Địa Đồ Di Cốt

Chương 14 : Ngày thứ tư

Ngày đăng: 16:32 19/04/20


Gô tích



Ngày 27 tháng 7, lúc 6 giờ 2 phút



Washington, D.C.



Giám đốc Painter Crowe biết rằng ông sẽ lại có một đêm không ngủ nữa. Ông đã nghe báo cáo từ Ai Cập về một vụ tấn công tại cảng phía đông của Alexandria. Liệu nhóm của Gray có tham gia vào đó không? Không có vệ tinh trinh sát trên bầu trời, không thể điều tra từ trên không được.



Và cũng chưa có tin tức gì từ chỗ đó về cả. Bức điện cuối cùng nhận được cách đây mười hai giờ, Painter tiếc đã không thông tin cho Gray Piere về sự nghi ngờ của ông. Thực ra lúc ấy mới chỉ là nghi ngờ mà thôi. Painter cần phải có thời gian để tập hợp thêm những thông tin tình báo. Dù vậy, ông cũng chưa chắc chắn. Nếu như tiến hành quá mạnh bạo kẻ phản bội sẽ biết y đã bị phát hiện. Điều đó sẽ đặt Gray và nhóm của anh vào vòng nguy hiểm hơn nữa.



Vì vậy Painter làm việc một mình.



Một tiếng gõ ở cửa văn phòng buộc ông phải rời mắt khỏi màn hình vi tính. Ông tắt máy vi tính để giấu công việc đang làm. Ông ấn nút mở khóa cửa. Thư ký của ông hôm nay đi vắng cả ngày.



Logan Gregory bước vào. “Máy bay của họ đang chuẩn bị hạ cánh.”



“Vẫn hướng về phía Mác-xây?” Painter hỏi.



Logan gật đầu. “Sẽ đỗ xuống trong vòng mười tám phút nữa. Vào lúc nửa đêm giờ địa phương.”



“Tại sao lại là Pháp nhỉ?” Painter xoa xoa cặp mắt mệt mỏi. “Liệu có phải họ vẫn giữ yên lặng, không thông tin với bên ngoài?”



“Viên phi công sẽ khẳng định điểm đến của họ, nhưng ngoài ra không còn gì nữa. Tôi đã cố gắng làm việc với Hải quan Pháp. Có hai hành khách trên máy bay.”



“Chỉ có hai người?” Painter ngồi thẳng dậy, chau mày.



“Họ bay dưới hộ chiếu ngoại giao. Không xưng danh. Tôi có thể cố gắng tìm thêm thông tin về điều này.”



Painter thấy cần tiến hành công việc một cách thận trọng từ bây giờ. “Không được” ông nói. “Điều ấy sẽ làm họ cảnh giác. Có thể họ muốn hoạt động của mình bí mật. Chúng ta hãy cho họ một số quyền. Từ nay trở đi.”



“Vâng, thưa ngài. Tôi có nhận được thỉnh cầu từ Rome. Vatican và lực lượng cảnh sát không nhận được tin tức gì nên họ thấy sốt ruột.”



Painter nghĩ phải cung cấp cho họ điều gì đó nếu không nhà cầm quyền Liên minh Châu Âu có thể phản ứng gay gắt. Ông cân nhắc các phương án. Có lẽ cũng không lâu, nhà cầm quyền châu Âu cũng sẽ biết đến những người này. Có lẽ phải làm vậy thôi.



“Hãy tỏ ra hợp tác” Cuối cùng ông nói. “Hãy cho họ biết về chuyến bay tới Mác-xây và rằng sẽ chuyển thêm cho họ thông tin mới nếu chúng ta nhận được.”



“Vâng, thưa ngài.”



Painter nhìn vào màn hình trống rỗng của máy vi tính. Ông có thể bấm nút thu hẹp màn hình lại. “Khi nào anh liên hệ với họ xong, tôi muốn anh giúp tôi một việc, đến chỗ DARPA.”



Logan trợn mắt.



“Tôi có vài thứ quan trọng cần mang trực tiếp đến Tiến sĩ Sean McKnight”. Painter nhét một bì thư có đóng dấu vào túi giao liên màu đỏ. “Nhưng đừng để ai biết rằng anh đi tới đó.”



Cặp mắt Logan nheo lại trông thật lạ lùng nhưng rồi anh ta cũng gật đầu. “Tôi sẽ thu xếp chuyện đó” Logan cầm lấy cái túi, kẹp vào nách rồi bước đi.



