Côn Luân
Chương 49 : Xà khiếu tước lai
Ngày đăng: 20:59 22/04/20
Lương Tiêu chạy một mạch, thi thoảng bắt gặp dấu vết hai người để lại,
cây gãy đá nát như cuồng phong quét qua. Gã trông thấy mà kinh hoàng, tự nhủ cho dù tìm được Tiêu Thiên Tuyệt chắc mình cũng mất mạng. Ý nghĩ
khiến gã bi phẫn vô cùng, biết rõ chuyến đi lành ít dữ nhiều mà chân
không sao dừng được.
Đuổi về phía tây nam suốt nửa đêm vẫn không
bắt kịp, dấu chân hai người càng lúc càng mờ nhạt, Lương Tiêu chạy đến
sáng sớm ngày hôm sau thì mất dấu. Gã sục sạo khắp nơi hồi lâu nhưng vẫn không vớt vát được chút manh mối nào, Công Dương Vũ và Tiêu Thiên Tuyệt y như thể đã bốc hơi.
Lương Tiêu không nản lòng, tiếp tục tiến
bước, băng qua mấy thôn làng đều tịnh không gặp một người sống, khắp mặt đất vương vãi những thương gãy cung đứt, thi thể lăn lóc, phần nhiều là binh lính hai nước Tống, Nguyên, nhưng cũng có không ít dân lành, cảnh
tượng thê thảm không kể xiết.
Lương Tiêu lòng dạ ngổn ngang, chạy tiếp trăm dặm cuối cùng cũng gặp một nhóm dân Tống, hỏi ra mới biết có
mấy tốp lính Nguyên tăng cường đi qua vùng này, đụng độ với lính Tống.
Cư dân sợ loạn quân cướp bóc, bèn bỏ lại vườn tược, nháo nhào chạy đi
tránh nạn.
Nhìn nhóm dân Tống quần áo lam lũ đầu tóc rối bù, mặt
mũi lem nhem sắc diện hoảng hốt, Lương Tiêu vụt nhớ đến những gì đã từng chứng kiến, nỗi hối hận trào dâng ngập lòng.
Dạo thề độc diệt
Tống, gã chẳng thể ngờ rằng cứ đánh đánh giết giết là sẽ đẩy muôn dân
vào cảnh lầm than. Sau khi tận mắt trông thấy thảm trạng trong thành
Tương Dương, gã đã ăn năn lắm rồi, còn gắng gượng theo quân giao chiến
được đến nay đều là nhờ những lời hùng hồn về một thiên hạ thống nhất
hòa bình vĩnh cửu của Bá Nhan. Ngày lại ngày chinh chiến, làm chứng nhân bất đắc dĩ cho những màn tàn sát thê lương, lòng Lương Tiêu lúc nào
cũng như thiêu như đốt.
Đêm nay, gặp hết làng mạc hoang vu đến
dân tình li tán, gã hối hận cùng cực, bàng hoàng tự hỏi: “Cứ thế này
mãi, chẳng biết còn bao nhiêu người chết, liên lụy bao nhiêu dân lành
đây? Có lẽ rồi sẽ như Lan Á nói, sau chiến tranh, dầu cho thiên hạ thái
bình ngàn năm, nhưng tâm hồn ta không bao giờ yên ổn được nữa”.
Lương Tiêu thẫn thờ hồi lâu, khi tỉnh táo lại, nạn dân đã đi xa. Gã nhìn theo bóng họ, lòng đau đớn như bị rắn độc cắn xé, thống khổ nghĩ: “Tiêu
Thiên Tuyệt giết cha ta, cướp mẹ ta mang đi, khiến ta cô khổ phiêu bạt.
Đến nay chính ta lại khiến bao nhiêu dân lành mất nhà mất cửa, tứ cố vô
thân, thế này thì ta cũng có khác gì Tiêu Thiên Tuyệt đâu?”.
Lương Tiêu bất chấp tính mạng truy đuổi Tiêu Thiên Tuyệt chỉ cốt trả thù,
nhưng ý nghĩ trên đã dập tắt hết mọi quyết tâm, chà cùn mọi ý định báo
cừu xưa nay, gã lầm lũi tiến bước, không bận tâm đã đi bao xa, càng
không biết mình đi về hướng nào.
Đêm khuya, hai chân nặng như đeo đá, Lương Tiêu rã rời ngồi xuống một gốc cây, dõi mắt về làng mạc phía
xa, không gian tăm tối và lạnh lẽo như địa ngục. Đôi hồi gió rít lạnh
căm lùa cành lá kêu u u, nghe như tiếng ai sầu ai thảm.
Sức lực
kiệt quệ, tinh thần bải hoải, Lương Tiêu đờ đẫn chìm vào giấc ngủ. Cuối
giờ dần đầu giờ mão, gã choàng tỉnh vì một tràng cười quái dị. Tiếng
cười vút lên chói tai lẫn với âm thanh rin rít lạ lùng. Lương Tiêu bò
dậy, tiếng cười tạm ngưng, bốn bề trở lại yên tĩnh.
Lương Tiêu nhìn về phía phát ra tiếng cười thì chỉ gặp bóng đêm dày đặc, không le lói lấy một tia sáng, người bỗng ớn lạnh.
Gã dò dẫm bước theo hướng tiếng cười đến mười mấy dặm, phía trước dần dần
hiện lên bóng nhà cửa nhấp nhô, nhìn kỹ thì ra là một thôn trang. Lúc
này trời sắp sáng, soi nổi dáng núi lởm chởm vươn cao phía sau ngôi
làng. Thì ra con đường đã đưa Lương Tiêu tới gần địa giới Hoàng Sơn.
Nơi cổng làng ngổn ngang mười mấy xác chết của lính Nguyên. Lương Tiêu tiến đến, ngồi xổm xuống giở xem quần áo một người, trên ngực hắn in một vết đen trông giống con mắt âm hiểm nhìn trừng trừng. Lương Tiêu thót tim,
khám kỹ hơn thì nhận ra toàn thân hắn mềm nhũn như bông, toàn bộ gân cốt đứt gãy từng đoạn, không còn một đoạn xương hay gân nào nguyên vẹn.
Lương Tiêu rất đỗi nghi hoặc, đoán chừng tên lính này bị đấm chết, gân cốt
toàn thân đều hứng quyền kình nên gãy rời. Nhưng nếu như vậy, quyền kình của hung thủ quả là tàn độc lạ lùng, chưa từng thấy bao giờ. Gã tiếp
tục xem sang các binh sĩ khác, trên ngực họ đều có dấu nắm đấm, gân cốt
cũng gãy vụn.
Lương Tiêu ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đào một cái huyệt
chôn tất cả xuống, xong xuôi đứng dậy thận trọng đi vào làng. Gã đoán có thể hung thủ vẫn còn ở trong trấn, bèn lập tức dồn tụ nội kình, đi bước nào cũng nghe ngóng động tĩnh xung quanh. Suốt một thôi đường, thấy các nhà trong làng đều mở toang cửa lớn cửa sổ, bên trong vắng ngắt không
một bóng người.
