Đông Chu Liệt Quốc
Chương 2 : Bao Quýnh Chuộc Tội Dâng Mỹ Nữ U vương đốt lửa lừa chư hầu
Ngày đăng: 01:54 20/04/20
Từ khi săn bắn ở Ðông-giao về, Tuyên-vương lâm bệnh nặng , đêm nào chợp mắt cũng thấy Ðỗ-bá và Tả-nho đến đòi mạng
Biết mình không thể sống được lâu, bèn cho đòi Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ đến để thác cô .
Hai người nầy vào quỳ dưới long-sàng hỏi thăm căn bịnh. .
Vua khiến nội-thị đỡ dậy và nói :
- Trẫm nhờ sức của hai khanh mới ở ngôi đặng bốn mươi sáu năm,
chẳng ngờ hôm nay lâm bịnh nặng, không thể sống được nữa, Thái-tử là
Cung-niếc tuổi tuy đã lớn mà tánh-tình ngu-muội, xin chư khanh hãy hết
lòng phò tá kẻo hư cơ-nghiệp.
Hai người cúi đầu lãnh mạng, bái tạ lui ra.
Vừa đến cửa cung xảy gặp quan Thái-sử Báđương-phụ bước vào.
Thiệu-hổ hỏi :
- Có phải ngài đến để thăm Bệ-hạ không ? Bịnh tình Bệ-hạ rất nguy kịch, khó mà sống đặng.
Doãn-kiết-phù nói :
- Trước kia là tiếng hát rao, nay lại đến hồi quỷ hiện, vận nước thật khó an toàn.
Báđương-phụ nói :
- Ðêm qua tôi có xem thiên-văn, thấy yêu-tinh phục nơi sao Tử-vị Quốc gia còn gặp nhiều tai biến nữa.
Thiệu-hổ nói :
- Tuy trời định hơn người, song người cũng có thể thắng mạng
trời. Các ông cứ nói theo thiên- đạo mà bỏ nhân-lực sao ! Cả triều thần
không đủ sức chống lại mọi tai biến ư ?
Ba người nhìn nhau, mỗi người riêng một ý nghĩ, rồi ai về nhà nấy.
Ðêm hôm ấy Tuyên-vương băng-hà.
Khương Thái-hậu bèn ra ý chỉ triệu các vị lão-thần Doãn-kiết-phủ và Thiệu-hổ xuất lãnh bá quan, phò Thái-tử Cung-niếc vào làm lễ cử ai,
rồi tức vị trước linh-cữu, xưng hiệu là U-vương , lập con gái Thân-bá
lên làm Hoàng-hậu, lập con trai là Nghi-cựu lên làm Thái-tử, phong
Thân-Bá làm Thân-hầu.
Sau khi Tuyên-vương chết, bà Khương-hậu buồn rầu vô cùng, chẳng bao lâu cũng tạ thế.
Còn U-vương lại là một ông vua bạo ngược, háo sắc. Mặc dù trong
tang chế, ngày nào cũng ăn uống rượu chè, đắm say vậtđục đến nỗi bỏ bê
cả việc triều-chánh.
Thân-hầu ngày ngày can gián không được, buồn giận lui về nước Thân tá túc.
Bấy giờ khí số nhà Châu cũng đã sắp tàn, nên khiến các vị lão thần như Doãn-kiết-phủ, Thiệu-hổ, đều lần lượt quy-thiên.
U Vương lại dùng Quách-công, Tế-công, và con của Doãn-kiết-phủ là Doãn-cầu lên làm bực Tam-công.
Ba người nầy đều là những kẻ dua nịnh tham quyền, cố-vị còn Trịnh-hữu-bá là người trung-trực vua lại không tin dùng.
Một hôm, thiết-triều tại Kỳ-sơn , có quan thủ-thần vào tâu :
- Tâu Bệ-hạ, chẳng biết cớ gì sông Kinh, sông Hà, sông Lạc cùng động đất một lúc.
Không một chút lo lắng, U-vương mỉm cười nói :
- Núi lở đất động là việc thường, nhà ngươi tâu với trẫm làm gì ?
Nói xong, liền di-giá về cung
Quan Thái-sử Báđương-phụ cầm tay quan Ðại-phu Triệu-thúc-Ðái than rằng :
- Thuở trước sông Ỷ , sông Lạc cạn , nhà Hạ mất ; sông Hà cạn ,
nhà Thương hư ; nay cùng một lúc ba sông đều động một lượt ấy là trời
muốn lấp nguồn, nhà Châu khó tránh khỏi tai biến.
Triệu-thúc- đái hỏi :
- Theo dự đoán của ngài thì bao giờ mới xảy ra tai biến ấy?
Báđương-phụ đánh tay xem lại, rồi đáp :
- Nếu vua biết răn mình, chuộng hiền lánh dữ thì trong khoảng mười năm, bằng ngược lại họa sẽ tới gấp không chừng.
Thúc- đái nghe nói thở dài, cầm tay Dương-phụ, nói :
- Nay Thánh-thượng chẳng kể việc quốc-chính , xa những tôi trung gần gũi nịnh thần , chẳng lẽ chúng ta khoanh tay ngồi ngó trong lúc
nước nhà bại vong. Vậy chúng ta phải can gián, dù được hay không cũng
tròn bổn phận.
