Côn Luân

Chương 51 : Tây tái long ngâm

Ngày đăng: 20:59 22/04/20


Thường Châu bị phá, Tô Châu và Hồ Châu trông gương tày liếp, lũ lượt

treo cờ trắng đầu hàng. Mùa xuân năm sau, Thổ Thổ Cáp công phá Độc Tùng

quan, mở đường cho đại quân Nguyên triều kéo vào Lâm An. Quan viên lớn

nhỏ giẫm đạp lên nhau chạy trốn khỏi kinh thành. Tống đế và Tạ Thái hậu

hết cách ứng phó, đành phái sứ nghị hòa nhưng bị Bá Nhan từ khước, không lâu sau cũng phải giao nộp ngọc tỉ truyền quốc, dâng biểu đầu hàng. Bá

Nhan cất quân tới chân thành Lâm An, Tạ Thái hậu dắt ấu đế Triệu Hiển ra quy thuận. Vua tôi Đại Tống ngậm hờn nuốt lệ quỳ rạp trước vó câu Mông

Cổ. Xảy đâu trời bỗng đổ cơn mưa phùn lắc rắc, phủ lên núi non đồng dã

một tấm màn nước u ám mịt mờ. Bá Nhan xuống ngựa đỡ Triệu Hiển dậy, bất

giác cảm thấy đắc ý vô cùng, không kìm được thống khoái phá lên cười ha

hả. Mười vạn quân Nguyên hoan hô rầm rĩ phụ họa chủ soái. Quần thần Nam

triều vừa khiếp hãi vừa thương thân, đôi hàng nước mắt đầm đầm như mưa.

Người đương thời là Uông Nguyên Lượng có làm bài thơ than rằng:



Núi Tây Tái mặt trời chìm lấp,



Cửa Chính Bắc mưa bụi rắc rây.



Người bắc cười người nam nhỏ lệ



Đỗ quyên, ta vái một lạy này.[2]



.



Lương Tiêu theo đại quân xuống nam, chức là Bình chương chính sự, danh là phó soái toàn quân, thực chất chỉ ngất ngưởng với rượu, ngày nào cũng say

ngả say nghiêng, chẳng có lấy một phen tỉnh táo.



Sáng hôm ấy, sau một đêm túy lúy, gã thức giấc với cái đầu đau như búa bổ. A Tuyết thiết tha nài gã ra khỏi doanh trại dạo chơi cho khuây khỏa, Lương Tiêu không nỡ làm cô mếch lòng, đành miễn cưỡng ưng thuận.



Hai huynh muội

lỏng cương để ngựa đi tha thẩn ven hồ Tây Tử. Trước mắt họ là mây xám

nhàn nhạt, khói sóng mênh mang, đình đài lầu các vẫn vẹn nguyên cảnh cũ, chỉ khác là thiếu tiếng cầm ca réo rắt, bặt hơi đàn sáo rộn ràng, xa xa sương mù giăng kín chân trời khiến không gian ảm đạm, che mờ cả đường

nét hùng vĩ của núi Tây Tái.



Lương Tiêu ngắm Tây hồ, hồi tưởng

buổi đầu gặp gỡ cha con Hoa Thanh Uyên. Lúc ấy gã và Hiểu Sương còn nhỏ, chưa hiểu chuyện đời, tính tình rất đỗi hồn nhiên, ngày nay cảnh sắc

vẫn y nguyên mà sao tâm hồn không thể như trước nữa.



Lương Tiêu

đương bồi hồi thương cảm, chợt nghe văng vẳng tiếng hồ cầm, giai điệu

thảm não thê lương, liền đó có giọng ca hòa vào:



Chim chóc bay liền cánh,



Cây cỏ mọc liền cành,



Đáy nước từng đôi cá giỡn quanh,



Trên tổ uyên ương sánh,



Phố sá phồn hoa lấp lánh,



Thế gian thái bình.