Lúc này trời tờ mờ sáng, gió lạnh căm căm thi
thút xuyên qua các ô cửa, gào rít tựa tiếng quỷ khóc ban đêm. Lương Tiêu gan góc cùng mình mà cũng không khỏi phát run khi nghĩ tên sát nhân
đang lẩn quất đâu đây. Thình lình có một tiếng “bình” rất to, Lương Tiêu thất thanh la lên:
- Ai? – rồi liếc mắt nhìn, phát hiện ra là một cánh cửa gỗ đang du đẩy qua lại bỗng đóng sập vào ngõng do gió thổi mạnh hơn.
Lương Tiêu thở phào, chợt thấy giữa khoảng khép mở của cánh cửa dường như
thấp thoáng bóng người, gã thót tim, nhảy vọt tới lách mình vào nhà,
nhưng bên trong trống hoác, không có một ai. Đang kinh ngạc thì nhận ra
trên nền đất in một bóng đen dài thượt, do nắng sớm mới lên hắt vào từ
ngoài cửa sổ, Lương Tiêu đạp cửa bay ra. Đập vào mắt gã là sáu người
đang đứng thõng tay xếp thành hàng một, tất cả đều vận quân phục Nguyên
triều.
Lương Tiêu nhướng mày hỏi:
- Các ngươi là thuộc hạ của ai?
Sáu binh sĩ vẫn bất động, bộ dạng ngây ngốc. Lương Tiêu rất lấy làm lạ, bèn lại gần vỗ vào vai người đứng cuối hàng. Sau một tiếng “bộp”, sáu tên
lính cùng đổ rạp về phía trước, chồng so le lên nhau như những quân bài
cửu. Lương Tiêu sửng sốt nhìn kỹ thì thấy họ đã chết lè lưỡi lồi mắt tự
bao giờ rồi.
Gã cúi xuống kiểm tra. Tình trạng tử vong của nhóm
này khác với đám quân Nguyên ngoài cổng làng, gân cốt tuy đứt gãy hết
nhưng trên mình không có vết thương gì rõ rệt. Riêng người cuối hàng đứt ngón út bàn tay phải, người thứ năm cụt ngón út bàn tay trái. Người thứ tư thì Lương Tiêu phải khám nghiệm khá lâu mới phát hiện ra ngón út bàn chân trái của hắn đã rụng. Người thứ ba rơi đâu mất ngón út bàn chân
phải. Người thứ hai khá kỳ lạ, các sợi tóc tách rời từng đoạn nhỏ, ngoài ra không có thương tích gì nữa. Lương Tiêu hoang mang xem đến người đầu tiên thì thấy gân xương tóc tai đều nguyên vẹn, gã trầm tư một lúc rồi
mở áo giáp lục tìm, quả nhiên phát hiện trên ngực hắn in hình nắm đấm
đen kịt.
Lương Tiêu suy nghĩ rất lung, một tia sáng bỗng xẹt qua óc, gã bất giác buột miệng thốt thành tiếng. Ai đó bật cười lạnh lùng:
- Nhìn ra rồi phải không?
Lương Tiêu hoảng hốt ngước lên. Một người đang lẳng lặng đứng cách gã chừng
một trượng, ăn vận trễ nải nhưng phong thái rất ung dung đường hoàng.
Lương Tiêu trố mắt:
- Công Dương tiên sinh… – Đắn đo một thoáng, gã hỏi. – Những người này đều do ông giết phải không?
Công Dương Vũ hừ mũi:
- Giết hạng vô danh tiểu tốt chỉ tổ bẩn tay. – Ông nhìn Lương Tiêu từ đầu xuống chân. – Hà, nhưng nếu ngươi muốn chết thì lão phu cũng vui vẻ
giúp ngươi thỏa nguyện.
Lương Tiêu nhăn mặt:
- Tiêu Thiên Tuyệt đâu rồi?
Công Dương Vũ hững hờ đáp:
- Hắn gặp cố nhân, đang bịn rịn hàn huyên.
Lương Tiêu thấy Công Dương Vũ đột nhiên xuất hiện đã kinh ngạc lắm rồi, lại nghe ông nói năng lấp lửng thì càng thêm nghi hoặc:
- Ở đây đã xảy ra chuyện gì?
- Cái thân ngươi bây giờ còn khó giữ, đừng thò mũi vào chuyện người khác nữa!
Lương Tiêu nóng mặt:
- Cứ cho là Lương Tiêu tội đáng muôn chết, lẽ nào Vân Thù chưa từng phạm lỗi?
Công Dương Vũ cau đôi mày rậm, mắt lóe lên sắc lạnh. Lương Tiêu xua tay:
- Tiên sinh khoan động thủ, sáu người này là đồng đội của tôi. Người ta
thường nói nghĩa tử là nghĩa tận, tiên sinh hãy thư cho tôi ít thời gian để giúp họ yên nghỉ rồi giao đấu cũng chưa muộn.
Dứt lời, gã tuốt kiếm đào huyệt mai táng sáu binh sĩ nọ. Công Dương Vũ quan sát một lúc, lạnh lùng bảo:
- Chúng nó chết có ngươi chôn cất, chẳng biết ngươi chết rồi ai lo hậu sự cho?
Lương Tiêu ngẫm lại từ dạo tòng quân tới nay, chinh chiến liên miên, đã gặp
bao cảnh thây chất thành núi, máu chảy thành sông. Hàng ngàn hàng vạn
binh lính ngã xuống nơi sa trường đều biến thành các thi thể vô danh.
Bản thân mình sống tới hôm nay thực đã may mắn lắm rồi. Càng nghĩ càng
thê lương, gã lắc đầu:
- Người ta trên đời, ai mà không chết?
Cùng là nhắm mắt xuôi tay, được chôn cất hay không có gì khác nhau? Lẽ
nào tiên sinh đã biết mai sau ông chết có ai an táng hộ rồi chăng?
Công Dương Vũ ngẫm cảnh mình xa vợ lìa con, tấm thân cô quạnh không một bóng người thân, sợ rằng khi trăm tuổi nắm xương tàn sẽ rơi rụng trong núi
hoang, chẳng ai ngó ngàng tới. Không nén được nỗi xót xa, ông thở dài
sau một lúc câm lặng:
- Được, nể mặt Văn Tĩnh, lát nữa ngươi chết, lão phu sẽ tự tay an táng cho.
Trong lòng Lương Tiêu lẫn lộn biết bao cảm xúc. Gã vốn muốn tìm đến thanh
minh với Công Dương Vũ, nhưng chuyến đi này khiến gã mục kích gần hơn bi kịch của binh đao, vừa hối hận vừa căm hờn, cho rằng bản thân mình gánh nặng bao tội nghiệt, chẳng màng phân trần lý lẽ nữa, chỉ nghĩ: “Hôm nay chết dưới tay ông già cũng như một sự giải thoát”, rồi lại chua xót:
“Khổ nỗi thù cha chưa trả, mẹ đi đâu cũng không rõ, ta thõng tay chịu
chết chẳng phải là bất hiếu lắm sao?”.
