Côn Luân

Chương 47 : Cùng đồ mạt lộ

Ngày đăng: 20:59 22/04/20


Hôm sau, Lương Tiêu cắm cọc cách thành Tương Dương chừng hai ngàn bộ,

đánh dấu vị trí xây đài. Cùng lúc, quân Tống cũng dỡ nhà lấy gỗ, chế tạo giàn nỏ Thiên Cương phá trận thứ ba để tăng uy lực tấn công. Vân Thù

nhìn quân Nguyên lũ lượt chuyển đất đến đắp thì hiểu ngay mục đích của

họ, lập tức cho lính đánh phá, hiềm nỗi hai bên cách nhau đến mấy dặm,

thay đủ mọi loại tên đạn mà nỏ giàn đều không bắn tới nơi. Lương Tiêu

còn phái kỵ binh ra khiêu khích Thiên Cương phá trận nỗ, thử xem cự ly

xa nhất đến đâu thì vẽ vạch trắng ở đó, hễ thấy quân Tống vượt qua vạch

là xáp lại tấn công, còn chưa thì chỉ đối kháng từ xa bằng cung nỏ.



Trong ba ngày hai bên giằng co, pháo đài cũng được cấp tốc hoàn thành, hiện

lên sừng sững trên đồng trống. Đài cao bốn trượng, rộng tám trượng, bên

trên còn dựng thêm một bệ gỗ cao bốn trượng, chỉ sáu trượng nữa là ngang bằng với mặt thành. Trát Mã Lỗ Đinh tháo rời Tương Dương pháo, kéo lên

đài rồi ráp vào như cũ. Khẩu pháo cao mười trượng, lắp đặt xong đã vượt

hẳn bờ tường Tương Dương.



Vân Thù đoán ra ý đồ của quân Nguyên,

vội chạy đi báo Lữ Đức. Họ Lữ hoảng hồn dốc hết lực lượng tấn công,

Lương Tiêu bèn lập trận chống trả. Hai đạo quân hò hét vang lừng. Chiến

binh Khâm Sát dũng mãnh vô song, quân Tống có Vân Thù, Cận Phi và đám

hào kiệt phương nam trợ giúp mà vẫn không sao lay chuyển được trận thế

của họ. Vân Thù định đưa Thiên Cương phá trận nỗ ra ngoài thành, nhưng

giàn nỏ quá kềnh càng, xoay ngang xoay dọc đều không lọt qua cổng. Cấu

tạo của nó lại phức tạp, gá lắp rất tốn thời gian, nếu tháo rời đem

xuống chân thành ráp lại, chẳng may Lương Tiêu dẫn thiết kỵ lao ập tới

như lần trước thì nhất định nỏ sẽ bị phá hủy ngay tại chỗ.



Dưới

đồng hai bên lăn xả vào chém giết, trên đài cao pháo đã chuẩn bị xong.

Tương Dương pháo đối mặt với Tương Dương thành, vị thế hai bên hoàn toàn đảo ngược. Khẩu pháo ung dung chĩa xuống, thay vì phải ngóc lên cao như xưa.



Trát Mã Lỗ Đinh phát lệnh khai hỏa. Quân Nguyên thả một

khúc gỗ nhồi đầy thuốc nổ và phết dày dầu mỡ vào lưới, châm lửa bắn.

Khúc gỗ nhẹ vạch một đường sáng rực trên không, băng qua khoảng cách hai ngàn bộ, lao vù về phía thành Tương Dương. Lửa mạnh bắt dầu cháy rất

nhanh, xuống gần vọng lâu, nó đã ăn qua lớp vỏ gỗ, liếm vào phần thuốc

nổ bên trong. Khúc gỗ kêu “đoành” một tiếng như pháo Tết, vọng lâu bốc

cháy phừng phừng.



Lữ Đức vội vã cứu hỏa, nhưng quân Nguyên liên

tục bắn pháo, cứu chữa không kịp, ngược lại rất đông binh lính bị thương thêm. Chưa đến một canh giờ, mặt thành Tương Dương đã cháy ngùn ngụt

như biển lửa. Ba giàn nỏ Thiên Cương phá trận đều gắn cố định tại chỗ,

không di chuyển ngay được, hứng một đợt pháo hỏng mất hai. Vân Thù liều

chết dỡ giàn cuối cùng xuống, nhưng phần lẫy đã bị cháy, dễ phải mất

nhiều thời gian mới sửa xong.