Ngờ đâu nổi trận điêu linh,



Tây hồ tan vỡ mọi nhu tình.[3]



Khúc nhạc buồn nản nghẹn ngào, ngân nga hồi lâu không dứt.



Lương Tiêu thầm nhủ: “Chim chóc bay liền cánh,Cây cỏ mọc liền cành, Đáy nước

từng đôi cá giỡn quanh, Trên tổ uyên ương sánh. Quả thực Tây hồ được tự

nhiên ban cho nhiều vẻ phong lưu, dễ gợi hứng hưởng lạc. Trách nào vương công Đại Tống chẳng ham mê trác táng đến nỗi mất sạch tất cả, ngay cả

Tây hồ cũng không giữ được. Giá dành một nửa thời gian vui thú xa hoa ấy vào việc trị quốc rèn thân thì làm gì đến nông nỗi này?”. Càng nghĩ

càng u uất, gã tháo nậm rượu dốc một hơi cạn sạch.



Khi họ trở về

doanh trại thì đã quá trưa, Bá Nhan cho người tới triệu kiến. Lương Tiêu bảo A Tuyết về trước rồi chậm chạp đi vào trung quân, mới gần tới

trướng soái, đã nghe bên trong vọng ra nhiều tiếng nói cười nhộn nhạo.

Trông thấy gã, Bá Nhan hồ hởi gọi:



- Đến đúng lúc lắm, mau lại chào mấy vị khách quý!



Đám người hiện diện trong trướng cùng ngoảnh ra nhìn.



Lương Tiêu đảo mắt một vòng, mặt tái hẳn đi. Người ngồi bên phải Bá Nhan là

vương tử Thoát Hoan, bên trái là Hạ Đà La vận áo trắng phau. Mé dưới

Thoát Hoan là một lão già tóc bạc áo vàng, chính thị Hoàng hạc Minh Quy. Mé dưới Hạ Đà La là một lạt ma áo vàng vai u thịt bắp, tướng mạo thô

kệch đang xếp chân bằng tròn. Sau lưng bốn người này còn vài gương mặt

khác mà phần lớn Lương Tiêu đều đã gặp qua, lần lượt là Cáp Lý Tư, Hỏa

Chân Nhân, A Than tôn giả, cuối cùng là một lão già áo xanh lạ mặt, vóc

người cao gầy, mặt mũi xương xẩu, thần thái ôn hòa. Lương Tiêu không ngờ những kẻ đối địch mình lại khéo chọn thời gian và địa điểm để hội tụ

đến thế, bất giác tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, hơi rượu giã đi

quá nửa.



Thoát Hoan nhận ra kẻ thù cũ, nét mặt thoạt kinh ngạc thoạt giận dữ, nhưng chỉ thoáng chốc đã làm ra vẻ tươi tỉnh:



- Lương Tiêu đây à? Quả là tuổi trẻ tài cao đúng như lời đồn nhỉ!



Hắn nghiến răng trèo trẹo khi nói ra bốn chữ “tuổi trẻ tài cao”, rõ ràng là thù hận chứ chẳng ngụ ý tán thưởng gì. Bá Nhan đánh mắt ra hiệu cho

Lương Tiêu, đoạn vui vẻ giới thiệu:



- Vị này là Trấn Nam Vương Thoát Hoan, hiện đang tiếp quản Giang Nam.



Lương Tiêu vẫn đứng như bụt mọc, Bá Nhan cau mày:



- Gặp vương gia sao không hành lễ?



Lương Tiêu nhếch mép, ngước mắt nhìn nóc lều. Bá Nhan tuy bất hòa với Thoát

Hoan nhưng cũng không muốn hắn phải bẽ mặt trước đông người, đang khó xử thì Thoát Hoan phẩy tay, nói cộc lốc:



- Thôi, ta và Lương đại nhân cũng là chỗ quen biết cũ, chẳng phải quỳ lạy làm gì cho nhiêu khê!