Cùng lúc ấy Công Dương Vũ
bị lời lẽ của gã khơi gợi những tiếc hận bấy lâu trong tim, rầu rĩ tự
nhủ: “Ta không thể quay lại Thiên Cơ cung được nữa, con cái sờ sờ ra đấy mà cũng như không, sau này về với tổ tiên, e rằng chẳng có ai hương
khói tế tự ta cả. Chà, hài tử Văn Tĩnh vốn dĩ hiền lương, không may táng mạng dưới tay lão quái vật, ta nhất định báo thù cho hắn. Song hắn chỉ
được một mụn con này, nếu nó chết, chẳng phải hắn sẽ tuyệt hậu hay
sao?”. Khi mới biết tin Lương Tiêu tấn công quân Tống, ông đã đùng đùng
nổi giận, những muốn giết ngay cho hả, nhưng đến lúc này bỗng lại ngập
ngừng.
Ông già cầm râu trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu đang theo dõi với ánh mắt thắc mắc thì Công Dương Vũ chậm rãi hỏi:
- Ngươi có biết sáu tên này chết thế nào không?
Lương Tiêu cân nhắc một thoáng rồi đáp:
- Đều chết vì quyền kình. Song vì sao người thứ hai đứt tóc, bốn người đằng sau gãy ngón tay ngón chân thì thật khó hiểu.
- Đó chính là chỗ cao cường của kẻ ra tay. Nếu đấm cả sáu gãy xương đứt
gân mà chết thì khó khăn gì, nhưng đây hắn chỉ đẩy quyền kình đến ngón
tay hay cọng tóc nạn nhân, hoàn toàn không chạm vào các gân cốt khác.
Nội lực tinh diệu tới mức có thể vận hành tùy ý rồi.
Lương Tiêu rùng mình:
- Tiêu Thiên Tuyệt chăng?
Công Dương Vũ cười nhạt:
- Tiêu lão quái giết người theo kiểu chém to kho mặn, đời nào nghịch ngợm tủn mủn đến thế? Môn võ công này xuất xứ từ Thiên Trúc, tên tiếng Phạn
của nó là Thấp bà Quân đồ lị[1]. Theo tín ngưỡng Bà La Môn, “thấp bà” là vị thần hủy diệt, “quân đồ lị” nghĩa là rắn, cũng là tên gọi nội lực
trong Du già thuật[2]. Thấp bà Quân đồ lị do đó có thể dịch ra là Rắn
của thần hủy diệt, nhưng thường được gọi là Hỏa xà. Sau khi luyện thành
công phu, nội kình hệt như trăm ngàn con rắn độc trườn khắp cơ thể địch
thủ, húc vỡ tim, đập nát xương hoặc băm gan chặt ruột hoàn toàn tùy tâm ý của người thi triển.
Lương Tiêu tư lự:
- Xem chừng kẻ đó đã luyện thành.
- Đúng vậy.
Lương Tiêu nhướng mày:
- Tên hắn là gì?
Công Dương Vũ lườm Lương Tiêu, cười khẩy:
- Ranh con, ngươi chết đến nơi rồi còn hỏi chi cho lắm?
Lương Tiêu bực tức nói:
- Ai bảo ông không động thủ ngay đi, toàn lảm nhảm những chuyện đẩu đâu.
Công Dương Vũ buồn bã nghĩ: “Nếu ta đủ nhẫn tâm để động thủ, hà cớ phải rườm lời thế. Khốn thay hiện tại quyết tâm của lão phu suy yếu mất rồi, phải làm sao cho ngươi khiến ta tức giận mới ra tay được”. Ông bèn gợi ý:
– Nội công của hung thủ cao cường nhỉ, ngươi có khâm phục không?
Đối với Công Dương Vũ, kẻ tu luyện môn Hỏa xà này là kẻ đại gian đại ác,
Lương Tiêu chỉ cần buông một từ “có” thôi thì nhất định ông sẽ nổi giận
và thừa căm phẫn để lấy mạng gã. Vì vậy vừa hỏi dứt, ông liền nhìn chăm
chăm vào mặt Lương Tiêu để dò thái độ.
Lương Tiêu nhíu mày, lắc lắc đầu:
- Trên đời này, nhiều lắm là có bốn người khiến tôi khâm phục, hung thủ còn lâu mới lọt được vào danh sách ấy.
Công Dương Vũ thất vọng ê chề, tiện miệng hỏi thêm:
- Thế à, bốn người nào?
- Có một hòa thượng vô cùng nghĩa khí, dám nói dám làm. Ông ấy xếp thứ tư trong số những người Lương Tiêu khâm phục.
- Cửu Như chứ gì?
- Tiên sinh cũng quen ông ấy à?
Công Dương Vũ hừ mũi, không trả lời thẳng vào câu hỏi:
- Ai nữa?
- Người tiếp theo là Liễu Tình đạo trưởng. Tại sao thì chắc khỏi phải giải thích.
Công Dương Vũ gật đầu lia lịa, hớn hở nói:
- Tất nhiên tất nhiên, nàng xếp thứ nhất phải không?
Lương Tiêu lắc đầu:
- Thứ ba.
Công Dương Vũ cáu kỉnh nghĩ bụng: “Để xem ai xếp được trên nàng”. Lương Tiêu tiếp:
- Người thứ hai Lương Tiêu khâm phục là một tiểu cô nương.
Công Dương Vũ nhăn mặt nghĩ bụng: “Một đứa ranh con mà dám so đọ với Tuệ Tâm hử?”. Ông hừ mũi giận dữ. Lương Tiêu bùi ngùi:
- Tiểu cô nương này mắc bệnh nan y nhưng không bi quan buồn bực mà luôn
vui vẻ giúp đỡ người khác, nhờ cô bé giúp đỡ nên mới có Lương Tiêu ngày
nay.
Công Dương Vũ dịu nét mặt, khẽ gật đầu. Lương Tiêu chốt hạ:
- Còn người Lương Tiêu khâm phục nhất là một viên quan nhà Nguyên.
Mắt Công Dương Vũ lóe sáng, kình đẩy suốt xuống tay. Lương Tiêu thủng thẳng:
- Người ấy họ Quách tên Thủ Kính. Ông ta dồn hết tâm sức cũng như hứng
thú vào cải tạo thủy lợi và nghiên cứu lịch pháp, công lao rỡ ràng ngàn
năm, phúc đức cao dày vạn kiếp, do đó xếp đầu trong bảng bốn người Lương Tiêu khâm phục.