Painter nói với theo: “Nhớ là phải giữ tuyệt đối bí mật.”



“Giám đốc có thể tin ở tôi” Logan đáp một cách chắc chắn rồi đóng sập cửa lại.



Painter bật máy tính lên. Trên màn hình là bản đồ Địa Trung Hải với những đường vạch vàng và xanh đan xen chi chít. Đường bay của vệ tinh. Ông chỉ vào một đường. Vệ tinh mới nhất của NRO, có tên là Mắt chim ưng. Ông ấn đúp chuột để xem chi tiết và chỉ dẫn.



Painter đánh chữ Mác-xây (Marseille). Giờ địa phương hiện ra. Ông kiểm tra với bản đồ thời tiết. Một cơn bão quét qua vùng phía Nam nước Pháp. Mây dày đặc sẽ cản trở tầm nhìn. Cơ hội của cửa quan sát bị thu hẹp lại.



Painter nhìn đồng hồ. Ông nhấc máy gọi cho an ninh. “Hãy cho tôi biết khi nào Logan Gregory rời sở chỉ huy trung tâm.”



“Vâng, thưa ngài” Thời gian là cốt tử. Ông chờ thêm mười lăm phút nữa, nhìn cơn bão tràn qua Tây Âu.



“Bình thường thôi” Ông lẩm bẩm.



Có tiếng chuông điện thoại. Painter được khẳng định rằng Logan đã rời đi, rồi ông đứng dậy và ra khỏi văn phòng. Phòng vệ tinh thám sát ở dưới đó một tầng, cạnh phòng làm việc của Logan. Ông chạy vội xuống, chỉ thấy một nhân viên kỹ thuật đang vào cuốn sổ nhật biên, bên cạnh ngổn ngang các loại màn hình và máy tính.



Anh nhân viên rất ngạc nhiên trước sự xuất hiện đột ngột của sếp mình, đứng phắt dậy. “Thưa ngài giám đốc Crowe… tôi có thể giúp gì cho ngài?



“Tôi cần bản in của vệ tinh Mắt chim ưng số 4.”



“Mắt chim ưng?”



Painter gật đầu.



“Việc giao băng là ngoài thẩm quyền của tôi…”



Painter chìa ra một tờ giấy trước mặt anh ta. Nó chỉ có giá trị trong vòng nửa giờ nữa do Sean McKnight ký.



Viên kỹ thuật mở to mắt rồi bắt đầu vào việc. “Ngài không cần phải xuống tận đây làm gì. Tiến sĩ Gregory có thể mang tài liệu lên phòng ngài.”



“Logan đi rồi.” Painter đặt tay lên vai viên kỹ thuật. “Tôi cũng cần tất cả những gì thu được trong đoạn băng này phải xóa đi. Không thu lại. Không một lời nào để đoạn băng đó tại đây. Ngay cả tại Sigma.”



“Vâng, thưa ngài”



Viên kỹ thuật chỉ vào màn hình. “Nó sẽ hiện lên màn hình này. Tôi cần mã số để vào.”



Painter cung cấp cho anh ta.



Sau đến một phút, một cái sân bay tối mờ mờ hiện lên trên màn hình.



Sân bay Mác-xây (Marseille).



Painter yêu cầu phóng to hơn một cửa của sân bay. Những hình ảnh nhảy múa rồi rõ dần. Một chiếc máy bay nhỏ xuất hiện, loại Citation X.



Nó đậu gần cửa ra vào, cửa máy bay mở ra. Painter cúi người ra phía trước, che lấp hình ảnh đối với viên kỹ thuật.



Liệu ông có muộn không?



Các hoạt động diễn ra chậm chạp. Một bóng người, rồi một bóng nữa bước vào tầm nhìn. Họ vội vã xuống cầu thang máy bay. Painter không cần phải phóng to khuôn mặt của họ.



Ngài Verona và Kat Bryan.



Painter chờ tiếp. BIết đâu hình vừa rồi không đúng. Có khi cả bọn họ vẫn ở trên máy bay.



Màn hình rung chuyển với những vệt sáng chạy loằng ngoằng.



“Thời tiết xấu xuất hiện”. Viên kỹ thuật nói.



Painter trợn mắt. Không một hành khách nào nữa xuất hiện. Kat và ngài linh mục biến mất qua cửa. Với cặp mắt đầy lo âu, Painter vẫy tay ra hiệu cắt việc tiếp vệ tinh.



Ông cảm ơn anh ta rồi bước đi.