Bá Nhan mỉm cười, tận dụng câu đó để thoát khỏi tình thế lúng túng, lại trỏ Minh Quy:



- Đây là Minh tiên sinh, quân sư mới của Trấn Nam Vương. Tiên sinh túc trí đa mưu, học nhiều hiểu rộng.



Minh Quy hơi ưỡn mình lên, phác một điệu bộ như cười với Lương Tiêu, nhưng

không tỏ tiếng nhận quen. Lương Tiêu ngạc nhiên tự hỏi, không hiểu tại

sao lão già kiêu ngạo này chịu khuất thân làm đầu sai cho Thoát Hoan. Bá Nhan chìa tay về phía lạt ma áo vàng:



- Đây là Đảm Ba đại sư, đại đệ tử của Đế sư[4] đương triều Bát Tư Ba.



Lương Tiêu giật mình, Đảm Ba thì gã không biết, nhưng danh tiếng Bát Tư Ba

thì gã đã từng nghe đến rồi. Thiên hạ đồn rằng người này bẩm sinh mẫn

tuệ, mười sáu tuổi gặp Hốt Tất Liệt là được phong ngay làm Đế sư, quyền

nghiêng một cõi, thanh uy hiển hách.



Đảm Ba chắp tay chào hỏi:



- Bình chương dụng binh như thần, danh thơm vang lừng đến cả triều ca, Đảm Ba kính ngưỡng đã lâu!



Lương Tiêu cúi mình đáp lễ, giọng bình thản:



- E rằng thiên hạ đồn đại quá lời!



Thoát Hoan thấy gã bái chào Đảm Ba mà không dập đầu lạy mình, bất giác hừ mũi tức giận. Bá Nhan toan dẫn kiến tới Hạ Đà La thì lão này đã đứng bật

dậy, hể hả nói tranh:



- Đúng là người nhà mà chẳng biết nhau, sái gia có mắt như mù, lỡ tay đắc tội chỗ nào thì mong Bình chương đại xá cho chỗ đó.



Ai cũng lấy làm lạ, không hiểu hai người quen nhau lúc nào và ở đâu. Lương Tiêu tự nhủ đánh kẻ chạy đi không đánh người chạy lại, lão già mặt trơ

trán bóng này đã nhận lỗi mà mình còn khiêu khích báo thù thì tỏ ra quá

hẹp hòi, bèn cười nhạt, quay đi định ngồi xuống, chợt nghe Cáp Lý Tư

hỏi:



- Bình chương đại nhân còn nhớ tiểu nhân không nhỉ?



Nhìn cái mặt hơn hớn và ánh mắt láo liên, Lương Tiêu cảnh giác gật đầu:



- Nhớ.



Cáp Lý Tư sải bước ra giữa sảnh, cười hì hì:



- Nếu đại nhân không chê Cáp Lý Tư thấy người sang bắt quàng làm họ thì

hãy tỏ tình thân mật chút nào! – Hắn chìa tay trái cho Lương Tiêu.



- Ừ thì tỏ! – Lương Tiêu đáp và giơ tay phải.



Đúng lúc tay hai người áp sát, chiếc nhẫn Xà Nhãn ma toan ở ngón giữa của Cáp Lý Tư vụt xoay mặt đá xuống hướng lòng bàn tay.



Bá Nhan trông thấy rõ mồn một, chưa kịp thét dừng thì tay hai người đã

chạm vào nhau rồi buông ngay ra. Lương Tiêu quay mình bước về ghế ngồi,

Cáp Lý Tư vẫn đứng đực tại chỗ, mắt nhìn xuống, mặt nhợt nhạt, thảng

thốt kêu lên:



- Bình chương đại nhân, xin dừng bước!



Lương Tiêu ngoái đầu:



- Sao nào?



Cáp Lý Tư lắp bắp:



- Nhẫn… nhẫn tôi…



- Nhẫn nào? – Lương Tiêu hỏi.



