Đông Chu Liệt Quốc

Chương 24 : Tề hoàn công lấy lòng đãi sứ Sở Hội chư hầu nhất dạ phục vua Châu

Ngày đăng: 01:54 20/04/20


Khuất-hoàn đến trại Tề xin vào yết kiến.



Quản-trọng hay được tin, nói với Tề hoàn-công :



- Nước Sở sai sứ đến một lần nữa chắc là xin giảng hoà, Chúa-công nên tiếp đãi tử tế .



Tề hoàn-công cho đòi Khuất-hoàn vào.



Khuất-Hoàn quỳ móp dưới trướng tâu :



- Chúa công tôi chỉ vì không cống cỏ thanh-mao, để quí-quốc nhọc lòng đem quân đến đây thật tội rất lớn . Chúa công tôi đã biết lỗi ,

xin quí-quốc lui binh khỏi ba mươi dặm. Chúa công tôi sẽ tuân-mệnh .



Tề hoàn-công nói :



- Nếu vua nước Sở biết giữ bổn-phận ta còn đòi gì nữa mà không rút quân.



Khuất-hoàn lạy tạ lui ra, trở về thưa lại với Sở văn-vương :



- Tôi hứa với Tề-hầu, chịu cống hiến một xe cỏ thanh-mao, và Tề-hầu cũng đã hứa rút quân khỏi ba mươi dặm.



Sở thành-vương không tin, sai người đi thám thính .



Bỗng có quân vào báo :



- Quân các nước chư-hầu đã rút khỏi ngoài ba mươi dặm , hiện đóng nơi đất Thiệu-lăng.



Sở thành-vương nói :



- Tề-hầu chịu rút quân ấy là có ý sợ ta, ta há lại giữ lời hứa làm chi ?



Tử-văn thưa :



- Đại Vương chớ nên làm thế ! Người ta không bội tín với mình, mà mình bội tín với họ sao phải.



Sở thành-vương nín lặng, nét mặt buồn buồn.



Kế đó, sai Khuất-Hoàn đem mấy xe vàng lúa đến đất Thiệu-lăng để ban thưởng cho quân các nước chư hầu .



Lại sai sửa soạn một xe cỏ thanh-mao đem đến trình với Tề hoàn-công để đem vào triều cống Thiên-tử .



Lúc đó, Hứa mục-công đã qua đời, con Hứa mục-công là Hiệp, lên nối ngôi, xưng hiệu Hứa hi-công .



Hứa hi-công sai quan Đại-phu Bách đà đến hội diện cùng các chư-hầu nơi Thiệu-lăng để điều khiển đoàn quân của mình.



Khuất-hoàn vào yết kiến Tề hoàn-công dâng vàng lụa để ban thưởng cho quân sĩ.



Tề hoàn-công đem phân phát cho các nước.



Khuất-hoàn lại dâng cỏ thanh-mao.



Tề hoàn-công xem xong giao trả cho Khuất-hoàn , sai sứ đem vào triều cống Thiên-tử.



Tề hoàn-công hỏi Khuất-hoàn :



- Nhà ngươi đã bao giờ được trông thấy quân lực của các nước Trung-nguyên chưa ?



Khuất-hoàn nói :



- Tôi ở nơi xa xôi hẻo lánh về cõi Nam nầy, chưa từng thấy những đạo binh hùng mạnh của Trung-nguyên , nếu Minh-công có hảo-ý, xin cho

tôi được xem tường tận .



Tề hoàn-công liền đưa Khuất-hoàn đi xem các trại quân của các nước chư-hầu.



Bấy giờ quân các nước đóng liền nhau dài hơn mấy mươi dậm. Mỗi

khi trại quân Tề nỗi trống hiệu, các trại chư-hầu đồng ứng tiếng, gióng

lên như sấm.



Tề hoàn-công đắc ý, cười lớn , nói với Khuất-hoàn :



- Binh-lực của các nước Trung-nguyên ta như thế nầy đánh đâu mà chẳng thắng .



Khuất-hoàn nói :



- Minh-công là bá chủ Trung-quốc, dùng đạo đưc để chinh-phục

lòng người, dùng đại-nghĩa thắng thiên-hạ. Cái đó mới đáng sợ . Chư như

lấy binh lực cậy oai, thì nước Sở tôi, dẫu nhỏ mọn, nhưng có

Phương-thành, có sông Hán-thuỷ , thành cao, hào sâu, dẫu trăm vạn binh

hùng, vị tất đã làm gì nổi !



Tề hoàn-công nghe nói, có ý hổ thẹn, bảo Khuất-hoàn :



- Nhà ngươi thật là một hiền-sĩ của nước Sở. Nay ta xin cùng vua nước Sở giữ lấy chức phận của tiên quân ta ngày xưa , nhà ngươi nghĩ

thế nào ?



Khuất-hoàn nói :



- Minh-công có lòng nghĩ đến Chúa-công tôi mà giảng-hoà thì còn gì may mắn hơn.



Tề hoàn-công truyền mở tiệc đãi đằng.