Pháo kích liên miên mấy ngày, quân

Tống thương vong nặng nề. Khi cỗ pháo thứ hai hoàn thành, Lương Tiêu đưa nó vào gần mục tiêu hơn một ngàn bộ, trong lúc đó cỗ thứ nhất vẫn tiếp

tục oanh tạc, gây sức ép ngăn cản quân Tống lắp lại Thiên Cương. Với sự

bảo vệ của quân Khâm Sát, một đài cao sáu trượng được đắp lên để đặt cỗ

pháo mới.



Pháo mới lắp xong liền phát huy tác dụng cao độ. Hàng

trăm cân đá tảng cứ tạt thẳng vào thành Tương Dương như sét đánh. Đã mấy lần Vân Thù dẫn bọn hào kiệt phương nam lao ra khỏi thành toan cướp

pháo, song phương huyết chiến đến hơn chục trận, nhưng quân Tống mỗi

đánh mỗi bại, không tài nào địch nổi thiết kỵ Khâm Sát.



Trước sự

chống trả ngoan cường của đối phương, Lương Tiêu quyết định phải dùng

biện pháp cứng rắn hơn. Gã cho thợ mộc đẽo những con lăn thật to, khoét

rỗng ruột, nhồi đầy thuốc nổ, châm lửa xong bắn vào thành. Thứ đạn bắn

này gọi là Mộc phích lịch[1], hễ phát nổ là hủy diệt hoàn toàn sự sống

trong phạm vi ba mẫu xung quanh, uy lực khủng khiếp gấp nhiều lần Chấn

thiên lôi của quân Tống.



Sau hai ngày đêm tấn công dai dẳng, sáng tinh mơ ngày thứ ba, một phát Mộc phích lịch bắn trúng kho hỏa khí của

Tương Dương, đâm thủng mái kho, dẫn nổ toàn bộ quân dụng bên trong.

Những tiếng nổ đinh tai nhức óc làm rung chuyển cả thành trì, phá nát

mọi vật xung quanh, gây chấn động đến hơn trăm dặm. Lửa được thế gió mau chóng lan rộng, cháy rừng rực khắp thành Tương Dương.



Kho hỏa

khí cháy rụi hoàn toàn, kho lương thảo bị thiêu hủy gần hết. Hơn một vạn dân chúng mất nhà mất cửa, rơi vào cảnh ăn gió nằm sương, khóc gào náo

loạn. Quân Nguyên thừa thế từ hai hướng tây và nam tiến công Tương

Dương, quân Tống chật vật chống cự. May thay, khi bộ binh Nguyên triều

sắp leo được lên mặt thành thì Vân Thù đã sửa xong Thiên Cương phá trận

nỗ, vừa kịp đem bắn cản bước kẻ thù. Lúc này Dĩnh thành mới nhận được

tin khẩn của Tương Dương, Trương Thế Kiệt vội tiến quân cứu viện, nhưng

bị A Truật đánh lui hết lần này đến lần khác. Tương Dương lâm vào cảnh

ngộ tuyệt vọng hoàn toàn.



Từ lúc thi hành biện pháp mạnh, Lương

Tiêu vẫn áy náy không yên. Sau hôm tiêu diệt được kho hỏa khí, nghe

tiếng dân chúng khóc than nháo nhác, gã đâm chột dạ, hạ lệnh ngừng dùng

Mộc phích lịch, chỉ nạp đá tảng bình thường bắn lên đầu thành. Khổ chiến dằng dai như thế, Tương Dương tiếp tục cầm cự được thêm một tháng.



.



Mùa đông rét mướt tràn tới, thời tiết mỗi ngày một lạnh, tuyết đổ lấp xấp,

bay phiêu phất trên đất Tương Phàn. Chỉ sau mấy đêm, không gian đã nhuộm một màu trắng toát. Bị cướp đi mái ấm che thân cũng như lương thực thực phẩm, vô số người chết vì đói, vì rét, nhiều người may mắn sống sót thì nghĩ quẩn, bắt đầu vật các xác chết ra nấu ăn.