Vậy Gray ở chỗ quái quỷ nào nhỉ?



***



1 giờ 4 phút sáng



Geneva, Thụy Sỹ



Gray ngồi ở khoang hạng nhất trên chuyến bay của hàng không Ai Cập. Anh phải cảm ơn Long Đình. Họ không tiếc tiền. Anh nhìn quanh cái khoang hành khách nhỏ, sáu người. Một hoặc có thể nhiều hơn gián điệp của Long Đình đang theo dõi anh.



Chẳng sao cả. Sự hợp tác của anh đến nay… vẫn là đầy đủ.



Anh đã lấy vé máy bay và thẻ căn cước giả ở một ô hành lý trạm xe buýt rồi đi thẳng ra sân bay. Đó là chuyến bay liên tục bốn giờ. Anh ăn một bữa ngon miệng, uống hai cốc vang đỏ, xem một cuốn phim có Julia Robert đóng rồi còn ngủ được một giấc khoảng bốn mươi phút.



Anh quay ra cửa sổ. Chiếc chìa khóa vàng cựa quậy trên ngực anh. Nó được cài vào một sợi dây trên cổ. Thân nhiệt trên cơ thể anh đã làm mảnh kim loại đó ấm đôi chút nhưng vẫn nặng trĩu lạnh toát. Sinh mạng của hai con người phụ thuộc vào đó. Anh hình dung ra Monk, tính cách dễ chịu, đôi mắt sắc sảo và một trái tim nhân hậu. Và Rachel. Một sự pha trộn của thép và lụa, phức tạp và sôi nổi. Nhưng cú điện thoại cuối cùng của cô gọi anh đầy sự đau đớn và sợ hãi. Anh đau buốt đến tận tủy khi nghĩ đến chuyện cô bị bắt ngay dưới mũi mình.



Ánh đèn hắt lên từ Geneva lấp lánh. Ánh trăng dát bạc lên các đỉnh núi và hồ. Máy bay đã bay qua một phần sông Rhône chia đôi thành phố. Càng máy bay hạ xuống nghe kịch một cái. Một lát sau đã đáp xuống sân bay quốc tế Geneva.



Họ đi ô tô ra cửa, Gray chờ cho mọi người đóng gói kỹ lưỡng đồ của mình lên. Anh hy vọng đã mang đủ những thứ cần dùng. Khoác chiếc túi lên vai, anh bước ra.



Khi đã ra khỏi ca-bin hạng nhất, anh cố xem có dấu vết gì nguy hiểm không.



Và từng người khách đi cùng chuyến bay.




“Vậy điều gì đến với tất cả công việc của họ?” Kat hỏi.



“Tôi không biết. Rất nhiều người cuối cùng đã đến với cái chết. Nhưng một đồng nghiệp khác của Newton, Robert Boyle, cũng nghiên cứu về vàng giả kim. Nhưng có cái gì đó làm ông lưu ý, một cái gì đó làm ông phát hiện ra. Ông dừng nghiên cứu. Ông chấm dứt việc nghiên cứu và tuyên bố những nghiên cứu ấy rất nguy hiểm. Thật sự nguy hiểm, ông nói việc lạm dụng nó có thể làm rối loạn loài người, biến quả đất thành một thảm họa. Nó tạo ra một phép màu về cái làm ông sợ. Liệu có phải ông ta đã đề cập đến một cái gì đấy đẩy cái hội những nhà giả kim đã mất của chúng ta tụt sâu xuống lòng đất không?”



Kat lắc đầu “Những hòn đá của các nhà Triết học liên quan gì đến kiến trúc Gô-tich”



“Hơn là cô tưởng. Một người Pháp vào đầu TK XII, tên là Fulcanelit, đã có một tác phẩm rất nổi tiếng có tên Sự bí hiểm của các nhà thờ. Nó đã mô tả chi tiết những nhà thờ Gô-tich ở Châu Âu đã được mã hóa những thông điệp bí ẩn, dẫn đến những dòng chảy của những kiến thức đã mất, trong đó có cách làm hòn đá của nhà Triết học và các bí mật về giả kim khác.”



“Mật mã trong đá?”



“Đừng ngạc nhiên. Đấy là cái nhà thờ đang làm rồi. Hầu hết dân cư lúc đó đều không biết chữ. Việc trang hoàng các nhà thờ đều phải có chỉ dẫn và đầy đủ thông tin, kể chuyện về Kinh thánh qua những tác phẩm bằng đá. Và nên nhớ như tôi đã nói, ai là người xây nên những sách truyện về những nhà thờ Gotich khổng lồ ấy?”