Sáng hôm sau Tề hoàn-Công lập đàn , để cùng với nước Sở ăn thề và lập điều ước giảng-hoà với nhau.



Quản-Trọng xin tha cho Đam-Bá về nước Trịnh.



Khuất-hoàn cũng thay mặt Sái-hầu xin lỗi với Tề hoàn-công.



Đoạn, hai bên từ giã nhau.



Tề hoàn-Công ra lệnh thu quân về nước.



Trong khi đi đường, Bảo thúc-nha hỏi Quản-trọng :



- Nước Sở tiếm xưng vương hiệu, tại sao Trọng-phụ không đem việc ấy bắt tội khi-quân lại nhận cỏ thanh-mao làm chi ?



Quản-trọng nói :



- Nước Sở tiếm xưng vương-hiệu đã ba đời. Nếu nay bắt bỏ

vương-hiệu, không đời nào nước Sở chịu tuân theo. Ấy vậy, nước ta làm

sao điều khiển được. Muốn điểu khiển họ, cốt yểu phải làm cho họ nghe

lời mình trước đã. Mà muốn họ nghe lời mình, không gì hơn đừng để họ bất mãn mình.



Bảo thúc-nha nghĩ ngợi một lúc, rồi cũng cho là phải.



Quan Đại-phu nước Trần là Đào đồ, nghe tin Tề hoàn-Công đem quân về nước, liền bàn với quan Đại-phu nước Trịnh là Thân-hầu :



- Nếu để quân Tề đi qua địa giới nước Trần và nước Trịnh, thì ta phải cung đốn lương thực, như thế đã tốn của lại mất công , chi bằng

nói với Tề hầu đi về phía Đông, khiến cho nước Từ và Cử phải chịu lấy sự khó nhọc ấy thì hai nước ta mới rảnh-rang được.



Thân-hầu vốn là một kẻ nham hiểm, ngoài mặt tán thành lời nói

của Đào đồ, nhưng trong bụng có ý cười thầm, liền bảo Đào đồ vào tâu với Tề hoàn-công.



Đào đồ bước vào ra mắt, tâu :



- Minh-công đánh Sơn-nhung nơi phía Bắc, phạt nước Sở nơi phía

Nam, bây giờ nên rút quân về phía Đông, để cho các nước trông thấy oai

mà sợ.



Tề hoàn-công nói :



- Nhà ngươi nói rất phải.



Được một lúc Thân-Hầu cũng vào ra mắt Tề hoàn-công, tâu :



- Minh-công đem quân chinh phạt đã lâu ngày, phải tìm cách để

quân sĩ có nơi trú ngụ mà giải-lao. Nay nếu kéo binh về phía Đông rủi có nước mọi rợ nào đón đường ngăn trở, làm cho quân sĩ mệt nhọc, ta thán

thì thật là điều bất lợi !



Tề hoàn-công như sực tỉnh, nói :



- Nếu không có nhà ngươi, ta đã lầm lẫn rồi .


Tề hoàn-công toan bố lễ tạ, Quản-Trọng vội vã nói :



- Xin Chúa-công lấy lễ nghĩa làm trọng, để nêu gương cho các chư-hầu.



Như sực tĩnh, Tề hoàn-công nói lớn :



- Dẫu Thiên-tử thương tình, song kẻ làm tôi có bao giờ vô lễ được .



Nói xong phục xuống trước đàn lạy hai lạy. Các nước chư-hầu



thấy vậy đều khâm phục.



Tề hoàn-công nhân các nước chư-hầu còn đũ mặt, tuyên đọc năm điều cấm của vua nhà Châu :



1. Không được lấp dòng nước chảy



2. Không được cấm đong thóc.



3. Không được đổi con trưởng.



4. Không được lấy tiểu thiếp làm chánh.



5. Không được cho đàn bà dự vào việc chính-trị .



Đoạn Tề hoàn-công lập thệ với các nước chư-hầu rằng :



- Phàm là nước đồng minh , phải cùng nhau giao hiếu, lúc hoạn



nạn phải cứu nhau .



Xong cuộc lễ Tề hoàn-công hỏi Chu-khổng :



- Ta nghe đời Tam Đại (nhà Hạ, nhà Thương và nhà Châu) , ngày xưa có lễ Phong-thiện, chẳng hay lễ ấy có nghĩa như thế nào ?



Chu-khổng nói :



- Đời Tam Đại làm lễ "Phong" ở núi Thái-sơn làm lễ "Thiện" ở núi Lương-phù. Lễ Phong là tế trời, lấy nghĩa trời cao, nên phải đắp đất

lên mà tế. Còn lễ Thiện là tế đất, lấy nghĩa đất thắp, nên quét sạch đất mà tế, ấy là cái lễ của đời Tam đại vậy.



Tề hoàn-công nói :



- An-ấp là thủ đô của nhà Hạ, Bậc-ấp là thủ đô của nhà Thương,

Phong-kiều là thủ đô của nhà Châu, chốn Đô-thành rất xa núi Thái-sơn và

núi Lương-phủ , núi nầy lại nằm trong địa-giới nước ta, ý ta cũng muốn

làm cái lễ ấy, các ngài nghĩ sao ?