Lương Tiêu đánh

mãi không hạ được thành, thường băn khoăn tự hỏi không hiểu Tương Dương

còn sức mạnh bí mật gì mà vẫn khăng khăng chống cự. Một hôm, gã trèo lên đỉnh pháo nhìn sang quan sát tình hình, chợt chứng kiến hành động rùng

rợn đó thì choáng váng như bị sét đánh. Từ lúc hạ quyết tâm công phá tòa thành hòng bắt giết Vân Thù, gã chưa bao giờ ngờ rằng mình sẽ gián tiếp tạo nên một thảm cảnh như vậy. Nhất thời, Lương Tiêu đứng chết trân

trên đỉnh pháo, vừa ăn năn vừa căm hờn, đồng thời không lý giải nổi vì

sao đã đến nước này mà quân Tống còn ngoan cố tử thủ không hàng. Thẫn

thờ hồi lâu, gã tụt xuống khỏi pháo đài, cưỡi ngựa đến gặp Bá Nhan,

thỉnh cầu chiêu hàng Lữ Đức.



Bá Nhan nghe Lương Tiêu thuật lại,

suy nghĩ một thoáng rồi triệu các tướng vào trướng thương nghị. Lưu

Chỉnh vẫn ôm mối hận trúng tên hôm trước, cứ điều một điều hai là phải

bắn tan tành Tương Dương, giết sạch dân chúng mới hả dạ. Đa số tướng

lĩnh chôn chân ở đất này đã lâu, vất vả đã nhiều, cũng muốn nhân cơ xả

giận nên cùng gật đầu hưởng ứng. Chỉ có Sử Thiên Trạch và A Lý Hải Nha

là không nói một lời, nét mặt nặng nề.



Lương Tiêu thấy mọi người đều tán đồng Lưu Chỉnh thì rất bức xúc, lớn tiếng hỏi:



- Người sống hữu dụng hay là xác chết đây, hả? Đập vỡ bát sứ thì ai chả

làm được, nhưng mấy kẻ biết nặn một cái cho ra hồn? Hủy hoại thành trì

sẽ rất nhanh thôi, nhưng bao lâu mới có thể tái kiến thiết?



Các tướng nghe phân tích hợp lý, tự dưng đắn đo.



Lưu Chỉnh thực ra chỉ nói bừa cho đỡ tức, nào ngờ Lương Tiêu còn trẻ, tính

tình nóng nảy nên phản ứng gay gắt, khiến họ Lưu ngượng quá hóa giận. Y

đường đường là đại tướng, chiến công hiển hách, đời nào cho phép một tên tiểu tử trèo đầu cưỡi cổ mình, bèn sừng sộ mắng ngay:



- Ngươi

thì hiểu cái gì? Hôm nay làm cỏ Tương Dương, ngày mai các thành trì khác đều táng đởm kinh hồn, không ai dám chọc giận đại quân ta nữa. Ngươi

chẳng qua mới nhập ngũ dăm ba bữa, lập được một dúm công lao mà tưởng

mình ghê gớm lắm sao? Hừ, thời lão phu thống lĩnh thiên quân vạn mã đánh đông dẹp bắc, ngươi còn bú tí mẹ kia kìa!



Lương Tiêu cười nhạt:



- Đã nói thì nói rõ hẳn ra, ông thống lĩnh thiên quân vạn mã nào? Tống

hay Nguyên? Ông phản bội Đại Tống thì được, mà người khác đầu hàng

Nguyên triều thì không được hay sao?



Những lời cay độc ấy làm các tướng tái mặt. Bá Nhan quát:



- Lương Tiêu!



Lương Tiêu giật mình, tạm thời ngừng lại. Lưu Chỉnh nhảy nhổm lên như phải bỏng, mặt mày xanh lét.



- Chỉnh này sống nửa đời người, hôm nay mới biết có thứ hậu sinh vừa nứt

mắt mà miệng lưỡi đã đầy nanh nọc! Tre già măng mọc, Lưu mỗ không những

già lại còn vô dụng, đành nhường thiên hạ cho người trẻ tuổi vậy! Mong

Đại Nguyên soái rón tay làm phúc để thuộc hạ được về quê cày ruộng!