Công Dương Vũ nghe tới đây, cơn giận xẹp xuống, gật gù bảo:
- Nếu quả thực như ngươi kể thì bất luận hắn ta là Nguyên hay Tống đều đáng được thế nhân kính phục.
Nói thì nói vậy, nhưng thấy mình không được liệt vào hàng nhân vật khiến
Lương Tiêu khâm phục, Công Dương Vũ cũng hơi tự ái. Lương Tiêu nhẩn nha
tiếp:
- Ngoài ra, Lương Tiêu còn rất mến mộ võ công và tài trí
của Công Dương tiên sinh, nhưng cái lối bỏ mặc vợ con và hờ hững tình
thân của ông lại khiến Lương Tiêu không có thiện cảm lắm nữa.
Công Dương Vũ bừng bừng nổi giận, nhưng suy tính một hồi, nghĩ rằng nếu vì
thế mà giết Lương Tiêu thì lại chứng tỏ bản thân mình nhỏ nhen, bèn nén
cơn nộ hỏa, cười nhạt bảo:
- Nhóc con miệng còn hôi sữa, chả hiểu cái quái gì! – Trong bụng thì phát ớn: “Thằng ranh giảo hoạt kinh
khủng, chắc đã nhìn ra toan tính của lão phu nên mới giả vờ bịa chuyện
nói quanh khiến ta không nắm được thóp nó đây”. Cân nhắc một hồi lại
nghĩ: “Ờ mà việc gì ta phải đích thân động thủ, để nó ngoan ngoãn tự tận chả tiện hơn ư?”.
Trầm ngâm một hồi, ông chợt bảo: “Ngươi theo ta lại đây!” rồi quay bước. Lương Tiêu đành đi theo.
Lúc này trời đã sáng bạch, bốn bề quang đãng. Đến một gốc tùng đầu làng,
Công Dương Vũ xòe chưởng chặt lên thân cây, lá đổ xuống ràn rạt như
mưa. Nhà nho phất tay áo rộng. Hệt như bị hút, màn lá liền tụ thành một chuỗi chui vào tay áo ông.
Thu xong đám lá, Công Dương Vũ nói:
- Nếu ta tự tay giết ngươi thì khó tránh mang tiếng cậy mạnh hiếp yếu.
Trên núi Thạch Công, ngươi và ta chưa cá cược xong, bây giờ tiếp tục
vậy.
Lương Tiêu nhướng mắt nhìn. Công Dương Vũ lại khua tay áo,
lá tùng bắn phụp phụp xuống nền đất xốp, mau chóng xếp thành một đồ
hình, tựa vuông mà không phải vuông, dường tròn mà không phải tròn.
Công Dương Vũ hỏi:
- Ngươi nhận ra chứ?
Lương Tiêu hơi đổi sắc mặt:
- Nhận ra, đây là Thiên địa huyền hoàng. Phải chăng hôm qua chính tiên sinh đã bày trận cho quân Tống?
Công Dương Vũ không trả lời thẳng, lấp lửng bảo:
- Lúc ấy ngươi khua môi múa mép, xổ ra những gì như là: “Trận pháp này
gói gọn thiên địa, nuốt chửng nhật nguyệt, tiêu diệt vạn quân như nhổ
một cọng cỏ, tiến lui dễ dàng, không tài nào phá nổi”, nghe chừng cũng
có tí kiến thức. Bây giờ coi mỗi chẽ lá tùng là một quân sĩ, nếu ngươi
phá được trận này thì ta tha chết, nhược bằng thua thì tự chặt đầu là
hết nợ.
Lương Tiêu quan sát trận thế hồi lâu, đoạn lắc đầu:
- Đáng tiếc tôi không có bản lĩnh hút lá tùng, làm sao đấu với tiên sinh được?
- Khó gì, với tu vi hiện nay của ngươi, ta hướng dẫn qua loa là ngươi làm được ngay thôi.
Công Dương Vũ cho rằng Lương Tiêu khó thoát chết nên không giấu miếng, nhặt ngay một chiếc lá tùng giảng giải:
- Công phu này tên gọi Bích vi tiễn, coi lá tùng là tên, nội lực là cung, cứ thế bắn đi. – Thấy Lương Tiêu lộ vẻ ngơ ngác, ông sốt ruột. – Không
hiểu à? Ta hẵng hỏi ngươi, bắn cung thế nào?
Lương Tiêu thạo thuật kỵ xạ, nắm rõ đặc tính của cung tên, bèn đáp:
- Cánh cung cứng mạnh, dây cung mềm dai. Tay trái nắm cánh cung, tay phải bật dây cung là bắn được.
- Ừ, một cây cung gồm đủ cương nhu, còn nội lực có tách bạch cương và nhu không?
Lương Tiêu hiểu ra:
- Ý tiên sinh là dùng cương kình làm cánh, nhu kình làm dây, lá tùng làm tên?
Công Dương Vũ gật đầu:
- Tiểu tử khốn kiếp, cũng không đến nỗi tối dạ!
Lương Tiêu đăm chiêu:
- Xem chừng công phu này tương tự Cung huyền kình của Tiêu Thiên Tuyệt.
Công Dương Vũ trợn trắng mắt, mắng ngay:
- Láo lếu, tương tự là thế nào? Hừ, Bích vi tiễn là Bích vi tiễn, hoàn
toàn không dây mơ rễ má gì với Cung huyền kình. – Nghĩ sao ông lại hừ
mũi. – Dẫu có đôi chút liên quan, Cung huyền kình cũng chỉ là loại bàng
môn tả đạo. Tiêu lão quái cho rằng thân mình là cung, còn ta cho rằng
khí cơ là cung, gần với đạo trời hơn, cảnh giới hai bên vô cùng chênh
lệch, khó lòng so sánh được. Lão Tử từng nói: “Đạo Trời như giương cung. Cao thì ép xuống, thấp thì nâng lên. Thừa thì bớt đi, không đủ thì bù
vào”; lại răn: “Muốn đóng được phải mở trước”. Yếu lĩnh của Bích vi tiễn chính là ở đó, so với nó thì thứ công phu Cung huyền kình vứt đi kia
kém xa một vạn tám ngàn dặm.
Công Dương Vũ thóa mạ một hồi thì
vơi tức, bắt đầu giảng giải cặn kẽ cách hướng mạch, cách vận kình. Lương Tiêu vốn nắm bắt nhanh, lại có luồng nội lực gồm đủ âm nhu nhờ trận
phát hoảng: “Bích vi tiễn của lão Cùng Nho? Rõ ràng hắn chạy cùng đường
Tiêu lão quái, sao chỉ chớp mắt đã vòng về đây được rồi? Phải chăng hắn
hận ta mấy lần ám hại nên cố ý sai thằng nhóc này ra dụ ta vào đây báo
thù”. Nghĩ mà toát mồ hôi hột, Hạ Đà La bèn hộc tốc chạy trở ra, cười
khành khạch:
- Giấu đầu hở đuôi thật chẳng xứng mặt hảo hán. Lão đồ gàn, có gan thì ra đây đấu ba trăm hiệp với sái gia.