Cáp Lý Tư nhìn trân trân vào mặt Lương Tiêu, mắt rực lửa. Viên kim cương Xà Nhãn là báu vật gia truyền của nhà hắn, cứng rắn dị thường, cắt đứt

được cả đao kiếm bằng thép tinh, vừa rồi hắn định thừa cơ bắt tay để

chọc chủng bàn tay Lương Tiêu. Nào ngờ gã thiếu niên tương kế tựu kế,

thi triển ngay Như ý ảo ma thủ nhẹ nhàng tuốt chiếc nhẫn khỏi ngón tay

đối phương. Khi Cáp Lý Tư phát hiện ra biến cố thì Lương Tiêu đã thu tay về rồi. Không dưng mất cả chì lẫn chài, chưa đả thương được địch thủ đã bị cướp nhẫn quý, Cáp Lý Tư vừa kinh hãi vừa tức giận khôn tả.



Lương Tiêu nghênh ngang ngồi xuống, mặt thản nhiên như không. Cáp Lý Tư đứng

mãi đấy không tiện mà về chỗ cũng không xong, chực mở miệng kêu, chợt Hạ Đà La xì xà xì xồ mấy câu. Cáp Lý Tư sợ sệt lùi về sau lưng lão. Hạ Đà

La nhìn thẳng vào mặt Lương Tiêu:



- Bản lĩnh của Bình chương đại nhân thật cao cường! Con trai ta có chỗ nào mạo phạm, mong đại nhân thứ lỗi cho!



Lương Tiêu liếc Cáp Lý Tư, lạnh lùng hỏi:


tỏ lão quái không những học được động tác, tâm pháp của chiêu thức mà

còn cảm nhận được cả mức độ phát kình. Lương Tiêu chưa hết sửng sốt thì

đã thấy mình bị dồn vào góc lều, liền bật cao lộn nhào một vòng, đoạn từ trên không hất chân đá dập xuống ngực lão già theo chiêu thức Quảng

Thành Tử đảo thích đan lô. Lão già bắt chước ngay lập tức. Một người

trên cao, một người dưới thấp, khi hai bên lao qua nhau, Lương Tiêu bỗng cảm thấy đau nhói ở lưng, thì ra đã bị trúng đòn đá ngược của lão già.

Ngay tức thì, khối rượu óc ách trong bụng gã cuồn cuộn dâng trào, ộc hết cả ra miệng. Lão già quá đỗi bất ngờ, mặc dù giỏi bắt chước là thế mà

cũng không sao thực hiện được trò này, chưa kể lão đang trong tư thế

trồng cây chuối, nếu không kịp tránh thì nhất định sẽ bị bãi nôn của

Lương Tiêu bắn hết vào người. Lão tức quá kêu oai oái, ngả mình xuống

như cỏ rạp trước gió, trườn ra xa một trượng.



Tận dụng khoảnh

khắc đó, Lương Tiêu liền lật mình đáp xuống, đứng vững rồi ngước mắt

nhìn, gặp ngay bộ mặt cáu kỉnh và cặp mắt trừng trợn của lão già:



- Đồ xấu xa, công phu phun nước đấy tên là gì vậy?



Lương Tiêu vẫn còn đau lưng, nghe vậy bực bội đáp:



- Tên là Thiên hà lơ lửng!



Lão già gãi đầu:



- Thiên hà lơ lửng, thế quái nào mà chưa nghe bao giờ? Ái chà, không nhớ được, không nhớ được!



Hai tay lão gõ đầu, vẻ mặt sốt ruột.



Lương Tiêu thầm nhủ: “Lão này điên điên khùng khùng mà võ công cao cường kỳ

dị quá! Ta đánh không lại, ba mươi sáu chước, chước chuồn là hơn”. Thình lình, một cái bóng trắng nháng hiện ngoài cửa. Hạ Đà La lướt vào, chân

không chấm đất, khuôn mặt nham hiểm, trông thấy lão quái liền cười ré

lên:



- Bạn thân mến ơi, tính toán giỏi thế, nấp đâu không nấp lại nấp vào đây làm sái gia tìm bở hơi tai!



