:



- Nó là lăng mộ của vua Ai Cập.



Rồi nhân tiện nàng kể về phong thổ cũng như con người Ai Cập. A Tuyết đang

ngồi bên cạnh vẻ chán nản, đột nhiên nghe Lan Á nói đến thú sự (sự việc

hấp dẫn – BT) liền trở nên hoan hỉ. Những khi Lan Á ngừng nói, nàng hỏi

liên thanh: "Còn gì nữa không? Còn gì nữa không?"



Đợi cho Lan Á nói xong, Lương Tiêu tưởng tượng ra phong cảnh, con người của nước ấy, không khỏi than rằng:



- Dùng hết ngàn vạn nhân công, chỉ để xây dựng mộ phần cho một người.

Thật vua Ai Cập so với Tần Thủy Hoàng Đế của Trung Thổ chúng ta cũng

chẳng khác gì!



A Tuyết cười nói:



- Ca ca, đợi ca ca đánh

trận, báo thù xong, chúng ta qua Ai Cập được không? Đến Kim Tự Tháp mà


Lữ Đức mừng rỡ, cho rằng kế này thế là hoàn hảo.



Lương Tiêu thấy đê đắp đã xong, liền hiệu lệnh cho quân Nguyên, đem một trăm

khúc gỗ tròn nhọn đẩy xuống nước. Mỗi khúc gỗ tròn dùng da trâu buộc mấy trăm tảng đá lớn, đến nỗi gỗ tròn không thể nào nổi lên mặt nước được,

chỉ có cách chìm xuống đáy nước. Sau đó gỗ tròn nhao nhao theo dòng trôi đi, đến cửa lồng gỗ muốn qua không được, cứ xô tới xô lui. Lương Tiêu

lại lệnh cho chúng quân kéo chiếc lồng lên, thả cho nước trôi ra. Đột

ngột, mấy trăm cây gỗ lớn theo dòng nước lao ra, sau đó dần dần tản ra,

chìm trong những con sóng mạnh mẽ, xông thẳng đến hạ du.



Trong

lúc đó, Tống quân kéo trâu ngựa, phụng mệnh ở trên phù kiều trấn thủ,

nhìn ra xa thấy dòng nước lớn tràn tới, nổi lòng tức giận người Nguyên,

lần lượt cởi áo, nghênh đón dòng nước, hét lên một cách thống khoái. Ai

ngờ cầu gỗ chấn động dữ dội, dưới nước đột nhiên truyền tới những nhiều

tiếng ầm ấm, tựa như có cây cột gỗ sụp đổ. Không đợi chúng nhân bình

tĩnh lại, một trăm cây trụ nâng đỡ phù kiều đã đổ mất một nửa, phù kiều

sụp xuống, người Tống rơi tòm xuống nước.



Trên thành tướng Tống

trố mắt há mồm. Tính toán trăm mưu ngàn kế, nhưng tuyệt không thể ngờ

tới Lương Tiêu khổ sở tích nước, chính là muốn mượn thế nước dẫn đẩy

những cây gỗ tròn, tránh khỏi Ngư Võng trận, từ dưới mặt sông mà xô hủy

cây chống của phù kiều. Chưa kịp nghĩ đến đối sách, Lương Tiêu lại một

lần nữa tích nước, thả nước, đợt cây gỗ lần thứ hai lại trôi tới. Lần

này, phù kiều cây trụ đều đã bị hủy hết, chỉ còn lại mặt cầu bên trên,

bị dòng nước xoáy cuốn vào, trôi xuống hạ du.



Hơn mười vạn quân

Nguyên hoan hô không dứt. Bá Nhan và chúng tướng đứng bên cạnh chỗ lồng

nước, xem đến đây, khó nhịn được niềm vui điên cuồng, bèn hét to:



- Lương Tiêu, ngươi làm rất tốt! Ngươi muốn được thưởng gì? Cứ việc nói đi!



Chúng tướng nhìn Lương Tiêu, trong lòng lo sợ, lại cảm thấy đố kỵ, sợ hắn lại đòi thăng quan tấn tước. Nếu phải để cái tên tiểu tử non kém này cùng

mình đứng ngồi ngang hàng, thì thật khó chịu vạn phần.