Đợi một lát vẫn không thấy mảy may động tĩnh, Hạ Đà La rất đỗi ngờ vực, lại thét:
- Cùng Nho!
Nhưng vạt rừng vẫn lặng ngắt. Ngẫm lại, Hạ Đà La cảm thấy mấy mũi Bích vi
tiễn chứa kình đạo rất thường, khác hẳn thủ pháp xuất quỷ nhập thần,
nhanh đến chóng mặt của Công Dương Vũ.
Hắn bàng hoàng sực hiểu
mình lại mắc lừa lần nữa, liền vươn cổ hú dài, chạy ào vào rừng, đuổi
theo dấu vết Lương Tiêu. Phóng một mạch đến hơn ba trăm dặm, hắn nghểnh
đầu nhìn thì thấy Lương Tiêu cõng A Tuyết bám dây leo trèo lên một ngọn
núi cao gần đấy.
Hạ Đà La cười rú rít:
- Thú quá thú quá, đệ đệ thực giảo hoạt lươn lẹo.
Lương Tiêu nghe tiếng cười, luôn miệng kêu khổ. Sau khi dùng mưu đẩy lui Hạ
Đà La, gã thầm nhủ đi đường bằng nhất định không thoát nổi hạng già đời
lăn lộn giang hồ như tên xú xà kia, nhác trông có một cái hang trên sườn núi, gã bèn áp dụng cách thức hành quân địa hình bò lên đó, thầm nhủ
khi Hạ Đà La phát hiện ra bị lừa và đuổi theo chắc cũng chỉ biết đường
đi loanh quanh ven chân núi thôi.
Nào ngờ tình hình biến đổi khác thường, người tính không bằng trời tính, Hạ Đà La đã đuổi đến nơi.
Lương Tiêu đang ở lưng chừng núi, khác nào cưỡi trên hổ, không xuống
được nữa, chỉ còn cách gắng gượng tiến bước.
Càng lên cao, thế
núi càng cheo leo hiểm hóc, rất nhiều chỗ chỉ có một hốc nông choèn hoặc một mỏm đá cạn để đặt mũi chân. Nghe tiếng cười rin rít chói tai, Lương Tiêu cúi đầu nhìn xuống, Hạ Đà La đạp bước phi hành, đã gần đến cái
hang nơi sườn núi.
A Tuyết cuống cuồng kêu:
- Ca ca, hắn đuổi tới nơi rồi!
Lương Tiêu suy tính rất nhanh, chợt giơ kiếm lên chém đứt dây leo bên dưới.
A Tuyết đang lấy làm lạ, chợt nghe tiếng kêu tức giận của Hạ Đà La bèn
ngoái cổ xuống nhìn, mắt bỗng hoa lên. Lúc này, hai huynh muội đã tới
chỗ cao đến trăm trượng, rừng rú đất đá dưới kia đều bé như con kiến. Hạ Đà La đang dừng ở sườn núi, tay phải bám mỏm đá, hai chân cử động ngùng ngoằng, đẩy người trườn lên. A Tuyết ngạc nhiên:
- Huynh nhìn bộ dạng leo núi của hắn kìa!
Lương Tiêu ngó theo, cũng rất lấy làm thắc mắc.
Số là Lương Tiêu chặt đứt dây leo, Hạ Đà La mất chỗ vịn, chỉ còn cách vận
dụng công phu để trèo lên, không ngờ mới trèo thêm được mấy trượng thì
cánh tay trái bỗng rã rời đau nhói, hắn sực nhớ lúc nãy bị Cửu Như quật
gậy vào vai. Cửu Như có sức mạnh bạt sơn cử đỉnh, một gậy đó đủ đánh nát đá tan vàng, Hạ Đà La thi triển nội công độc môn hầu khử bớt kình lực,
nhưng vẫn bị thương vào xương cốt, bây giờ phải ra công trèo lên vách đá hiểm trở, vết thương tái phát, đau đớn vô cùng. Không làm sao khác
được, hắn đành dùng hai chân và một tay leo lên.
Ba người leo cao dần, gió chướng quay cuồng xô đẩy, tở tóc tai họ rối tung. Mỗi nhịp
dướn giúp Lương Tiêu tiến thêm vài trượng. Qua đến đâu, gã chặt sạch dây mây và tùng bách đến đấy, không chừa một chỗ bám víu nào cho Hạ Đà La. A Tuyết nghiêng đầu nhìn, chỉ thấy cảnh vật bên dưới càng lúc càng bé,
tim đập thon thót, cô hãi hùng không dám liếc mắt xuống nữa, nhưng khi
ngẩng mặt lên trên thì càng bàng hoàng khiếp sợ.
Bên trên họ là
vách đá sừng sững trơ lì, hệt như bị lưỡi tầm sét vạt thẳng một mảng,
ngoài mấy nhành tùng trơ trọi thì không còn chỗ nào để tỳ tay đặt chân. A Tuyết ngấm ngầm than khổ: “Lỡ sơ sảy thì hai ta sẽ lộn cổ xuống tan
thây chứ còn gì?”. Đang kinh hoảng quá độ, cô bỗng sực nghĩ: nếu rơi
xuống, coi như được chết bên Lương Tiêu, vĩnh viễn không chia lìa nữa.
Vừa nghĩ thế, bao nhiêu thảng thốt trong lòng bỗng chớm quyện ý vị ngọt
ngào, cô áp đầu lên vai Lương Tiêu, nghe rõ nhịp tim gã truyền tới dập
dồn. A Tuyết như chìm đắm trong cơn mơ mộng, bất luận mây núi tùng bách
gì đều bỗng biến thành xa vời hư ảo.
Lương Tiêu không rỗi hơi mà
bận tâm xem cô gái đang nghĩ gì. Gã chỉ một lòng một dạ tìm kế thoát
hiểm nên tập trung tối đa sức lực cố gắng leo cao, thậm chí hai lòng tay đã trầy hết da, rướm máu, trét lên đá, lên dây leo mà gã cũng không cảm thấy.
Hạ Đà La không tài nào áp sát được, lại thiếu mất sức một
cánh tay nên càng thêm chật vật. Hắn bò một lúc, ngước mắt nhìn thì thấy mấy trăm trượng trên kia nhẵn trơ, hệt như một mặt gương, lại thấy bóng Lương Tiêu mỗi lúc một xa, hệt như nhòa vào mây trời, hắn tức bầm gan
tím ruột: “Tiểu tử này là khỉ vượn thành tinh chắc? Làm sao mà trèo
nhanh như vậy?”. Lại cảm thấy cánh tay trái đau nhức lên từng hồi, xối
vào tận óc, thầm biết nếu không tĩnh dưỡng thì sẽ để lại di chứng, mai
sau không thể phát huy hết uy lực của võ công, dẫu bắt được Lương Tiêu
đi nữa thì lợi bất cập hại, hắn bèn tính toán: “Sái gia hẵng tạm náu nơi sườn núi, đợi trị thương xong lên bắt chúng nó cũng chưa muộn”.