Lão già trợn trắng mắt:



- Ngươi là kẻ nào? Ai là bạn thân mến của ngươi?



Hạ Đà La nghĩ bụng: “Mới giao đấu một trận dữ dội mà đã quên ta rồi sao?

Hừ, chắc hắn cố ý nhục mạ ta đây”, đoạn cười nhạt, nắm song quyền đẩy

ra. Lúc này hai người đang đứng cách nhau mười trượng, Lương Tiêu sửng

sốt: “Lẽ nào quyền kình của tên này bắn đi xa được đến mười trượng?”.

Trong lúc đó, Hạ Đà La đã băng tới gần ba trượng, thoắt một cái xòe tay

thành chưởng, lại rút ngắn gần ba trượng nữa, lần này tay nắm thành

quyền. Thoắt chưởng thoắt quyền như thế thêm ba lần, khoảng cách giữa

hai người chỉ còn không quá năm thước.



Lão già tròn xoe mắt nhìn đôi tay của Hạ Đà La, vẻ mặt rất chăm chú.



Lương Tiêu đứng bên xem, nhác thấy song chưởng của Hạ Đà La nhích động, bất

giác tự hỏi: “Hắn sắp biến quyền hay dùng chưởng đây? Ờ, phải rồi, chắc

là dùng chưởng”. Không ngờ Hạ Đà La thét một tiếng, lại nắm song quyền

đẩy ra. Ở bên kia, lão quái xẹt tới xuất chưởng, kình chạm kình, cuồng

phong nổi lên khiến cốc đĩa nhảy tâng tâng rồi rơi xuống vỡ loảng xoảng, căn lều rộng lớn cũng nghiêng ngả lắc lư.



Sau chiêu đầu tiên,

hai người cùng giật lui ba trượng, vừa hò hét inh tai vừa xuất thủ từ

xa, đôi tay co duỗi khum gập nhanh như chảo chớp, thoắt chưởng thoắt

quyền, thoắt trảo thoắt chỉ, hệt như trò đánh toan[6] lúc uống rượu cao

hứng, chỉ khác là động tác chứa đầy kình lực, thế gian thật hiếm thấy.

Ban nãy Lương Tiêu đoán sai động tác xuất thủ của Hạ Đà La, lúc này nhân dịp quan chiến ngầm tập suy luận xem họ ra nắm tay hay bàn tay, ngón

tay duỗi hay khum, nào ngờ xem liền mười chiêu mà chỉ đoán trúng hai ba

chiêu. Đáng ngạc nhiên là, Hạ Đà La xuất thủ rất rõ ràng gãy gọn mà lão

già nọ không bắt chước nổi một chiêu một thức nào của hắn.



Lương

Tiêu toàn đoán sai, trong dạ buồn bực. Hai người ra chiêu càng lúc càng

chậm, nhưng chưởng phong lại dày nặng và sắc bén hơn lên. Thình lình,

chưởng thế của Hạ Đà La ngưng hẳn, lão già nọ thét vang, bước lên một

bước, phát chéo chưởng, đẩy chệch luồng kình của Hạ Đà La vào vách lều,

cột chống gãy luôn làm ba giữa những tiếng răng rắc. Lương Tiêu chột dạ

phi thân khỏi trướng, chưa đứng vững đã nghe liền một hồi rắc rắc, căn

lều sụp hẳn, phủ lên Hạ Đà La và quái nhân. Hai bóng người vẫn di chuyển dưới lớp vải da trâu, thoắt tiến thoắt lui như long xà trườn quẫy. Lều

đổ đã đánh động cả trại, tứ phía nhốn nháo, tướng sĩ nhốn nháo tuôn đến

xem.



Nhóm Bá Nhan cũng đã quay về, định chạy lại gần, nhưng nội

kình của hai đấu thủ bắn cả ra ngoài qua lớp vải lều, xem chừng có thể

đả thương người. Bá Nhan khó lòng tiếp cận, bèn ra lệnh lấy cung tiễn,

kéo căng cung ngắm vào hai người dưới lớp vải, nhưng họ tiến lui thần

tốc, nhất thời y không phân biệt được ai với ai.