Lưu Chỉnh ngoài miệng nói nhún, thực chất đầy ý hăm dọa: “Hoặc là Lưu Chỉnh này đi, hoặc là Lương Tiêu bị phạt. Bá Nhan, ngươi hãy tự chọn đi!”.



Bá Nhan không trả lời thẳng, chỉ gọi:



- Na Tốc!



Một thân binh đáp lời bước ra. Bá Nhan nghiêm nghị nói:



- Lột mũ áo Lương Tiêu, đánh ba trăm hèo thật nặng rồi treo lên cổng doanh thị chúng một ngày.



Na Tốc vâng lệnh, cùng các thân binh khác chạy lên định bắt giữ. Lương Tiêu một tay chống nạnh, quát to:



- Kẻ nào dám?



Đám quân sĩ biết gã kiêu dũng tuyệt luân nên tạm thời chưa dám đến gần. Bá Nhan biến sắc, lừ lừ đứng dậy:



- Ngươi dám chống lệnh ta ư?



Tất cả đều nín thở. Chống lại quân lệnh, chỉ có một con đường chết!



Lương Tiêu cao giọng:



- Tôi chả làm gì sai cả!



A Truật thấy gã quá ương bướng, chỉ sợ tình hình xấu thêm, vội khuyên nhủ:



- Kẻ cưỡng lệnh Nguyên soái sẽ bị chém đầu, không cân nhắc nhiều.



Lương Tiêu vẫn khăng khăng:



- Tôi chả làm gì sai!



A Truật mắng:



- Ngươi ăn nói ngông cuồng, là kẻ dưới mà vô lễ với người trên, chẳng sai thì đúng vào đâu? Đã tòng quân phải trọng kỷ luật. Thổ Thổ Cáp hiểu, Lý Đình cũng hiểu, vậy mà ngươi không hiểu hay sao?



Lương Tiêu nghe giọng A Truật, hiểu ngay điều y ngầm nhắn nhủ. Gã chết là yên phận gã,

nhưng còn A Tuyết và đám bạn bè đang ở trong doanh trại, tất đều bị liên đới.



Lương Tiêu cụp mắt xuống, muôn vàn ý nghĩ quay cuồng trong

đầu, sự hung hăng lúc trước dần dần bay biến cả. Đám thân binh chực tiến lại, gã nghiến răng bảo:



- Để ta tự làm lấy! – Đoạn bỏ mũ cởi giáp, bước ra khỏi trướng.



Binh sĩ ùa lại ấn dúi gã xuống, tiếng gậy vụt đen đét vang lên. Bá Nhan lắng nghe một lúc, chợt cau mày bảo:



- Na Tốc, mạnh tay vào, nếu không sẽ bị xử theo quân pháp!



Quả vậy, Na Tốc biết Bá Nhan và A Truật rất yêu mến Lương Tiêu nên cố ý

nương nhẹ, ngờ đâu Bá Nhan là cao thủ võ học, vừa nghe đã phân biệt ngay thực giả. Na Tốc vâng lời, đành toàn lực nện xuống.



A Truật nghe tiếng gậy nặng hẳn, chỉ sợ Lương Tiêu có bề gì, vội van nài:



- Bẩm thừa tướng, bây giờ Tương Dương chưa…


Dương kể cũng chưa thỏa đáng, nhưng hắn dụng binh ngu muội, triều đình

lại u mê, chẳng lần nào viện binh tới nơi, khiến cả hai thành bị vây

hãm, Lữ Đức bị cô lập, chỉ biết vẫy vùng chiến đấu trong tuyệt vọng. Suy cho cùng Giả Tự Đạo lộng quyền làm loạn triều chính, là kẻ tội phạm đầu sỏ đẩy Tương Phàn vào cảnh khốn đốn, bài thơ không trách Lữ Đức dâng

thành mà trách Giả Tự Đạo hại nước, đủ thấy thế nhân nhìn nhận rất công

bằng.



Đất Tương Phàn xưa rày vẫn được gọi là “xương sống của

thiên hạ”, một vai gánh miền nam, một vai gánh miền bắc, mặt bắc dẫn

sang Hà Nam, mặt tây nối liền Ba Thục, mặt nam áp sát Hồ Quảng, mặt đông kề cận Giang Hoài. Từ cổ chí kim, trận khởi đầu của các cuộc nam bắc

tương tranh đều diễn ra ở đây. Tương Phàn thất thủ làm đứt đoạn hàng

phòng ngự biên giới, đất đai trăm dặm vùng Giang Hán tự nhiên phơi ra

trước mũi tấn công của quân Nguyên.