Hai canh giờ nữa trôi qua, cuối cùng Lương Tiêu cũng trèo tới đỉnh, tứ chi
rời rã, liền ngồi phệt xuống đất thở hồng hộc như trâu. A Tuyết lấy khăn tay ra thấm mồ hôi cho gã, đoạn đưa mắt nhìn quanh. Đỉnh núi rộng không quá mười trượng, địa thế tương đối bằng phẳng, chính giữa có một cây
tùng cổ thụ, cành lá uốn éo mềm mại, dáng dấp thanh thoát, tán tỏa bóng
rợp đến nửa đỉnh, dưới gốc cây có một tảng đá lõm tích đầy nước, nước
trong leo lẻo nhìn tới tận đáy, rêu mọc xanh rì.
Lương Tiêu không kịp ngó nghiêng, lập tức vươn đầu ngó xuống, dưới thấp Hạ Đà La đang
dùng một tay hai chân nhúc nhắc trườn lui. Lương Tiêu thoạt tiên kinh
ngạc, rồi sực đoán ra nguyên cớ, gã yên yên dạ, bảo A Tuyết:
- Tên ác ôn kia tạm thời chưa lên đây, chúng ta theo mặt sau lần xuống thôi.
Gã kéo A Tuyết vòng sang mặt bên kia, nhưng thất vọng tràn trề, bởi ba bề
núi đều là vách đá cheo leo, khúc khuỷu gập ghềnh hơn hẳn mặt trước,
thậm chí so với chúng thì lối hai người vừa lên có thể coi là đường lớn
bằng phẳng thênh thang.
Lương Tiêu ngao ngán ngồi bịch xuống, A Tuyết cũng lặng lẽ ngồi kế bên.
Hai người trầm ngâm hồi lâu, Lương Tiêu chợt bảo:
- Phải lột vỏ cây bện dây mà xuống.
A Tuyết bảo:
- Ca ca mệt quá rồi, nghỉ một chốc nữa cũng được.
- Chỉ sợ thời gian không đợi chờ, vết thương ở vai tên kia mà bình phục thì hắn lên đây không khó khăn gì đâu.
A Tuyết cũng vô kế khả thi, đành gật đầu.
Sau chuyến tránh nạn chật vật, hai người đều mệt rũ, bèn tựa gốc cây tùng
thiếp đi. Một lát sau, Lương Tiêu choàng tỉnh trước, cảm thấy gió chướng căm căm từ phía đông cuộn tới, lạnh cắt da cắt thịt, gã bất giác so vai rụt cổ, nhìn xuống thì thấy A Tuyết vẫn chưa tỉnh, người co quắp, áng
chừng rét lắm. Lương Tiêu cởi áo đắp lên mình cô rồi ngồi quay lưng ra
đầu gió.
Gã ngắm người con gái, thấy hàng mày thanh nhíu khẽ như
vương sầu, bất giác xót xa trong dạ: “Từ ngày theo ta đến nay, muội
thường phải lo lắng sợ hãi, chẳng mấy khi được yên ổn…”.
Lương
Tiêu đang tự oán trách, chợt nghe A Tuyết gọi khẽ “ca ca”, gã cúi xuống
nhìn kỹ, thấy hai mắt cô vẫn nhắm nghiền, chắc là nói mớ. Lương Tiêu
thương xót vô cùng, lại thấy khóe mắt cô ứa lệ, đôi môi bặm bặm, lẩm
nhẩm:
- Trăng cong gợi hàng mi, Khi nào đầy ai biết, Hồng đậu
chẳng dám nhìn, Sợ mắt nàng hoen ướt. Tần ngần bổ quả đào, hạt tựa tim
da diết. Hai đóa hồng chia xa, rồi sẽ thôi ly biệt…
Giọng A Tuyết tuy nhỏ nhưng rất rõ, từng lời từng chữ đều gõ mạnh vào trái tim Lương
Tiêu. Mấy năm trước ở Thiên Viên Địa Phương, khi đọc bài tiểu lệnh này
lần đầu, gã vẫn chưa thấm thía ý vị ai sầu ẩn sâu trong từ ngữ, đến nay, sau bao nhiêu trải nghiệm và thời gian, cuối cùng gã cũng thẩm thấu
được đôi chút. Khi chia xa người thương, lòng nhung nhớ khiến ta nhìn
đâu cũng thấy bóng hình nàng, chẳng dám ngắm trăng, ngại trăng cong gợi
nhớ hàng mi dày, chẳng dám ăn hồng đậu, ngại nhớ đôi mắt nhòa lệ ướt,
chẳng dám bổ đào, ngại trông thấy nhân hạt giống trái tim thổn thức. A
Tuyết theo hầu Hàn Ngưng Tử đã lâu, hẳn nghe ngâm bài từ nhiều lần đến
mức ghi sâu vào tâm khảm, bình thời không nói, đến khi mơ ngủ mới thốt
ra.
Có lẽ cô đang nằm mộng thấy chuyện gì thương tâm lắm, lẩm
nhẩm xong bài từ thì nước mắt đã vòng quanh. Lương Tiêu ngắm A Tuyết,
một nỗi ăn năn bỗng nghẹn đầy lồng ngực. Gã bẩm sinh nhạy bén, làm gì
không nhận ra tâm tư của người con gái, chỉ hiềm bấy nay không sao quên
lãng được hình bóng Liễu Oanh Oanh nên nửa như vô tình nửa như cố ý né
tránh tình cảm của A Tuyết. Bây giờ ngẫm lại, mối si mê của thiếu nữ
ngây ngô này đối với gã chẳng khác nào dây trầu không cuốn thân cau, dẫu khô vàng úa héo cũng quyết không xa lìa.
Lương Tiêu nghĩ: “Ta
đánh Tống là sai, lưu luyến Liễu Oanh Oanh có lẽ cũng sai nốt. Cô ta vừa gặp Vân Thù đã xiêu lòng, cớ gì ta phải bịn rịn mãi không quên?”. Nghĩ
tới đây, cái bóng xanh thướt tha trong đáy tim gã bỗng nhòa đi, Lương
Tiêu cúi đầu ngắm A Tuyết, lòng chớm rung động.
Khi A Tuyết mở
bừng mắt thì gặp ngay cái nhìn thiết tha của Lương Tiêu. Cô không hiểu
vừa xảy ra chuyện gì, chỉ biết mặt mình nóng lên, và tim đập hồi hộp
trước ánh mắt ấy. Thoáng thấy khóe mắt gã dường vương ngấn lệ, cô hốt
hoảng hỏi:
- Huynh khóc đấy à?
Lương Tiêu cau mày:
- Hỏi ngốc, ta khóc hồi nào? Chính muội khóc ấy.