Lương Tiêu từ trong ngực lấy ra một trang giấy, đưa cho Bá Nhan:



- Dược liệu trên giấy này, Nguyên Soái có thể vì tôi cung cấp các vị thuốc này chừng nửa năm không?



Chứng tướng vừa nghe, đều hết sức ngạc nhiên. Bá Nhan tiếp tờ giấy quét mắt qua, vô cùng buồn bã:



- Việc này ngươi cứ cầu xin riêng với ta, ta tiện tay làm là được, hà tất phải lấy làm phần thưởng?



Cau mày lại, hắn lại hỏi lần nữa:



- Chỉ thế này thôi hả?



Lương Tiêu nói:



- Chỉ có thế.



Bá Nhan ngấm ngầm thở dài, quay lại bảo thân binh đem giao cho y quan, hỏa tốc bốc thuốc. Lương Tiêu nghĩ tới A Tuyết có thể xóa được các vết sẹo

trên thân thể, khôi phục làn da trong ngọc trắng ngà ngày xưa, trong

lòng có một niềm vui khôn tả, không thể nói nên lời.



Lúc này Bá Nhan mục quang như điện, quét nhìn chư tướng, dõng dạc nói:



- Hôm nay phù kiều đã phá xong, hai thành đã bị cách ly. Phàn Thành thấp

nhỏ, binh cô, thế yếu, chỉ cần Phàn thành bị phá thì Tương Dương sẽ lập

tức trở thành một thành trì cô độc, mau chóng bị hạ. Trừ Lương Tiêu,

chúng tướng hãy quay về vị trí, lập tức thống lĩnh quân đội tiến vào vây Phàn Thành.



Chúng tướng nghe lệnh, nhao nhao tỏa đi. Bá Nhan hướng tới Trát Mã Lỗ Đinh hỏi:



- Hồi Hồi pháo(2) làm xong chưa?



- Đã xong hai pháo, hai ngày sau là có thể dùng được.



Bá Nhan cười dài:



- Đất trời trường tồn bảo hộ Đại Nguyên ta rồi! Thưởng cho ngươi hai trăm lạng vàng. Ngươi dẫn người đem pháo vận chuyển đến Phàn Thành, bắn vào

tường thành, đánh cho nó nát vụn ra.



Trát Mã Lỗ Đinh ứng thanh, vội vã đi ngay.



Bá Nhan ngoảnh đầu lại, cười bảo Lương Tiêu:



- Ta đoán, quân Tống không còn phù kiều, Lữ Đức nhất định sẽ điều thủy sư sang cứu viện Phàn Thành. Tuy chậm hơn một chút, nhưng cũng không dễ

đối phó. Ngươi có cách nào không?



Lương Tiêu trầm ngâm nói:



- Nếu muốn thuyền chiến vận chuyển , thì phải gỡ các lưới đánh cá, nếu không thuyền không thể chèo được.



Bá Nhan hiểu ý:



- Hảo, ta phái ba ngàn người, luân phiên chặt cây gỗ, nếu còn không đủ,

lại cho ngươi năm ngàn người và súc vật. Hãy nhớ, phải làm đứt sự tương

trợ của hai thành.



Lương Tiêu đáp ứng nhận lệnh.



Một lát

sau, tiếng pháo hiệu vang lên, quân lính bắt đầu áp sát Phàn Thành. Bá

Nhan xuống khỏi đê, nhảy lên ngựa, đích thân chỉ huy.



Quả nhiên,

khi thấy Phàn Thành gặp hiểm nguy, Lữ Đức hỏa tốc gỡ lưới, điều thủy sư

chở binh sĩ cứu viện. Vân Thù hiến kế bỏ neo thuyền, dùng xích sắt nối

lại, tự tạo thành phù kiều. Lữ Đức lập tức làm theo, điều động một trăm

thuyền nối thành một chuỗi, nối liền hai thành.



Lương Tiêu thấy

lưới đánh cá đã được gỡ, lập tức hạ lệnh bỏ đi các khối đá buộc, các cây gỗ tròn lần lượt nổi lên mặt nước. Quách Thủ Kính nhấc lồng thả nước,

sóng mạnh lập tức mang theo gỗ tròn xông thẳng xuống, khiến đáy các

thuyền chiến của Tống quân bị đánh nát từng chiếc, từng chiếc một. Nhất

thời nước sông tràn vào, chiến hạm của quân Tống tổn thất nhiều không

sao kể xiết.