“Các hiệp sĩ Templar” Kat nói.



“Một nhóm được biết đã thu thập các kiến thức bí ẩn từ đền thờ Solomon. Vì vậy bên cạnh những việc kể những truyện trong Kinh Thánh, họ còn lồng ghép vào một vài thông điệp bổ sung đã được mã hóa, dành riêng cho những nhà giả kim thợ nề đồng nghiệp.”



Kat vẫn thấy ngờ ngợ.



“Người ta chỉ cần nhìn kỹ vào một vài công trình Gô tich cũng đã ngạc nhiên. Các loại tranh ảnh thánh thì đầy những hình tượng về mười hai con giáp, những câu đố toán học, những mê cung hình học xuất phát ngay từ những văn bản giả kim thời kỳ đó. Ngay cả tác giả của cuốn Thằng gù nhà thờ Đức Bà Victor Hugo cũng đã dành cả một chương để dè bỉu công trình Nhà Thờ Đức Bà mâu thuẫn với nhà thờ Cơ đốc giáo. Mô tả nghê thuật Gô-tích như những trang nổi loạn bằng đá.”



Vigor chỉ về phía trước qua những cái cây. Công viên chấm dứt khi tiến tới lâu đài Quảng trường. “Và Fulcanelli và Hugo không phải là những người duy nhất đã tin rằng có cái gì đó phản đồ liên quan đến những công trình của những Hiệp sĩ Templar. Cô có biết vì sao ngày thứ Sáu 13 được coi là ngày không may mắn không?”



Kat liếc nhìn ông rồi lắc đầu.



“Ngày 13 tháng 10, 1307. Ngày thứ sáu. Nhà vua nước Pháp cùng với Giáo hoàng đã tuyên bố những hiệp sĩ Templar là những kẻ phản đồ, ghép họ vào tội chết, câu rút và thiêu sống người cầm đầu của họ. Người ta tin rằng lý do thực sự của việc các hiệp sĩ bị đặt ra ngoài vòng pháp luật là để giành lại quyền lực trong tay họ và quyền kiểm soát của cải của họ trong đó có cả những kiến thức bí mật mà họ sở hữu. Nhà vua nước Pháp đã tra tấn hàng ngàn hiệp sĩ, nhưng những nơi cất giấu của cải của họ không bao giờ bị phát hiện ra. Chính vậy, đã đánh dấu chấm hết đối với các Hiệp sĩ Templar.”



“Thực sự đó là một ngày không may đối với họ.”



“Đúng ra đấy là cả một thế kỷ không may mắn” Vigor dẫn đường đi ra khỏi công viên dọc theo con đường có hai hàng cây dẫn đến trung tâm thành phố. “Sự chia rẽ giữa nhà thờ và các vị hiệp sĩ đã bắt đầu từ một trăm năm trước đó khi Giáo hoàng Thơ ngay III đã quét sạch một cách man rợ một giáo phái của những người ngộ đạo Thiên chúa giáo có liên hệ với các Hiệp sĩ Templar. Đó thực sự là một cuộc chiến dài tới một thế kỷ giữa đạo chính thống và Ngộ đạo.



“Và chúng ta biết ai đã thắng trận ấy” Kat nói.



“Liệu có phải vậy không? Tôi vẫn phân vân nếu như đó không phải là một chiến thắng của sự đồng hóa. Nếu như người ta không đánh bại được thì phải hòa nhập với họ. Một tài liệu thú vị xuất hiện vào tháng 9 năm 2001 có tên là tài liệu Chinon. Nó là một cuộn giấy có niên kỷ một năm trước ngày thứ Sáu đẫm máu thế kỷ XIV, do Giáo hoàng Nhân từ V ký, tuyên bố xá tội và miễn truy cứu các Hiệp sĩ Templar. Nhưng không may, nhà vua Phillip của nước Pháp phớt lờ điều đó, tiếp tục cuộc tàn sát trên phạm vi toàn quốc đối với các Hiệp sĩ. Nhưng tại sao lại có sự thay đổi về con tim của nhà thờ? Tại sao Giáo hoàng nhân từ xây lâu đài Avagnon ở đây theo truyền thống Gô-tich do những người thợ nề phản đồ xây dựng? Và tại sao trên thực tế Avagnon trở thành trung tâm Gô-tích của Châu Âu?”