A Tuyết giật mình hồi tưởng những cơn mộng mị, đoạn ngượng ngùng nói lảng đi:
- A, còn phải bện dây nữa đúng không?
Lương Tiêu sực nhớ, kêu lên:
- Trời ạ, ta quên béng đi mất!
Hai người lập tức tước vỏ cây bện thừng. Cây tùng lâu đời, vỏ và cành rắn
đanh, may mà Ảo Nguyên kiếm khá sắc mới róc được. Tuy vậy công việc tiến triển khá chậm chạp, đến tận chập tối, họ mới tết được đoạn dài chừng
một trượng. Hai người bận rộn làm đến tận đêm khuya rồi díp mắt ngủ
thiếp đi.
Gần sáng, chợt nghe có tiếng chí chóe huyên náo từ vách đá cao hơn vọng xuống, Lương Tiêu và A Tuyết bàng hoàng choàng tỉnh,
ngước mắt nhìn, thảy đều biến sắc. Vô số chim sẻ đang ràn rạt bay xuống, xoay tít mù như cơn lốc trên tán cây tùng.
Tiếng cười tựa kim khí của Hạ Đà La lan đi trong không khí, vọng tới chỗ họ:
- Hảo đệ đệ, hảo muội muội, các ngươi xuống núi cho mau! Kẻo ta phát hiệu lệnh thì các ngươi sẽ thành bữa điểm tâm cho đàn sẻ đó đấy, ha ha…
Giọng hắn không to, nhưng sử dụng thủ pháp thiên lý truyền âm nên nghe rất
rõ, Lương Tiêu bủn rủn cả người, vận đủ nội lực cười lớn:
- Ai làm món điểm tâm cho ai còn chưa chắc đâu!
Hạ Đà La loáng thoáng nghe thấy, thầm nhủ không hiển lộ uy phong thì khó
mà đàn áp được hai kẻ cứng cổ này, bèn thổi điệu nhạc chim. Đàn sẻ theo
hiệu vỗ cánh soạt soạt lao bổ xuống gốc cây.
Lương Tiêu ra dấu
cho A Tuyết xích lại gần mình rồi vo nắm đấm nện vào thân cây tùng,
quyền kình tới đâu, lá rụng rào rào tới đó. Lương Tiêu vỗ ra hai chưởng, chưởng trước là cương kình, chưởng sau là nhu kình, hệt như cánh cung
vô hình đón lấy màn lá tùng làm tên mà bắn ra ào ạt.
Đàn sẻ bị
tiếng tiêu của Hạ Đà La sai khiến, mất hết cả thần trí, chỉ biết sấn sổ
lao vào, không biết né tránh. Ngay tức khắc, loạt đầu tiên bị lá tùng
bắn xuyên thân, rơi lộp bộp xuống đất, những con còn sống vẫn liều lĩnh
công kích. Lương Tiêu đành liên tục bắn lá tùng, chỉ một lát sau, xác sẻ đã chất dày đỉnh núi.
Hạ Đà La những tưởng Lương Tiêu và A Tuyết sẽ chết khiếp vì đàn sẻ và mau chóng van xin đầu hàng, nào ngờ tấu nhạc vi vút hồi lâu vẫn không thấy động tĩnh gì, hắn chột dạ nhớ ra một
chuyện, lập tức ngừng thổi, thét to lên rằng:
- Tiểu tử kia, ngươi biết dùng Bích vi tiễn phải không?
Lương Tiêu cười vọng xuống:
- Kể cũng không đần lắm nhỉ!
Hạ Đà La tức tối vô cùng. Bích vi tiễn chính là khắc tinh của trận pháp
chim sẻ, ai mà ngờ Lương Tiêu đã luyện được. Hắn càng nghĩ càng đằng
đằng sát khí.
Lương Tiêu đẩy lui được đàn sẻ, lại cấp tốc bện dây thừng, tiếc nỗi vỏ cây quá ngắn, nhiều lắm cũng chỉ được chừng mười
trượng, huống hồ cũng không bền và dai đến mức gánh được thể trọng của
hai người. Lương Tiêu cúi nhìn bốn phía, ngẫm nghĩ nếu chỉ có một thân
một mình thì gã đã mạo hiểm trèo xuống, nhưng cách ấy không thực hiện
được khi mang theo A Tuyết. Xuống núi thường khó hơn lên núi, gã bóp
trán, lòng đầy ưu phiền.
Giữa trưa hôm sau, Hạ Đà La bỗng lại
thổi tiêu, điều động đàn sẻ đến bay vần quanh đỉnh núi. Hắn đoán được dự tính của Lương Tiêu nên bày trận sẻ để phong tỏa hết mọi đường xuống.
Nếu Lương Tiêu ngồi yên trên đỉnh núi thì còn dùng được Bích vi tiễn để
phá trận, nhưng nếu gã tụt xuống theo vách núi thì bầy sẻ sẽ tập kích,
bản lĩnh gã cao cường đến đâu cũng chỉ còn nước ngã lộn cổ. Kế bện dây
leo hạ sơn vậy là không thể thực hiện được.
A Tuyết chỉ cần ở bên Lương Tiêu là đã hân hoan, chẳng hề bận tâm tìm cách thoát thân. Thấy
sẻ chất đầy đỉnh núi, cô bèn nhặt một ít làm lông, dùng nước trong hõm
đá rửa sạch, lại gom cành khô đánh đá nhóm lửa, xiên mười mấy con lên
quay thơm lừng.
Khi sẻ chín, cô đưa cho Lương Tiêu một xiên.
Lương Tiêu nếm thử, thấy thịt mềm vừa, lại thoang thoảng mùi gỗ tùng,
bất giác tán thưởng:
- Khéo tay lắm.
A Tuyết rạng rỡ mặt mày, nếm thử một con:
- Không ngờ thịt sẻ ngon thế. Nhưng các thư thư nói, ăn thịt sẻ, khi cầm bút sẽ run tay. – Nói đoạn lại dàu dàu.
Lương Tiêu cười xòa:
- Miễn là muội chế biến thì dẫu toàn thân run bần bật, ta vẫn ăn sạch bách như thường.
A Tuyết cúi mặt, hai má thấp thoáng lúm đồng tiền:
- Vậy sau này muội sẽ thường xuyên quay sẻ cho huynh ăn.
Lương Tiêu thở dài:
- Không cần đến mức “thường xuyên”, chẳng qua hôm nay hoàn cảnh bắt buộc thôi.
Quay lại tình hình khó khăn trước mắt, Lương Tiêu nhăn nhó phiền não. Hồi
tưởng cảnh Công Dương Vũ dùng diều thoát hiểm trên núi Thạch Công, gã
thở dài nghĩ: “Đáng tiếc ở đây không dùng được cách ấy”.