Hạ Đà La và quái nhân đấu suốt nửa canh giờ. Đám đông bên ngoài chưa biết thắng thua thế nào, đúng lúc bắt đầu sốt ruột thì nghe thấy một tiếng động lạ lùng,

lớp lều da trâu thủng hai lỗ. Hai bóng người vừa hú hét vừa song song

nhảy vút lên không, xuất liền bảy chưởng như chớp giật. Hạ Đà La vụt lảo đảo, ngã ngửa người ra. Lão già rú vang tung mình xáp tới, quật bốn

chưởng vù vù như gió táp sóng xô. Hạ Đà La né mình tránh được ba chưởng, nhưng không né nổi chưởng thứ tư, định xòe tay chắn đỡ thì Bá Nhan vụt

thả dây cung, ba mũi tên nối nhau bắn về phía lão già.



Lão già võ công tuy cao nhưng cũng không dám khinh suất, vội co mình tránh tiễn,

lại thu chưởng quơ đánh, gạt rơi được hai mũi tên. Hạ Đà La thừa cơ tống một quyền trúng ngực lão. Quái nhân hú dài, bắn ngược người ra sau,

thân hình như làn khói nhẹ, như chim hồng bay cao, chỉ nhấp nhô một lượt là lướt đi xa đến hơn mười trượng, vượt qua đầu toán lính, ẩn vào sau

một căn lều. Hạ Đà La cũng lật mình đáp xuống đất, giật lui chừng nửa bộ mới đứng vững. Hắn hít một hơi thật sâu, bộ mặt nhợt nhạt.





Nhan hạ cung tiễn, dõi mắt chăm chú nhìn vào chỗ lão già mất hút, đôi

lông mày rậm cau rúm. Y đã dồn toàn lực vào ba mũi tên vừa rồi, không

ngờ đều trượt đích. Lão già đó đã trúng một quyền của Hạ Đà La mà còn di chuyển nhanh nhẹn như vậy, võ công quả thực cao thâm khôn lường. Bá

Nhan nghĩ nát óc cũng không đoán ra gốc gác của nhân vật này, đành hỏi

Hạ Đà La:



- Tiên sinh có nhận ra lai lịch người đó không?



Hạ Đà La mím môi, lắc đầu im lặng. Một cái bóng xanh chợt nháng lên, lão

già cao gầy xẹt đến trước mặt hắn, rút ra một chiếc bình ngọc trắng như

mỡ dê, dốc lấy ba viên đan dược, cười khì khì bảo:



- Mạch Âm duy của đại sư hơi bị tắc, mau uống ba viên thuốc này để chữa trị.



Hạ Đà La đón lấy thuốc, hít ngửi nhưng không uống ngay, ánh mắt lướt một

vòng rồi dừng lại ở Cáp Lý Tư. Tên này bắt gặp ánh nhìn của cha, cơ mặt

giật nhẹ, bỗng cười hì hì tiến đến, nhón viên thuốc uống luôn. Hạ Đà La

quan sát hắn chốc lát, thấy không vấn đề gì mới uống nốt phần còn lại,

thở ra hít vào vài lượt xong vui vẻ khen:



- Đan dược của Thường tiên sinh quả nhiên linh nghiệm!



Bá Nhan giật mình, đưa mắt sang lão già áo xanh:



- Tiên sinh họ Thường à? Phải chăng là Tiếu Diêm vương?



Lão già áo xanh sững người một thoáng rồi tươi mặt:



- Kẻ bất tài này chính là Thường Ninh, tên tuổi hèn kém mà được Thừa

tướng biết đến, thật vinh hạnh muôn phần! – Lời nói nhún nhường, nhưng

vẻ mặt vô cùng đắc ý.



Bá Nhan cười nhạt, không nói gì nữa. Lương

Tiêu tự nhủ: “Y thuật của lão này xem chừng không tệ, sao lại đặt ngoại

hiệu là Tiếu Diêm vương?”.