.



Tuyết chảy băng tan, trời dần dần ấm lên. Năm thứ mười một nhà Nguyên, tương đương năm Hàm

Thuần thứ mười ba theo lịch Tống, Hốt Tất Liệt truyền chỉ chinh thảo

miền nam. Tháng ba năm ấy, Sử Thiên Trạch đi tuần doanh trại ban đêm bị

cảm hàn, từ đó đổ bệnh nặng. Họ Sử tuổi tác đã cao, khí huyết suy nhược, nằm li bì hai ngày một đêm thì nhắm mắt xuôi tay. Bá Nhan và các tướng

đến tế vọng, an ủi gia quyến.



Viếng xong, Lương Tiêu theo mọi

người rời Sử phủ, trong lòng rầu rĩ: “Sử Thiên Trạch công toại danh

thành là thế, chết đi cũng chỉ hai bàn tay trắng. Thổ Thổ Cáp và Lý Đình đang hăm hở gây dựng sự nghiệp, nhưng một mai lìa đời, liệu có mang

công danh theo mình được không?”. Đang mải trầm tư, chợt nghe Bá Nhan

gọi:



- Lương Tiêu!



Lương Tiêu ngước mắt nhìn. Cặp mắt uy nghiêm của Bá Nhan xoáy vào mặt gã:



- Cậu lại đây với ta!



Y giật mạnh cương, tế ngựa chạy thẳng ra cổng thành. Lương Tiêu không hiểu ra sao, liền vội vàng thúc ngựa chạy theo.



Bên ngoài thành là đồng ruộng bao la, nhưng chỉ lơ thơ vài nông dân bộ dạng lam lũ đang chậm chạp bước trên luống cày. Mười năm đại chiến Tương

Phàn, nhà cửa ruộng vườn quanh vùng bị bỏ hoang, hàng vạn mẫu đất tốt

đều biến thành chiến trường.



Đột nhiên, một con thỏ rừng nhảy

phóc ra khỏi bụi cây, tung bốn chân chạy như bay, một con sói vàng cong

đuôi đuổi theo, thình lình nhún móng trước xuống đất, bắn mình lên chụp

lấy đầu con thỏ. Đúng lúc này, một mũi tên rít gió lao tới, cắm phập vào cổ con sói, đâm xuyên xuống cả lưng thỏ.



Bá Nhan bắn xong thở

dài, định hạ cung, chợt nghe gió đưa tiếng nhạn kêu trong trẻo, y lại

nghiêng người giương cung. Một bầy nhạn xếp thành mũi nhọn bay về phương bắc. Bá Nhan kéo cung hồi lâu nhưng không phát tên, đăm đăm nhìn đàn

chim bay đi xa, chùng tay thở dài:



- Cậu bắn chim ưng bao giờ chưa?



Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan cười:



- Tế ngựa hăng chạy lồng đại mạc, Giương cung bắn tan tác chim muông.

Cuộc sống ấy thực là thống khoái! Hiềm nỗi chưa diệt Tống thì chưa trở

về bắc được. Không biết đánh trận bao giờ mới xong?



Lương Tiêu lúc này mới hiểu ban nãy Bá Nhan giương cung mà không bắn là vì chạnh lòng nhớ quê hương. Gã chợt xót xa:



- Thế thì đừng đánh nữa. – Vừa dứt lời, chợt cảm thấy không ổn chút nào, lại tự vấn: “Không đánh thì làm sao trả thù được đây?”.



Bá Nhan liếc mắt nhìn gã, cười hỏi:



- Lần trước ta hạ lệnh phạt cậu, còn giận ta không?



Lương Tiêu nhíu mày im lặng, Bá Nhan biết gã vẫn ấm ức chưa nguôi, bèn cười ha hả:



- Thôi, đều tại ta không tốt, nhưng cậu là tiểu tướng mà xúc phạm đại

tướng, cũng quá đáng lắm. Lúc đó chỉ có hai lựa chọn, một là xử phạt,

hai là xử trảm, đành chọn cách ít tổn thất nhất, nên để cậu phải chịu ấm ức.



