Đông Chu Liệt Quốc

Chương 3 : Quân khuyển nhung làm loạn kiểu kinh vua bình vương thiên ðô lạc ấp

Ngày đăng: 01:54 20/04/20


Từ ngày Thân Hầu dâng biểu can vua, lòng nơm-nớp lo âu chẳng biết ý vua như thế nào, vội sai quân đi thám thính.



Quân về báo :



- U Vương sai Thạch-phủ làm đại-tướng, dẫn binh sang nước Thân vấn tội.



Thân-hầu thất-kinh, hội các tướng tá thương-nghị.



Thân-hầu nói :



- Nước ta đã nhỏ mà binh lại ít làm sao cự cho lại binh vua



Quan Ðại-phu Lữ-chương quỳ tâu :



- Tâu Chúa-công, tuy nước ta là một chư hầu nhỏ, song Thiên-tử

vô đạo, ngoài thì bỏ trung dùng nịnh, trong thì phế chánh, lập thứ , làm lắm điều bạo ngược. Nay nước Tây-nhung binh ròng, tướng mạnh, lại giáp

ranh với nước Thân , xin Chúa-công gởi thư cầu cứu , mượn binh kéo về

Kiểu-kinh đặng cứu Chánh-hậu, bắt vua phải nhường ngôi cho Thái-tử, ấy

là noi theo gương Yđoãn, Châu-công đó.



Thân-hầu khen phải, bèn khiến người đem một xe vàng lụa mang qua nước Tây-nhung mượn quân, lại hứa rằng, nếu phá được Kiểu-kinh thì bao

nhiêu vàng bạc trong kho tự ý muốn lấy bao nhiêu cũng được.



Nhung-chúa được thư, nghĩ thầm :



- Thiên-tử bất chánh, Thân-hầu là vị quốc-cựu lại viết thư đến

cầu cứu, ta đem quân dựng lại ngôi Thái-tử, đó là thuận lẽ trời, rất hợp với ý tạ



Nghĩ rồi sai Mãng-tốc và Bột- đình, làm tả hữu tiên-phuông, điểm binh mười vạn, kéo đến Kiểu-kinh. Còn Nhung-chúa thống lãnh đạo trung

quân đi sau làm hậu-vệ.



Ðến nơi, Nhung-chúa đốc quân vây thành kín mít.



Quân vào báo. U-vương thất-kinh nói :



- Cơ bắt mật, họa tiên phát. Ta chưa kịp cất quân đi đánh mà giặc đã đến vây thành, biết làm sao bây giờ ?



Quách-thạch-phủ quỳ tâu :



- Xin Bệ-hạ sai người đền phong-hỏa- đài đốt lửa lên, tất nhiên

các chư hầu đem quân đến cứu. Chừng ấy trong đánh ra ngoài đánh vô ắt

quân giặc không còn đường trốn thoát.



U-Vương nghe lời, sai người đến Ly-sơn đốt lửa cháy ngất trời mà chẳng thấy binh của chư hầu nào đến cả. Chỉ thấy binh của Thân-hầu kéo

đến hiệp với binh của Nhung-chúa vây thành càng chặt hơn .



U-vương thấy chư-hầu không đến, binh giặc công-phá rất gấp, bèn bảo Quách-thạch-phủ :



- Thế giặc mạnh yếu chưa rõ. Khanh ra đánh thử, rồi trẫm sẽ chọn binh mạnh mẽ mà tiếp ứng.



Quách-thạch-phủ tuy sợ sệt nhưng phải tuân hành, dẫn binh xe hai trăm cỗ khai thành tiến ra.



Trông thấy Quách-thạch-phủ, Thân-hầu chỉ vào mặt, nói với Nhung-chúa :



- Ấy là đứa khi quân hại nước , đừng để nó chạy thoát.



Nhung-chúa quay lại hỏi các tướng tá :



- Ai dám ra bắt thằng giặc đó chăng ?



Bột- đình vung đao, vỗ ngựa đến thưa :



- Tôi xin lấy đầu tên phản-tặc đó.



Dứt lời, bay ngựa đến đánh với Quách-thạch-phủ.