Lương
Tiêu buồn bã, niềm hứng khởi của A Tuyết cũng xẹp xuống. Cô ngây dại
nhìn ra ngoài vực núi, ngắm bầy chim đang bay quần quanh rất tự do tự
tại, trầm ngâm nói:
- Nếu chúng ta biến được thành chim thì hay biết mấy, dẫu cao dẫu xa đến đâu cũng có thể bay tới nơi.
Lương Tiêu nghe vậy, sực nảy ra một ý, nghiền ngẫm hồi lâu, gã vỗ tay cười lớn:
- Muội nói phải lắm, vậy chúng ta sẽ biến thành chim bay đi xa, để tên ác ôn kia không tài nào đuổi kịp nữa.
A Tuyết giương mắt nhìn gã đầy thắc mắc, Lương Tiêu mỉm cười:
- Muội còn nhớ con chim tre ta làm trước đây không?
A Tuyết nhìn gã cười cũng vui lây, gật đầu:
- Muội nhớ, chỉ cần xiết dây cót thật chặt là bay được, đáng tiếc chuyến này ra đi vội vội vàng vàng nên không kịp mang theo.
Lương Tiêu cười lớn:
- Không sao, ta sẽ làm một con to hơn để nó chở mình xuống núi.
Gã liếc mắt sang cây tùng già, ước lượng:
- Cây này là đủ gỗ dùng đây. – nói đoạn tuốt kiếm, ngắm nghía hồi lâu rồi ngậm ngùi. – Ảo Nguyên ơi Ảo Nguyên, mi vốn là một thứ binh khí lợi
hại, đáng tiếc chủ nhân vô năng, đành để mi tủi phận làm rìu bổ củi. –
Chợt thấy A Tuyết chắp tay sì sụp lạy cây tùng, gã ngạc nhiên hỏi. –
Muội làm gì vậy?
- Muội đang nói với cây rằng: đại thụ ơi đại
thụ, ngươi ăn sâu bám rễ ở đây suốt mấy trăm mấy ngàn năm, đáng tiếc
huynh muội ta phải tìm đường sống nên đành hi sinh ngươi vậy. Ngươi có
linh thiêng thì làm chứng, sau này nhất định ta sẽ thắp hương tế bái
ngươi, cầu cho ngươi phiêu diêu về miền cực lạc.
Lương Tiêu sắp
bật cười, chợt nhìn lại dáng vẻ cô đơn của cây tùng, bỗng không cười
được nữa, tự nhủ: “Cỏ cây còn đáng thương huống hồ dân chúng thiên hạ,
ta công thành phá lũy, tàn sát bao người còn ra thể thống gì?”.
Gã càng nghĩ càng buồn rầu, gắng trấn định tâm tư để vẽ sơ đồ chặt cây.
Nhờ tiếp xúc với toán học phương tây, kiến thức về thuật cơ quan của gã
càng thêm phong phú, so với con chim tre chế tạo dạo nào thì con chim gỗ tùng tinh xảo hơn nhiều. Lương Tiêu miệt mài thi công, đêm xuống cũng
đốt lửa để làm, không hề ngơi nghỉ.
Sáng tinh mơ ngày thứ tư, gã
đã hoàn thành con chim gỗ, hình dáng như chim ưng, tổng sải cánh dài cỡ
ba trượng, chiều dài dọc thân là hai trượng năm thước, dưới bụng có lắp
vòng xiết, đầu đuôi và hai cánh gắn bốn chiếc chong chóng, nối truyền
động với hai tay quay ở mé trên. Phần đế đặt bánh xe tròn, dưới bánh xe
đặt hai trục trượt làm đà cất cánh.
Chim gỗ tuy đã làm xong,
nhưng hướng gió chưa ổn định nên không tiện cất cánh ngay, Lương Tiêu
càng thêm chán nản. Tự cổ chí kim chưa ai bay bằng chim gỗ, chẳng may sơ suất, gã rơi xuống đất tan xương nát thịt đã đành, nhưng nếu A Tuyết có mệnh hệ gì thì dẫu xuống suối vàng gã cũng không nguôi hối hận.
Hạ Đà La ban ngày khóa kín mọi đường xuống núi, ban đêm thì chui vào hang
vận công dưỡng thương. Nội công Bà La Môn của hắn cực kỳ thâm hậu, không cần thuốc thang mà đến đêm hôm thứ ba, vết thương ở vai đã khỏi. Ghét
nỗi ban đêm trèo núi nhiều rủi ro nên hắn tạm nén lòng đợi trời sáng
lại.
Mấy hôm nay, hắn đã hỏi thăm vài cư dân trong vùng, biết
được ngọn núi này tên là Thiên Đô, với nghĩa “thiên tiên đô hội”, là
ngọn hiểm trở bậc nhất trong bảy mươi hai ngọn của rặng Hoàng Sơn, từ
xưa đến nay rất ít người leo được lên tới đỉnh. Hạ Đà La nghe kể nổi
lòng hiếu thắng. Hôm sau, mới tờ mờ sáng, hắn đã lập tức rời sơn động,
nội lực sung mãn, chân tay lành lặn, do đó cũng phấn chấn tinh thần, tay bám chân đạp, trèo băng băng lên vách núi.
A Tuyết giữ nhiệm vụ
cảnh giới, không may sương mù và mây phủ che lấp tầm mắt nên cô không
phát giác ra Hạ Đà La từ đầu, đến khi báo động được cho Lương Tiêu thì
Hạ Đà La chỉ còn cách đỉnh hơn hai mươi trượng và vẫn nhảy như bay dọc
vách đá. Gã thầm rủa: “Lão tặc đi nhanh thật!”.
Gió vừa lệch về
hướng tây bắc, tuy vẫn chưa thích hợp lắm để cất cánh nhưng cũng chỉ còn cách thử mà thôi, Lương Tiêu bèn đỡ A Tuyết ngồi lên con chim, vặn tay
quay, bốn chiếc chong chóng bắt đầu chạy ro ro, khuấy mù bụi đất trên
đỉnh núi.
Lương Tiêu vung kiếm chặt đứt dây buộc ở đằng đuôi. Con chim trượt lọc rọc theo trục gỗ. Đến lúc thoát khỏi đầu mút, thay vì
lượn lên khoảng không, nó bổ nhào xuống núi.
[1] Shiva Kundalini.
[2] Tức Yoga.
[3] Theo thuyết Long sinh cửu tử, rồng có chín con trai, ngoài bí hí ra còn tù ngưu, nhai xế, trào phong, bồ lao, toan nghê, bệ ngạn, phụ tí, ly
hốt.
[4] Ngoài đồng hoang có con chương chết.
[5] Nàng rằng gà gáy.
[6] Lối tự xưng của đàn ông vùng Quan Tây thời Tống, Nguyên.
[7] Bài Tân Đài, thuộc Kinh Thi. Vệ Tuyên Công vốn đa dâm hiếu sắc, muốn
cướp vợ của con trai nên dựng Tân Đài bên bờ Hoàng Hà để thực hiện ý
định ấy.