Báđương-phụ cũng thở dài rồi lắc đầu nói :
- Dù chúng ta có làm gì cũng vô ích .
Trong lúc hai người nói chuyện có kẻ rình mò nghe được , thuật lại với Quách-công.
Quách-công sợ nếu để Thúc- đái can gián ắt lòi chuyện gian-nịnh của mình, bèn thẳng vào hậu cung tìm lời sàm tâu rằng :
- Báđương-phụ và Triệu-thúc- đái chê bai triều- đình, làm cho dân chúng hoang-mang.
U Vương nói :
- Chúng là những đứa ngu dốt biết chi mà bàn luận. Thói thường,
những kẻ ngu dốt thường học đòi hay xét-nét đến công việc của thiên-hạ , khanh để ý làm gì cho bận tâm.
Quách-công nghe nói thì cúi đầu lui ra, mặt mày hớn hở.
Cách vài ngày sau, quan trấn thủ núi Kỳ-sơn lại dâng biểu về tâu rằng :
- Ba sông đều cạn, núi Kỳ-sơn lại lở, đè chết dân chúng rất nhiều.
U Vương không thèm để ý đến, sai bọn nội giám đi tìm gái đẹp sung bổ vào cung.
Triệu-thúc- đái nóng lòng, dâng biểu can rằng :
- Sơn băng, thủy kiệt là biểu-hiệu của thiên tai. Vả lại Kỳ-sơn
là nơi dựng nghiệp đế vương nay lại bị lở đi thì không phải việc nhỏ .
Lẽ ra phải chọn hiền tài, để chung lo cứu nước thì Bệ-hạ lại chọn mỹ-nữ
để vui riêng, hạ thần lấy làm hổ thẹn .
Nhà vua chưa kịp nói, thì Quách-công đã quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, đất Phong, đất Kiều là chỗ đóng đô còn Kỳ-sơn cũng
như chiếc giày rách lâu đời đã bỏ đi, thì việc núi long đất lở có can hệ gì. Ấy là Thúc- đái có ý khi-quân, mượn cớ để phỉ-báng triều đình, xin
Bệ-hạ rộng xét.
U-vương nói :
- Lời Quách-công nói rất phải, Thúc- đái đã có ý khi-quân, trẫm không thể nào dung thứ.
Nói rồi vua bèn cách chức Triệu-thúc- đái đuổi về quệ
U Vương thấy Bao-tự không cười, lòng bâng khuâng lo lắng , bèn
triệu tất cả nhạc-công trong triều tập-họp đến để đờn ca hát xướng cho
nàng vui, song vẫn không thấy nàng cười lên một tiếng nào.
U Vương nghĩ thầm :
- Ta phế lập Chánh cung và Ðông-cung mục đích để làm vui lòng
nàng, thế mà không được nàng trao cho một nụ cười thật là đau đớn .
Nghĩ như vậy bèn thỏ thẻ hỏi Bao-tự :
- Ðờn ca như thế không làm cho ái-khanh vui sao?
Bao-tự đáp :
- Tâu Bệ-hạ, thần thiếp nhớ lại tiếng xé lụa trước đây còn vui tai hơn là tiếng âm nhạc .
U-vương cả mừng nói :
- ái-khanh ưa nghe tiếng xé lụa, sao ái-khanh không nói cho sớm .
Nói rồi truyền quan giữ kho mỗi ngày đem vào cung một trărn tấm
lụa, lại khiến các cung-nữ khỏe mạnh thay phiên nhau xé để làm vui
Bao-tự.
Nhưng quái thay ! xé đến bao nhiêu lụa vẫn chưa thấy Bao-tự cười một tiếng nào.
U-vương lo lắng, hỏi :
- Ðã ưa tiếng xé lụa, và lụa cũng đã xé rặt nhiều, sao trẫm chưa thay ái-khanh vui.
Bao-tự mặt lầm-lì không đáp.
U-vương se thắt cõi lòng nói :
- Thế nào trẫm cũng tìm cách làm cho ái-khanh cười lên một tiếng.
Bèn ra lệnh khắp triều thần, ai có kế gì làm cho Bao-tự cười lên một tiếng sẽ được thưởng ngàn vàng.
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, ngày trước Tiên-vương có lập mười cái phong-hỏa-
đài tại núi Ly-sơn, lại tạo mấy chục cỗ trống rất lớn, để mỗi khi có
giặc Tây-nhung đến xâm lấn thì nổi lửa gióng trống lên. Các chư-hầu nghe thấy đem binh đến cứu. Từ ấy đến nay, trong nước thái-bình, nên
phong-hỏa- đài không dùng đến. Nếu Bệ-hạ muốn làm cho Chánh-hậu vui
cười, xin Bệ-hạ hãy cùng Chánh-hậu đến Ly-sơn du-ngoạn, rồi nữa đêm đốt
phong-hỏa- đài lên, đánh trống cho thật dữ , binh viện các chư hầu ắt
đem binh đến cứu. Chừng ấy, không thấy giặc giã gì cả, các chư-hầu phải
lục-tục kéo quân trở về, như thế làm sao Chánh-hậu khỏi tức cười.