Hạ Đà La đảo mắt nhìn quanh rồi dừng lại ở Minh Quy:



- Minh tiên sinh kiến văn quảng bác, chẳng hay có đoán ra thân thế của con người kỳ dị kia chăng?



Minh Quy mỉm cười:



- Minh mỗ tầm nhìn hạn hẹp, quả có thầm điểm qua vài gương mặt, nhưng

ngẫm kỹ lại thấy không giống cho lắm, mong Hạ tiên sinh chỉ giáo.



Hạ Đà La nói vẻ thâm độc:



- Minh tiên sinh còn không biết, sái gia làm sao biết được. Kẻ ấy xuất

thủ bát nháo khiến người ta không sao nắm bắt được đường lối võ công.



Minh Quy cười:



- Hạ tiên sinh khiêm tốn thế, bất kể kẻ đó là ai, lần sau gặp mặt cũng không dễ mà thoát khỏi tay tiên sinh đâu.



Hai kẻ trông bề ngoài thì cứ tôn xưng nhau lên, thực ra ngấm ngầm mai mỉa

lẫn nhau. Hạ Đà La đấu với quái nhân nọ, rõ ràng yếu thế, thẩm hiểu dẫu

mai sau còn tái đấu thì cũng chỉ đủ sức tự vệ chứ đừng mơ thắng được lão ta. Vốn là kẻ mặt dày giỏi nín nhịn, nghe giọng khích bác ngầm của Minh Quy, hắn vẫn làm ra bộ hân hoan:



- Minh tiên sinh quá khen!



Minh Quy tủm tỉm cười. Lương Tiêu thừa hiểu tính lão, nhìn lối ăn nói cử chỉ kia là đủ biết lão đã đoán ra lai lịch quái nhân nọ, nhưng vì sao không muốn tiết lộ? Trầm ngâm một lát, gã chợt hiểu ra: “Bề ngoài, lão già và Hạ Đà La cùng chung một thuyền, đều là hai cánh tay phù trợ cho Thoát

Hoan, nhưng thực tế thì không được hòa thuận cho lắm. Lão họ Minh biết

mà không nói, cốt để Hạ Đà La không nắm được thực lực của quái nhân, lần sau giao thủ nhẹ thì thủ hòa, nặng thì thất bại khốn đốn”.



[1] Rồng gầm Tây Tái. Tây Tái là một ngọn núi ở mặt tây nam Hồ Châu.



[2] Bài Tiền Đường ca của thi nhân – từ nhân Uông Nguyên Lượng thời Tống

mạt. Câu cuối bài này mượn hình ảnh chim đỗ quyên với tiếng hót ai oán

trong bài thơ Đỗ quyên của Đỗ Công Bộ để tả mối sầu vong quốc.



[3] Bài tản khúc Tây hồ xuân cảm của Lưu Chí thời Nguyên.



[4] Đế sư là chức quan đặt ra dưới triều Nguyên, dành cho vị tăng lữ cao

cấp nhất trong Phật giáo Tạng truyền, vừa đảm nhiệm các vấn đề tôn giáo

của cả nước vừa điều hành chính sự khu vực Tây Tạng. Bát Tư Ba (tức

BLo-gros rgyal-mtshan hPhags-pa) là người đầu tiên giữ chức Đế sư, học

vấn cao, được Hốt Tất Liệt rất quý trọng.



[5] Phật giáo Tây Tạng

coi Lạt ma là hiện thân của Đức Phật chứ không chỉ là người tu hành kinh kệ bình thường trong thiền viện hay chùa chiền.



[6] Một trò chơi rất phổ biến ở Trung Quốc, tương tự oẳn tù tì của ta, thường chơi khi

uống rượu. Có nhiều cách chơi, phổ biến nhất là hai người cùng hô những

khẩu lệnh có vần điệu khác nhau đồng thời xòe các ngón tay ra để đọ, ai

thua bị phạt uống rượu.