Thấy Tề hoàn-công có ý kiêu-ngạo và tự đắc, Chu-khổng không hài lòng, liền đáp :



- Hiền-hầu cho là phải, thì còn ai dám bảo là không phải ?



Tề hoàn-công nói :



- Thôi, hoãn lại ngày mai ta sẽ bàn .



Các vua chư-hầu đều lui về tửu quán.



Chu-khổng đến nói riêng với Quản-trọng :



- Lễ Phong-thiện là cái lễ trọng thể của Thiên-tử, tôi thiết

tưởng nước chư-hầu không nên nói đến. Sao Trọng-phụ không can được một

câu nào ?



Quản-trọng ôn tồn đáp :



- Bản năng hiếu thắng của Chúa-công tôi, không thể nào can thẳng một cách đột-ngột được, phải tìm phương chửa lần, vậy hôm nay tôi sẽ

liệu nói .



Tối đến, Quản-trọng vào yết kiến Tề hoàn-công :



- Chúa-công có thật lòng muốn làm lễ Phong-thiện không ?



Tề hoàn-công đáp :



- Đã nói, sao lại không thật !



Quản-trọng thưa :



- Lễ Phong-thiện bắt đầu có từ đời Vô hoài-thị đến đời Chu

thành-vương , tất-cả 73 nhà, đều là tuân mệnh trời làm Thiên-tử, nên mới được phép làm lễ Phong-thiện.



Tề hoàn Công tỏ ý không hài lòng, nói lớn :



- Ta đây, đánh nước Sở ở phía Nam, tiến quân vào đất Thiệu-Lăng, phía Bắc đánh Sơn-nhung, Linh-chi và Cô-trúc ; phía Tây qua bãi Lư-sa

đến tận núi Thái-hàng. Các chư-hầu ấy không ai đám trái ý, ba lần hội

chư-hầu về việc xa, sáu lẫn hội chư-hầu về việc y thường. Dầu đời Tam

đại chịu mệnh trời làm Thiên-tử cũng không thể có một sức mạnh nào hơn ! Vậy giờ đây ta có làm lễ Phong-thiện để cho con cháu noi theo tưởng

cũng là lẽ phải !



Quản-trọng nói :



- Các bậc đế-vương thời xưa lúc nào gặp điềm lành mới làm lễ

Phong-thiện , nay Chúa-công bỗng nhiên tổ chức lễ ấy ắt những thức-giả

sẽ chê cười .



Tề hoàn-công không nói đến việc đó nữa.



Hôm sau kéo binh về nước lọ sửa sang cung-thất rất rực rỡ , mỗi

dụng-cụ của nhà vua, món gì cũng sang trọng như đồ dùng của Thiên-tử nhà Châu.



Người trong nước ai cũng chê Tề hoàn-công cố ý tiếm phạm .



Quản-trọng cũng đắp một cái đài cao ba từng gọi là "Tam qui".



Nghĩa là cả ba hạng người : Nhân dân, chư-hầu, mọi rợ đều tùng

phục mình cả . Lại còn lập ra Tắc-môn để che cửa, Phạn điếm để tiếp sứ

thần các nước.



Bảo thúc-nha thấy vậy có ý nghi hoặc hỏi :



- Vua xa xỉ , mình cũng xa xỉ . Vua tiếm phạm mình cũng tiếm phạm như thế sao phải ?



Quản-trọng nói :



- Dẫu một ông vua hay một thường dần mà đã có công khổ nhọc gây

dựng cơ đồ , tất có ngày phải được huởng sung sướng để bù lại công khó

nhọc của mình chứ . Nếu cứ đem lễ nghĩa bó buộc đời sống mình thì ai lại không chán . Vẳ lại việc làm của tôi cũng chỉ vì Chúa-công , mà muốn

chia cái tiếng chê cười của thiên hạ đó .



Bảo thúc-nha nghe nói tuy làm thinh không cãi lại, song lòng không phục .



Trong lúc đó quan Thái-Tể nhà Châu là Chu-khổng cáo biệt trở về triều.



Đi đến nữa đường gặp Tần hiến-công đi dự hội trễ.



Chu-khổng nói :



- Hội đã tan rồi sao đến bây giờ hiền-hầu mới đến ?



Tần hiến-công dậm chân, than :



- Nước tôi xa quá nên đến trễ, không được trong thay cảnh uy-nghiêm của ngày hội, thực tiếc thay !



Chu-khổng nói :



- Tôi tưởng không phải là điều đáng tiếc. Tề-hầu cậy mình có

công to, tỏ ý kiêu ngạo , làm lắm điều trái đạo . Hễ trăng tròn thì phải khuyết, nước đầy tất phải tràn. Chẳng bao lâu nước Tề sẽ suy đốn .



Tấn hiến-công nghe nói quay xe trở về. Nhưng di dọc đường bị bệnh, nên về đến nước Tấn thì tạ thế.



Từ đó, nước Tấn sanh lắm điều rối loạn.