Lương Tiêu nghe phân tích hợp tình hợp lý, cũng nguôi nguôi giận. Bá Nhan chợt trỏ roi về một tòa miếu cổ:



- Lại kia xem đi!



Khi tới gần, họ thấy tường miếu đã đổ nát, cổng vào có dựng một tấm bia. Bá Nhan xuống ngựa, cho tả hữu lui ra sau, xoa xoa mặt bia, im lặng trầm

ngâm. Tấm bia chạm chi chít chữ, lốm đốm bạc màu, dựng trên lưng một con rùa đá mòn, chừng như niên đại xa xưa lắm rồi.



Bá Nhan chợt hỏi bằng tiếng Hán:



- Cậu biết lai lịch của tấm bia này không?



Lương Tiêu lắc đầu. Bá Nhan trỏ tòa miếu đất trước mặt:



- Đây là miếu Dương Thái phó, nơi thờ Dương Cổ nhà Tấn. Dương Cổ là danh

tướng người Hán. Họ Tư Mã diệt Đông Ngô và thống nhất ba nước đều xuất

phát từ gợi ý của ông ta. Đáng tiếc, người này soạn kế diệt Đông Ngô mà

không sống được tới ngày bình định thiên hạ, thuở sinh tiền đã mấy lần

dâng biểu phạt Ngô nhưng đều bị hoàng đế bác đi, ông ta không thỏa tráng chí, mỗi khi nhìn về phương nam đều sa lệ, vì vậy tấm bia này còn gọi

là Đọa lệ bi[3]. – Y nhìn Lương Tiêu, nghiêm chỉnh hỏi. – Cậu có biết vì sao trên đời cứ luôn xảy ra chiến tranh không?



Lương Tiêu thần người, cuối cùng thành thật đáp:



- Tôi không biết!



- Đơn giản lắm, cứ nhiều nước cùng tồn tại là sinh chiến sự.



- Nhiều nước cùng tồn tại ư?



Bá Nhan mỉm cười:



- Nhớ năm xưa, các bộ lạc Mông Cổ phân tranh, binh lửa ngùn ngụt ngàn năm không dứt. Mãi cho đến khi Thái Tổ xuất thế, bằng sự anh minh trời phú, cơ trí mưu lược, người đã khắc phục muôn vàn gian khổ, đầu tiên thống

nhất Mông Cổ, chấm dứt nội chiến, sau đó mở rộng phạm vi chinh phạt.

Chắc cậu cũng biết người Hán đánh nhau dữ dội nhất vào thời các chư hầu

cát cứ, trước tiên là Xuân Thu Chiến Quốc, kế đến Tam Quốc Lưỡng Tần,

sau thời Đường thì các triều đại thay nhau trị vì nhanh như thay áo, hết Ngũ đại thập quốc đến Tống Liêu giao phong, kế tiếp là chiến tranh giữa năm nước Tống, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn, chém giết vô cùng thê

thảm. Hiện tại, Kim, Tây Hạ, Đại Lý và Thổ Phồn đều đã bị diệt, nhưng

Tống Nguyên còn đang tranh hùng. Bốn trăm năm qua liên tục loạn lạc,

chưa từng có một ngày bình yên.



Lương Tiêu không kìm được hỏi:



- Tức là phải thống nhất toàn bộ thiên hạ thì mới chấm dứt được chiến tranh?



- Đúng thế! Từ cổ chí kim, những người có chí cứ thích chọc trời khuấy

nước, nhưng thực chất, tứ hải một nhà mới đem lại thái bình cho thiên

hạ. Dương Cổ rơi lệ không phải vì vinh nhục cá nhân mà vì dân chúng cả

nước! Đại Tống hiện nay cũng tương tự Đông Ngô thuở nào, chưa diệt được

nó thì chiến tranh giữa hai miền nam bắc còn dai dẳng mãi, và hứng chịu

tổn thất trước tiên chính là bách tính đôi bên.



Lương Tiêu cau mày:



- Vì sao phải giết? Vì sao phải đánh? Hòa hảo chẳng tốt hơn ư?