Lữ Đức và Vân Thù hoảng kinh thất sắc, vội ra lệnh

cho thủy quân kéo lưới đánh cá ngăn sông. Lương Tiêu không để cho họ có

thời cơ giăng lưới, không ngừng điều gỗ tròn đến, phóng thẳng xuống

dưới, quét hết thủy sư Tống. Chỉ một ngày ra công phu, tàu lớn thuyền

nhỏ của quân Tống bị cọc gỗ đánh chìm vô số, bị bức lui xuống hạ du.



Trương Hoằng Phạm thừa cơ ngược dòng công kích, Tống quân thủy sư đằng trước

có cọc gỗ, đằng sau lại bị pháo bắn, không nghĩ ra được cách gì, nhất

thời nhốn nháo chạy trốn, lại sau một đêm kịch chiến, thủy sư quân Tống

hoàn toàn bị đánh tan, tàu thuyền tan tác khắp Hán Thủy. Từ đó, Tương

Phàn hai thành không thể tương hỗ cho nhau, trở thành cô lập.





Nhan đích thân đốc trận, quân Nguyên không phân ngày đêm, tấn công Phàn

Thành. Quân phòng thủ Tương Dương hữu tâm vô lực, lại khó cứu viện. Mấy

mươi vạn quân dân thành Tương Dương nhìn sang Phàn Thành, tiếng khóc

chấn động trời đất. Lữ Đức gặp phải thất bại to lớn, bi thống vô cùng,

nhưng thân làm chủ soái, chỉ còn cách gạt lệ nhẫn chịu, cùng Vân Thù

thương nghị một lúc, quyết ý phái mấy tên lính thông thạo thủy tính, lén vượt qua Dĩnh Châu, tiến về triều đình cầu viện.



Ba ngày sau,

Hồi Hồi pháo được vận chuyển qua sông Hán Thủy, lắp đặt bên ngoài tường

thành của Phàn Thành, cách thành lâu khỏang một ngàn bộ. Lương Tiêu

trông ra xa, chỉ thấy cỗ pháo cao chín trượng, dài mười trượng, trong có trụ quay, trước ngắn sau dài, trước dùng xích sắt treo đến mấy vạn cân

cư thạch, sau có răng cưa lớn nhỏ mấy chục cái. Hơn mười mấy người nắm

lấy chuôi, mượn sức răng cưa, mới đem những hòn đá buộc lại, để đuôi

pháo trễ xuống, lắp lên hơn mười tảng cự thạch.



Trong sát na,

Trát Mã Lỗ Đinh một tiếng ra lệnh, chúng nhân đồng thời thả tay, xích

sắt vội thu lại, tiếng như sấm nổ. Lương Tiêu ở ngoài mấy dặm, vẫn có

thể nghe thấy rõ, chỉ thấy trăm cân đá trầm xuống, ba trăm cân đá thì

lại bay lên cao, rơi xuống đầu thành Phàn Thành. Đúng lúc đá rơi, quân

Tống liền trông thấy một chuyện đáng sợ nhất trong đời. Tiễu lâu nguy

nga chỉ trong nháy mắt nát vụn, mấy chục tên lính Tống bị đá đè nát nhừ. Nhất thời, tiếng rung chuyển, tiếng la thảm, tiếng thốt kinh hãi hòa

lẫn vào nhau trên đầu thành.



Hai cỗ pháo Hồi Hồi từ mặt đông luân phiên bắn vào Phàn Thành. Trên thành lâu, tất cả đều tan nát, không ai

còn đứng được. Tướng lĩnh Tống dẫn bộ và kỵ binh đánh ra ngoài thành,

muốn hủy hoaị cỗ pháo, nhưng quân Nguyên đã đề phòng trước hai bên xông

vào huyết chiến, quân Tống ít, không địch được nhiều, phải lùi vào

thành. Quân Nguyên thấy quân Tống không đủ lực để chống trả, liền đưa cỗ pháo thêm năm trăm bộ vào gần chân thành, đá tảng bắn thẳng vào trong

thành, tiếng động như sấm nổ mưa rơi.



Tấn công dữ dội như thế

suốt nửa tháng, Phàn Thành chống trả ngày càng yếu ớt. Quân Nguyên thừa

thắng lắp vân thê đột nhập vào ngoại vi Phàn Thành. Tám ngàn quân phòng

thủ phải lùi vào nội thành. A Lý Hải Nha và Lưu Chỉnh cùng lĩnh đại quân bao vây nội thành.