U vương đắc-ý vỗ tay cười lớn, nói :
- Kế ấy rất hay !
Bèn dắt Bao-tự lên Ly-sơn bày tiệc ăn uống rồi truyền quân nổi lửa đốt phong-hỏa- đài.
Lúc ấy Trịnh-bá-hữu đang làm chức Tư- đồ tại trào, nghe việc ấy thất kinh, vội vã chạy đến Ly-sơn, quỳ móp xuống đất tâu rằng :
- Tâu Bệ-hạ, phong-hỏa- đài Tiên-vương lập lên là để thông tin
tức với chư hầu khi trong nước có biến, nay vô cớ mà Bệ-hạ đốt lửa, gạt
chư hầu để làm trò vui , về sau thoảng có điều binh đao bất trắc , đốt
phong-hỏa- đài lên thì ai còn tin mà đến cứu viện , xin Bệ-hạ chớ nên
làm việc đó.
U Vương nổi giận mắng :
- Nay thiên-hạ đang vui hưởng thái bình thì cần gì quân cứu viện . Trẫm và Vương-hậu ra đây du ngoạn, không có gì tiêu-khiển nên mượn kế làm vui. Nếu sau nầy có giặc lại can hệ gì đến ngươi sao mà ngươi lo
lắng .
Trịnh-bá-hữu nghe nói thở dài, lủi thủi bước ra.
U-vương truyền quân đốt lửa, và gióng trống lên. ánh lửa rực trời, tiếng trống vang như sấm.
Các chư hầu ngỡ là Kiểu-kinh có giặc, vội vàng kiểm-binh, điểm
tướng suốt đêm kéo đến Ly-sơn. Ðến nơi thì nghe trên lầu đờn ca, hát
xướng, lại thấy U-vương cùng Bao-Tự đang uống rượu vui vầy.
Thấy quân-sĩ các chư-hầu rầm rộ kéo đến U-vương mỉm cười ra đứng trước hiên lầu, nói lớn rằng :
- Trẫm may mắn không có giặc giã chi, chẳng dám phiền đến các chư-hầu.
Các chư-hầu đều ngơ ngác nhìn nhau rồi bẽn lẽn cuốn cờ, dẹp trống, ai về nước nầy.
Bao-tự đứng trên lầu trông xuống thấy quân lính khắp nơi ồ-ạt kéo đến, rồi lại lặng lẽ ra về thích chí vổ tay cười dài.
U-vương ôm Bao-tự vào lòng nói :
- ái khanh ơi ! một tiếng cười của ái-khanh chẳng những làm vui
lòng ta, mà còn tô thắm vạn màu tươi trong vũ-trụ , ấy cũng nhờ công của Quách-thạch-phủ đó.
Nói xong, truyền quan giữ kho lấy ngàn vàng đem thưởng cho Quách-thạch-phủ.
Người sau có bài thơ vịnh việc đốt lửa ấy như sau :
Buồn lòng tiêu khiển một trò chơi,
Ðốt lửa đêm thanh đỏ rực trời.
Cờ trống chư hầu bôn bả tới
Giúp vui chỉ một nụ cười tươi.
Ðây nói về Thân-hầu, khi nghe U-vương phế Thân-hậu, lập Bao-Tự, lòng buồn bã, lập sớ gợi đến can rằng :
- Xưa vua Kiệt mê Mụi-Hỷ mà nhà Hạ hư, vua Trụ mê Ðắc-kỷ mà nhà
Thương mất. Nay Bệ-hạ đắm say Bao-tự , phế bỏ dòng chánh lập ra dòng thứ là trái nghĩa phu thê, hại tình phụ tử . Xin Bệ-hạ lấy cái gương nhà Hạ , nhà Thương mà tránh cho nhà Châu khỏi điều tai biến.
U Vương xem sớ cả giận, vỗ án hét :
- Quân phản-tặc, sao dám loạn-ngôn như thế !
Quách-thạch-phủ quỳ tâu :
- Tâu Bệ-hạ, Thân-hầu trước đây thấy Bê-hạ đuổi Thái-tử đem lòng oán-hận , nay lại nghe Chánh-hậu bị truất ngôi, ý muốn mưu phản, nên
mới dám dâng biểu hài tội Bệ-hạ như vậy.
U Vương hỏi :
- Như thế thì nay trẫm phải đối-xử làm sao?
Quách-thạch-phủ tâu :
- Thân-hầu vốn chẳng có công cán chi, nhờ Thân hậu mà được phong đến tước hầu. Nay Thân-hậu và Thái-tử đã bị truất-phế, thì cũng nên
truất Thân-hầu xuống tước Bá như cũ, rồi dám binh đến vấn-tội để trừ
hậu-hoạn.
U Vương y tấu, hạ chỉ cách chức Thân-hầu lại khiến Quách-thạch-phủ kiểm- điểm binh mã, kéo đến nước Thân vấn tội.