Bá Nhan xua tay:



- Cá lớn nuốt cá bé, ấy là lẽ thường tình ở đời! Cậu đã thấy hổ nào không ăn thịt dê chưa? Dẫu chúng ta để yên cho người Hán, khi họ mạnh lên

chắc gì đã tha chúng ta? Tướng Hán là Hoắc Khứ Bệnh từng nói: “Hung Nô

chưa diệt, chuyện nhà đáng chi?”. Đại Hán hùng cường, kéo lên bắc tiêu

diệt Hung Nô. Đại Đường hưng thịnh, cất quân chinh phạt Đột Quyết, làm

cỏ Cao Ly. Ngay thời Tống đây, chẳng phải Thái Tông cũng đã từng tấn

công Khiết Đan đấy ư? Chỉ tội hắn không tự lượng sức, đánh không lại

người ta mà thôi.



Lương Tiêu băn khoăn:



- Tóm lại là, hễ lắm quốc gia tất chia mạnh yếu, đã có mạnh yếu tất sinh chiến tranh ư?



Bá Nhan không trả lời thẳng vào câu hỏi của gã, nói lảng sang chuyện khác:



- Nghe nói bạn cậu mất.



Lương Tiêu dàu dàu gật đầu. Bá Nhan thở dài:



- Cậu là người trọng tình cảm, cũng tốt. Nhưng tính mệnh một cá nhân so

với tính mệnh ức vạn dân lành thì bên nào nặng bên nào nhẹ?



Lương Tiêu ngẩn người. Bá Nhan bước mấy bước, vụt xoay phắt lại nói to:



- Cuộc đời lắm nỗi đoạn trường, đường đường một đấng nam nhi thân cao

bảy thước, nếu giương cánh cung cứng, cưỡi ngựa khỏe bình định thiên hạ

thì ngàn năm nữa vẫn còn tiếng thơm lưu truyền. Nếu vì cái chết của một

cá nhân mà suốt ngày đau đớn, sụt sùi khóc than rền rĩ thì thử hỏi chỉ

trăm năm sau thôi, còn ai nhớ đến Lương Tiêu nữa? – Y trỏ đám nông dân. – Thế thì có khác gì đám thôn phu thô kệch kia đâu?



Lương Tiêu

chưa bao giờ ôm chí lớn, làm việc đều theo cảm hứng nhất thời, hoàn toàn hững hờ với những lý tưởng như trị quốc bình thiên hạ, nay nghe những

lời này, trong lòng bỗng hoang mang. Bá Nhan càng nói càng sôi nổi:



- Trống da trâu tốt, gõ khẽ là phát ra âm thanh vang rền. Một người thông minh dứt khoát không cần ta phải phân tích quá nhiều. Trong huyết quản

cậu có có dòng máu của Thành Cát Tư Hãn, tài năng cậu khiến người đời đố kỵ. – Y xòe tay, cười nhạt. – Một hàng tướng nhỏ nhoi như Lưu Chỉnh thì đáng kể gì?



Lương Tiêu tuổi còn trẻ, máu nóng đương căng, nghe vậy bật thốt:



- Đại Nguyên soái… – rồi họng nghẹn lại, không thốt nên lời.



Bá Nhan xua tay cười:



- Hiểu là được, không cần phải nói ra. Sử Thiên Trạch đã chết, ta giao binh mã của ông ấy cho cậu. Dám nhận không?



Lương Tiêu đáp ngay không nghĩ ngợi:



- Càng nhiều càng tốt.



Bá Nhan cười mắng:



- Tiểu tử nhà ngươi, đúng là đại ngôn không biết ngượng mồm. – Nghĩ sao y lại đưa mắt nhìn về phương nam, buồn bã thở dài. – Chỉ mong lần này

thống nhất thiên hạ để ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến

tranh nữa.



Lương Tiêu nghe dứt, bỗng rùng mình lẩm bẩm:



- … ngàn năm vạn năm sau vĩnh viễn không còn chiến tranh.



Gã lẩm bẩm câu ấy mấy lần, giọng mỗi lúc một mong mỏi, mắt đăm đăm dõi ra đồng dã nơi xa.



[1] Sấm sét gỗ.



[2] Trích bài thơ Kỷ Hợi tuế nhị thủ của Tào Tùng thời Đường.



[3] Bia rơi lệ.