Ðánh chưa đặng mười hiệp Bột- đình chém Quách-thạch-phủ một đao rơi đầu.



Nhung-chúa thừa thế, cùng với Mãng-tốc, đốc quân đến chém giết

quân của U-vương vô số, rồi kéo vào thành, đốt phá nhà cửa lửa cháy mịt

mù.



Thân-hầu cũng không biết làm sao ngăn cản được hành động ấy.



Trong thành cả loạn, U-vương tính thế không xong, bèn chở Bao-tự và Bá-phục lên xe nhỏ, rồi mở cửa sau thoát ra khỏi thành.



Quan Tư- đồ Trịnh-bá-hữu chạy theo kêu lớn rằng :



- Xin Bệ-hạ chớ sợ, có hạ-thần theo bảo giá đây.



Nói xong, đẩy xe U-vương, thẳng đến Ly-sơn .



Ði dọc đường gặp Doãn-cầu, hơ-hải chạy đến tâu :



- Tâu Bệ-hạ, Khuyển-nhung đốt hết cung thất , chở hết vàng bạc trong khọ Còn Quách-công đã tử trận rồi.



U Vương run rẩy hối Trịnh-bá-hữu đẩy xe đi cho mau.



Khi đến Ly-sơn , Trịnh-bá-hữu lại đốt phong-hỏa- đài lên, khói bay ngất trời xanh, mà cũng không thấy chư hầu đến cứu.



Chẳng bao lâu, quân Khuyển-nhung tràn tới, vây dưới chân núi đông nghẹt.



U Vương và Bao-tự đều thất kinh, nhìn xuống chân núi rnà khóc ròng.


Thân-hầu tâu :



- Tâu Bệ-hạ, Kiểu-kinh không mất là nhờ có quân các chư-hầu kéo

về giải tỏa. Hạ thần đã không ngăn cản nổi Khuyển-nhung để làm hại

Tiên-vương thì thật là đắc tội.



Nói rồi từ chối không nhận.



Bình-vương lại gia phong cho các trấn chư-hầu và phong hàm-ân cho Trịnh-bá-hữu rồi yết bản phủ** nhânđân.



Ngày thứ, vua Bình-vương lưu Vệ-công làm Tư- đồ, Quật- đột làm

Khanh-sĩ tại triều, Chu-công-huyền làm Thái-tử cùng coi việc nước .

Riêng Thân-hầu và Tần-tương-công vì đất nước giáp ranh với Khuyển-nhung

nên phải cáo từ ra về.



Thân-hầu thấy Quật- đột tướng mạo khôi ngô, thông minh xuất-chúng, bèn đem con gái mình là Khương-thị gả cho Quật- đột.



Nhắc qua Nhung-chúa, từ ngày kéo quân vào Kiểu-kinh đã thuộc

đường thuộc nào, tuy bị các chư-hầu đánh bại song quân sĩ còn đông, lại

nghĩ đến công lao khó nhọc mà không được hưởng gì, thì giận lắm, xua

quân vào đánh phá chiếm một nữa đất Kỳ-phong làm chỗ trú quân để xâm lấn Kiểu-kinh.



Bình-vương thấy đất Kiểu-kinh trong mấy tháng giặc giả tàn-phá,

cung thất bị hư, phong-cảnh tiêu- điều, có ý muốn dời đô sang Lạc-ấp,

bèn triệu các quan hỏi ý-kiến.



Các quan cùng tâu :



- Lạc-ấp là nơi trung-tâm của thiên-hạ, nên trước đây Tiên-vương đã ra công sửa sang rất vững chắc, gọi là Ðông- độ Năm nào ở đó cũng có hội chư-hầu. Nay nếu Bệ-hạ muốn dời đô sang đó thì tiện lắm.



Vệ Công nghe các quan tâu, thở dài, rồi cúi đầu tâu :



- Tâu Bệ-hạ, hạ-thần đã hơn chín mươi tuổi, được Bệ-hạ tưởng

tình cho dự vào quốc-sự, nay nếu các quan luận như vậy mà hạ thần không

nói e mang tội bất trung . Vả chăng Kiểu-kinh là nơi lập nghiệp đế, bốn

bề núi sông hiểm-trở, còn Ðông- đô tuy là giữa úm nước, nhưng trống

trải, không làm sao tránh nổi mũi giặc.