“Liệu có phải ông gợi ý rằng nhà thờ đã quay ngoắt lại và dang tay ôm các Hiệp sĩ vào lòng không?”



“Hãy nhớ rằng chúng ta đã đi tới kết luận rằng một vài khía cạnh của những người Thiên chúa giáo Thomas, những người thiên chúa giáo với những kiến thức về ngộ đạo, đã được cất giấu bên trong nhà thờ. Có thể họ đã thuyết phục Giáo hoàng nhân từ can thiệp để bảo vệ những vị hiệp sĩ khỏi sự tàn sát của vua Phillip.”



“Để làm gì?”



“Để cất giấu cái gì đấy có giá trị lớn lao đối với Nhà thờ và đối với thế giới. Trong thế kỷ của Giáo hoàng Avignon, đã có sự bùng nổ về xây dựng diễn ra ở đây, rất nhiều thứ đó đã được giám sát bởi đứa con của Solomon. Họ có thể dễ dàng chôn giấu gì đấy có kích thước lớn.”



“Nhưng chúng ta sẽ bắt đầu tìm kiếm từ đâu?” Kat hỏi.



“Từ công trình mà vị Giáo hoàng cho phép, xây dựng bởi những bàn tay của các Hiệp sĩ, một trong những công trình vĩ đại nhất của kiến trúc Gô-tích.”



Vigor chỉ lên phía trước, khi con đường đi vào một quảng trường rộng, đang có rất đông những người tham gia liên hoan. Những ánh sáng màu tạo nên một khu vực nhảy múa, một dàn nhạc rock và một sân khấu tạm thời được dựng lên, đám thanh niên đang vặn vẹo, cười đùa, la hét. Dọc theo đó, những chiếc bàn đã được kê dành cho những người tham gia liên hoan. Một nghệ sĩ xiếc đang phun những thanh lửa lên trên bầu trời đêm. Tiếng vỗ tay động viên. Bia tuôn chảy cùng với những chiếc cốc giấy đựng café. Những dòng khói thuốc lá cùng với các loại lá được cuộn bằng tay.



Nhưng trên nền của đám tiệc vui vẻ đó là một cấu trúc vĩ đại màu đen sẫm nằm án ngữ, tạo nên bởi những tháp hình vuông, phía trước là những đường vòm cong bằng đá nổi bật lên bởi hai cái tháp hình chóp nhọn. Mặt ngoài bằng đá của chúng tạo nên một sự tương phản rõ rệt với khung cảnh vui vẻ phía dưới. Lịch sử đang đè nặng lên… và một bí mật của thời xa xưa.



Lâu đài của các vị Giáo hoàng.



“Một nơi nào đó trong cái kiến trúc này có một trang phản đồ của đá” Vigor nói, bước lại gần Kat hơn “Tôi tin chắc như vậy. Chúng ta phải tìm ra và giải mã nó.”



“Nhưng chúng ta bắt đầu tìm kiếm từ đâu?”



Vigor lắc đầu “Bất cứ cái gì đã làm Robert Boyle hoảng sợ, những bí mật kinh khủng tạo nên liên minh giữa các Hiệp sĩ phản đồ và nhà thờ chính thống, bất cứ bí mật nào đòi hỏi phải có một cuộc săn lùng báu vật trên Địa Trung Hải để tìm ra lời giải đáp được cất giấu ở đây.”



Vigor cảm thấy một luồng gió mạnh thổi vào từ phía con sông. Avignon được đặt tên từ những đợt gió mạnh thổi liên tục từ con sông, nhưng ông có cảm giác một cơn bão thực sự sẽ đến.



Trên trời, những ngôi sao đã lặn. Những đám mây đen đang hạ thấp.



Họ còn được bao nhiêu thời gian?



***



2 giờ 48 phút sáng



Lausanne Thụy Sỹ



“Đó là những gì chúng tôi tính toán ở Avignon” Rachel kết thúc ”Vatican của nước Pháp. Đó là điểm dừng chân tiếp theo và cuối cùn.”



Cô vẫn quỳ trên nền đá. Bà ngoại cô vẫn bị trói ở trên bàn. Cô đã kể cho chúng hết mọi thứ, không bỏ sót một chi tiết nào. Cô trả lời tất cả câu hỏi của Alberto. Cô không cố gắng quanh co. Cô không mạo hiểm việc chúng sẽ kiểm chứng sự thật bằng chính da thịt của bà ngoại mình.