Lúc này, Lâm An nghe tin Tương - Phàn bị cắt

đứt sự tương trợ, vô cùng khiếp đảm. Giả Tự Đạo vội điều mười vạn lục

quân và mười vạn thủy quân, lệnh cho Hạ Quý và Phạm Văn Hổ dẫn quân lại

cứu viện Tương - Phàn. Bá Nhan nghe được tin tức từ gián điệp bên Đại

Tống, thấy thủy sư đã bị phá, bèn gọi Lương Tiêu về, lệnh cho Khâm Sát

quân trấn giữ Bách Trượng sơn, cản đường Phạm Văn Hổ, lại ra lệnh cho A

Thuật, Sử Thiên Trạch dùng thủy sư phong tỏa thủy đạo bốn mặt, cản trở

Hạ Quý.



Hơn mười ngày sau, Phạm Văn Hổ dẫn mười vạn kỵ binh đến

gần Bách Trượng sơn. Hắn vốn hèn nhát, lại không muốn đến cứu viện, đến

đây chỉ là ra vẻ để sau này báo cáo với triều đình. Tống binh lập tức hạ trại quan sát, cách Tương Phàn năm mươi dặm. Không ngờ Lương Tiêu đã

nhận được tin mật báo, dẫn thẳng Khâm Sát quân đến công kích trong đêm.

Phạm Văn Hổ lúc này chưa ổn định được doanh trại, vừa bị tấn công đã

thất bại. Khâm Sát quân tung hoành trong trận, đánh giết mười vạn quân

Tống dữ dội, làm máu chảy thành sông. Phạm Văn Hổ thu thập bại binh hốt

hoảng rút về Dĩnh Thành.



Lương Tiêu phán đoán tình hình, quyết

định thừa thắng truy đuổi, ra lệnh cho Thổ Thổ Cáp dẫn năm trăm người về trấn giữ Bách Trượng sơn, còn chính hắn thì dẫn hơn một ngàn tinh kỵ

Khâm Sát, mỗi người dắt theo hai ngựa, tên bắn năm mươi túi, ba ngày hai đêm, ngựa không rời yên, giáp không cởi bỏ, vượt núi băng đèo chém giết liên tục, tiến lui như quỷ thần, không sao nắm bắt được. Mười vạn quân

Tống bị hơn một nghìn quân Khâm Sát đánh tan, hầu như toàn quân đều bị

tiêu diệt. Phạm Văn Hổ mặc giả nông dân, ẩn trốn trong núi mới thoát

chết. Số binh sĩ chạy được về Dĩnh Châu còn chưa tới một trăm. Trước

cảnh thất bại thê thảm ấy, lực lượng trấn thủ Dĩnh Châu đều ớn lạnh.



Lương Tiêu dẫn quân đuổi tới chân thành Dĩnh Châu, quân Tống đóng chặt cửa,

chĩa cung nỏ xuống, im lìm lập trận chờ đợi. Lương Tiêu thấy vậy, lại

thêm quân mình đã mệt mỏi, bèn giục ngựa quay về. Tướng Tống là Trương

Thế Kiệt thấy trận thế như vậy, cảm thấy có cơ hội thủ thắng, bèn mở

cổng thành đuổi đánh, nhưng sợ quân Khâm Sát kiêu dũng, bèn đặc phái đến bốn ngàn tinh kỵ, hai ngàn đuổi đằng sau, hai ngàn đánh úp hai cánh.



Lương Tiêu bèn dẫn quân chạy về phía bắc. Quân Tống đeo bám không rời. Quân

Khâm Sát đã mấy lần quay lại chực giao chiến, khổ nỗi ít không chọi được nhiều, dần dần có dấu hiệu tan rã. Mãi cho đến khi cách xa bình nguyên

Dĩnh thành, quân Tống cuối cùng cũng đuổi tới nơi. Tống quân vừa tấn

công là quân Khâm Sát chia làm bốn đội, bỏ chạy tứ tán. Quân Tống xé lẻ

truy sát, vô tình làm hỏng trận thế, lúc này Lương Tiêu bèn quay lại rúc tù và, tướng sĩ Khâm Sát vừa phóng điên cuồng vừa đổi ngựa, từ bốn

hướng phản kích vào, trận thế Lục Hoa bắt đầu chuyển động, tên bắn như

gió táp mưa sa. Ngay tức khắc, bốn ngàn kỵ binh Tống rối loạn, xác

người, xác ngựa la liệt khắp núi đồi.