Bình-vương nói :



- Trẫm cũng biết Kiểu-kinh là nơi Tiền-vương lập nghiệp, lẽ ra

phải gìn giữ không nên bỏ phế, song hiện nay Khuyển-nhung cướp lấn nơi

Kỳ-phong, thế rất hung-hăng. Trong cung, các kho tàng bị cháy, nếu sửa

sang e tốn công của muôn dân. Cực chẳng đã trẫm mới dời đô qua đó mà

thôi.



Vệ-công tâu :



- Khuyển-nhung là lũ sài-lang chẳng nên cho nó vào nước . Bởi

Thân-hầu tính liều, mượn binh của nó chẳng khác nào mở cửa rước kẻ cướp

vào, cho nên cung-thất phải tan, Tiên-vương bị hại. Nay Bệ-hạ nên coi đó là một mối thù, quyết lòng rửa hận, bắt Khuyển-nhung mổ mật đem tế nơi

Thái-miếu để làm gương. Nếu Bệ-hạ tránh kẻ thù thì kẻ thù sẽ tìm Bệ-hạ

mà tới. Thuở trước Ngu Thuấn làm vua ở nhà tranh thềm đất, vua Ðại-võ ở

cung thấp hẹp mà không tưởng là xấu, xin Bệ-hạ xét lại.



Chu-công-huyến quỳ tâu :



- Tâu Bệ-hạ, lời luận của quan Tư- đồ không đúng với quyền biến. Trước kia Tiên-vương bỏ việc quốc-chính, làm rối đạo cang-thường mà

sanh giặc. Việc ấy đã lỡ rồi không phải nói làm chi . Nay Bệ-hạ muộn bỏ

hết những cái gì xấu xa lúc trước, làm cho mọi người ai cũng thấy rằng

Bệ-hạ là tượng trưng cho một sự kiến-quốc mới mẻ, thế thì việc dời đô

rất có ảnh-hưởng tốt trong lòng bá tánh.



Vệ Công lắc đầu, tâu :



- Tâu Bệ.hạ, thắng giặc phải căn cứ ở lòng người, mà còn hãy dựa trên sức mạnh, nghĩa là phải giữ được những chỗ hiểm yếu. Nay Thân-hầu

đem Khuyển-nhung vào nước đặng thì cũng có thể dẹp nó đặng. Xin Bệ-hạ

sai sứ hỏi người xem có kế nào hay chăng ?



Lúc đang thương nghị, bỗng có tin Thân-hầu sai người đem văn biểu đến.



Bình-vương mở ra xem, thấy trong văn biểu viết như sau :



Giặc Khuyển-nhung đem quân xâm lấn nước Thân, xin Bệ-hạ nghĩ tình đem binh cứu ứng, kẻo nước Thân khó bề giữ nổi.



Xem biểu xong, Bình-vương nói :



- Thân-hầu lo phận mình chưa xong, làm sao lo việc trẫm . Thôi, ý trẫm đã quyết các khanh khá tuân lời



Ðoạn truyền quan Thái-sư chọn ngày dời độ



Vệ Công tâu :



- Nay vì tránh giặc mà Bệ-hạ dời đô, e lòng dân không tránh khỏi ly-tán. Vậy xin Bệ-hạ cho phép hạ-thần đăng bảng cho nhân dân hay đã.



Vua nhậm lời. Vệ-công bèn đăng bảng truyền** dân chúng ai-muốn theo qua Ðông- đô thì sắm sửa mà đi.



Kế đó quan Chúc-sử làm văn biểu cáo với nhà Thái-miếu, rồi quan Lễ-bộ phò thần chủ bảy miếu lên xe đi trước.



Tần-tương-công nghe tin vua thiên- đô liền thân hành đem quân hộ giá.



Dân gian già trẻ dìu đắt nhau theo vua chẳng biết bao nhiêu.