Monk và Rachel là những người lính. Nhưng bà của cô không phải.



Rachel không thể để chúng làm hại bà. Cái chính là tùy thuộc vào Gray người đang cầm chiếc chìa khóa vàng từ Long Đình. Cô đã chuyển giao toàn bộ hy vọng và lòng tin cho anh. Cô không còn sự lựa chọn nào khác.



Trong khi cô kể, Alberto vẫn ghi chép, quay lại văn phòng của gã để lấy giấy bút cùng với tấm bản đồ của Rachel. Gã gật đầu khi cô kết thúc, chứng tỏ là gã rất tin.



“Tất nhiên” Gã nói “Thật đơn giản, thật tài tình. Cuối cùng thì tôi cũng có thể tìm ra điều ấy, nhưng giờ thì cố gắng của tôi sẽ là tìm cách khám phá bí mật tiếp theo ở Avignon.”



Alberto quay lại Raoul.



Rachel sợ cứng người. Cô nhớ đến điều xảy ra lần trước. Ngay cả khi cô đã nói cho chúng sự thật về chiếc chìa khóa vàng, Raoul vẫn chặt đứt bàn tay của Monk.



“Thế ngài Verona và người Mỹ kia giờ đang ở đâu?” Alberto hỏi.



“Lần cuối cùng tôi nghe nói là họ đang đi tới Mac-xây.” Hắn nói “Bằng chuyên cơ của chúng. Tôi nghĩ chúng tuân theo điều được yêu cầu. Tiếp cận gần nhưng không được tới Italy.”



“Mac-xây chỉ cách hai mươi phút ô tô với Avignon”. Alberto chau mày. “Ngài Verona đã bắt đầu trên đường giải đáp điều bí mật. Hãy xem máy bay của ông ta đã hạ cánh chưa?”



Raoul gật đầu rồi truyền đạt mệnh lệnh đến một trong những tên thuộc hạ để tên kia lập tức chạy xuống dưới sảnh.



Rachel chậm rãi đứng dậy. “Bà ngoại tôi…” Cô nói “Liệu các ông có cho bà cụ đi không?”



Alberto vẫy tay như thể gã đã quên khuấy mất bà cụ, rõ ràng gã còn có những việc trọng đại hơn trong đầu.



Một tên khác bước tới giật chiếc dây da trên bàn đang trói bà ngoại cô. Rachel giúp bà cụ ra khỏi bàn. Nước mắt vẫn tuôn chảy.



Rachel thầm chuyển lời cầu nguyện tới Gray. Không chỉ cầu nguyện cho cô và Monk mà cũng cho cả bà của cô.



Bà cụ run rẩy đứng dậy, tựa một tay vào bàn. Cụ thò tay ra lau nước mắt của Rachel.



“Thôi, thôi nào cháu gái…Khóc thế là đủ rồi. Cũng không gì ghê gớm lắm. Bà đã trải qua những chuyện còn kinh khủng hơn.”



Rachel tí nữa bật cười. Bà của cô đang cố an ủi cô.



Vẫy Rachel lui ra một bên, bà cụ hướng về phía gã viện trưởng.



“Alberto, ngươi cũng phải thấy xấu hổ chứ”. Bà cụ mắng gã như thể đang nói với một đứa trẻ.



“Bà….” Rachel cảnh báo, đưa một cánh tay ra.



“Không thể tin rằng cháu gái ta giữ được bí mật ngay cả với ngươi” Bà cụ kiễng lên hôn má Alberto. “Ta đã bảo ngươi rằng cháu gái ta còn giỏi hơn cả ngươi mà.”



Cánh tay đang giơ ra của Rachel như đang đông cứng lại. Máu như đọng lại trong huyết quản cô.



“Thỉnh thoảng ngươi cũng phải tin một bà già, đúng không?”



“Bà luôn luôn đúng, Camilla.”



Rachel như ngưng thở.



Bà ngoại cô ra hiệu Raoul lấy tay đỡ cụ. “Còn anh nữa, anh bạn trẻ, có thể giờ thì anh đã thấy tại sao dòng máu mạnh mẽ của Long Đình cần phải được gìn giữ.” Cụ tiến lại rồi gõ lên má gã khốn khiếp ”Anh và cháu gái ta…hai người sẽ sản sinh ra những đứa trẻ tuyệt vời.”



Raoul quay lại nhìn Rachel với cặp mắt lạnh tanh chết người.



“Cháu sẽ cố hết sức.” Hắn hứa.