Trương Thế Kiệt đứng trên

đầu thành nhìn ra xa, kinh hãi vô cùng, gấp rút dẫn đại quân ra khỏi

thành cứu viện. Nào ngờ quân Khâm Sát vẫn rất khí thế. Lương Tiêu vung

roi chỉ, đoàn quân đang trở về bèn xông tới tiếp viện, vừa phi thật

nhanh, vừa theo hiệu lệnh của Lương Tiêu. Quân Khâm Sát chia ra làm các

Lục Hoa trận, sáu tiểu trận kết thành một trung trận, sáu trung trận kết thành một đại trận, đại trận kết thành hình mũi kiếm vươn dài, như một

thanh trường kiếm sắc bén, xuyên suốt trung quân Tống dễ như trở bàn

tay, ra vào như chốn không người. Toàn thể quân Tống thua chạy tan tác,

Trương Thế Kiệt chỉ dẫn được một nhóm sống sót chừng ba ngàn người chạy

về Dĩnh Châu.



Đến đây, Lương Tiêu khua roi thu binh, chỉ thấy năm nghìn túi tên sắp cạn, người ngựa tuy vẫn khỏe mạnh nhưng biết thực

chất đều đã mệt mỏi vô cùng, khó mà đánh tiếp được nữa. Hắn lập tức hạ

lệnh thu binh, trở về đại doanh ở Bách Trượng sơn. Trương Thế Kiệt là

danh tướng đương thời nhưng mới hai trận đã tổn thất nghiêm trọng, đành

trợn mắt nhìn quân địch mệt mỏi chậm rãi rời đi, mà không dám phái thêm

một binh một tốt nào truy đuổi. Sau trận chiến này, quân Tống tổn thất

năm vạn, uy thế của đám “Hoàng Mao Quỷ” chấn động Đại Tống đến độ trên

Hán Giang một dải, dân chúng thường đem Mao quỷ ra để dọa cho trẻ con

nín khóc quấy ban đêm.



Tống tướng Hạ Quý nghe tin bộ binh và kỵ

binh của Phạm Văn Hổ thất bại như thế thì một ngày kinh sợ đến mấy lần.

Hắn trông thấy thủy sư của Trương Hoằng Phạm đến tấn công, chưa bắn một

mũi tên nào đã quay thuyền tháo chạy về Dĩnh Thành, lại thấy thảm trạng

Phạm Văn Hổ, trong lòng nghĩ mình rất là may mắn.



Nửa tháng sau,

quân Nguyên cuối cùng cũng đột nhập được vào Phàn Thành. Đến lúc này,

chiến cuộc giữa hai nước Tống - Nguyên đã duy trì được suốt sáu năm,

Phàn Thành thất thủ, Tương Dương hoàn toàn trở thành một thành trì cô

độc. Cũng trong tháng ấy, triều đình nhà Nguyên hạ chỉ, vì Lương Tiêu

lập được chiến công rực rỡ, lệnh cho làm Khâm Sát quân Tổng Quản. Bá

Nhan lại đưa bốn ngàn tinh kỵ Khâm Sát mới chiêu binh nhập vào Khâm Sát

doanh, đưa tổng số lên bảy ngàn, binh lực mạnh mẽ độc nhất vô nhị.



-------------------------------



Ghi chú:



(1) Đây là 1 trong 2 phương pháp hạ thủy thông dụng cho tàu bè và cả 1 số

kết cấu khác. Cách thứ nhất là dùng mặt nghiêng, trực tiếp đẩy tàu xuống sông/biển. Cách thứ 2 là đào những con kênh nhỏ để đưa nước vào vị trí

đóng tàu (dry-dock), cho tàu nổi lên rồi đẩy dần tàu ra biển/sông. Lương Tiêu dùng cách thứ 2. Cần lưu ý đây là truyện, có những chi tiết kỹ

thuật không thật hòan tòan chính xác.



(2) Hồi Hồi pháo là great catapult mà trong phần chú chương 1, hồi 2, quyển 4 có đề cập tới.