Đông Chu Liệt Quốc

Chương 71 : Vì quả đào, cùng nhau sống chết tham gái đẹp, quên tình cha con

Ngày đăng: 01:55 20/04/20


Tề Cảnh công đến dự hội ở Bình Khâu, dẫu sợ binh uy nước Tấn mà phải

thề, nhưng trong lòng biết là nước Tấn không có chí lớn, thì muốn khôi

phục lại sự nghiệp bá chủ của Tề Hoàn công thuở xưa. Khi về nước, Cảnh

công bảo quan tướng quốc là Án Anh rằng :



- Nước Tấn làm bá chủ ở phía tây bắc, ta làm bá chủ ơ phía đông nam, cũng được chứ sao!



Án Anh nói :



- Nước Tấn xây đắp lâu đài để làm khổ dân, bởi vậy mà chư hầu ly tán. Nay chúa công muốn làm bá chủ, không gì bằng thương dân !



Tề Cảnh công nói :



- Thương dân thì làm thế nào ?



Án Anh nói :



- Giảm bớt hình phạt thì dân khỏi oán, nhẹ bớt thuế má thì dân

biết ơn. Tiên vương ngày xưa, hễ thấy dân nghèo khổ, tất lấy thóc kho mà chu cấp, nay chúa công cũng nên bắt chước.



Tề Cảnh công nghe lời Án Anh, lấy thóc kho ra để chu cấp cho

những người nghèo khổ. Người trong nước ai cũng bằng lòng. Nước Tề lại

đòi các nước ở phía đông triều cống. Nước Từ không chịu theo. Tề Cảnh

công sai Điền Khai Cương làm tướng, đem quân đi đánh. Hai bên đánh nhau ở đất Bồ Toại (đất Từ). Điền Khai Cương chém được tướng nước Từ là Doanh

Sáng và bắt giáp sĩ năm trăm người. Vua Từ sợ lắm, sai sứ đến cầu hoà.



Tề Cảnh công liền ước với vua Đàm, vua Cừ và vua Từ cùng ăn thề ở đất Bồ Toại. Vua Từ đem cái đỉnh của nước Thân Phủ đến lễ đút Tề Cảnh

công. Vua tôi nước Tấn dẫu biết như vậy, mà không dám hỏi đến. Từ bấy

giờ nước Tề mỗi ngày một cường thịnh cùng với nước Tấn cùng làm bá chủ.

Tề Cảnh công thường cùng Điền Khai Cương dẹp được nước Từ, và cùng Cổ

Gia Tử chém được con giải, đều cho vào hàng “ngũ thặng tân”. Điền Khai

Cương lại tiến dẫn cùng tên Tiệp là người vũ dũng. Nguyên công tôn Tiệp

mặt như chàm đổ, hai mắc ốc nhồi, mình cao hơn trượng, sức khoẻ mang nổi mấy nghìn cân. Tề Cảnh công trông thấy lấy làm lạ, mới cùng công tôn

Tiệp đi săn ở Đông Sơn.



Đang săn, bỗng trông thấy một con hổ, trán có đốm trắng, ở khe

núi gầm thét chạy ra, toan vồ con ngựa của Tề Cảnh công. Tề Cảnh công

kinh hãi. Công tôn Tiệp ở trên xe nhảy xuống, chẳng có gươm giáo gì cả,

hai tay không xông vào bắt con hổ ấy, tay trái nắm lấy gáy con hổ, tay

phải đấm mạnh một cái, con hổ chết ngay lập tức, Tề Cảnh công khen là vũ dũng, cũng cho dự vào hàng “ngũ thặng tân”. Công tôn Tiệp liền cùng với Điền Khai Cương và Cổ Gia Tử kết làm anh em, tự xưng là “tam kiệt” ở

nước Tề. Bọn “tam kiệt” cậy mình có công to và sức khoẻ, vẫn thường

khinh bỉ các quan triều thần, nhiều khi ở trước mặt Tề Cảnh công mà ăn

nói hỗn láo, chẳng có lễ phép chút nào cả. Tề Cảnh công tiếc cái tài ba

của ba người ấy cũng có ý khoan dung cho.



Bấy giờ trong triều có một kẻ nịnh thần là Lương Khâu Cứ, Tề

Cảnh công cũng yêu lắm. Lương Khâu Cứ trong thì siểm nịnh Tề Cảnh công

để được tin dùng, ngoài thì giao kết với “tam kiệt” để thêm vây cánh.

Bấy giờ có Trần Vô Vũ đang phóng tiền của thu lòng người, có ý muốn

chiếm nước Tề, mà Điền Khai Cương lại là thân thuộc với Trần Vô Vũ, Án

Anh lấy làm lo lắm, vẫn muốn lập kế trừ đi, nhưng sợ Tề Cảnh công không

nghe, lại sinh kết oán với bọn “tam kiệt” vì thế cũng không dám nói.



Một hôm, Lỗ Chiêu công cũng vì cớ không phục nước Tấn, muốn kết

giao với Tề, thân hành sang triều kiến Tề Cảnh công. Tề Cảnh công bày

tiệc để thết đãi. Nước Lỗ thì Thúc Tôn Nhược (con Thúc Báo) làm tướng

lễ. Nước Tề thì Án Anh làm tướng lễ. Bọn “tam kiệt” chống gươm đứng ở

dưới thềm; kiêu căng ngạo mạn, không coi ai ra gì ! Lỗ Chiêu công và Tề

Cảnh công rượu đã ngà ngà say. Án Anh tâu rằng :



- Trong vườn quả kim đào đã chín, xin sai người ra trẩy để chúc thọ hai vua.



Tề Cảnh công nghe lời, truyền cho người giữ vườn đem kim đào vào dâng. Án Anh tâu rằng :



- Kim đào là một của báu, tôi xin thân hành đi coi xét việc trẩy quả.



Án Anh bèn lĩnh chìa khoá cửa vườn rồi đi ngay. Tề Cảnh công nói với Lỗ Chiêu công rằng :



- Đời Tiên công tôi ngày xưa, có người Đông Hải, đem cái hột đào đến để dâng, nói là giống “Vạn thọ kim đào”, nguyên giống ở Độ Sách sơn ngoại bể, cũng gọi tên là “Bàn đào” nữa. Nước tôi trồng đã hơn ba mươi

năm, cành lá rất tốt, nhưng chỉ khai hoa mà không kết quả; mãi đến năm

nay, mới bói được mấy quả, tôi lấy làm quý lắm, nên phải khoá cửa vườn

lại, nay nhân có nhà vua tới đây, tôi xin đem ra để dâng nhà vua.



Lỗ Chiêu công chấp tay cảm ơn, lát sau thì Án Anh đưa người giữ

vườn bưng mâm đào vào dâng. Trong mâm có sáu quả đào, quả nào cũng to

bằng cái bát, sắc đỏ như viên than hồng, mùi hương bay ngào ngạt, thật

là một thứ của quí. Tề Cảnh công hỏi rằng :



- Chỉ có bấy nhiêu quả đào thôi à ?



Án Anh nói :



- Còn ba, bốn quả nữa chưa chín, bởi vậy chỉ trẩy có sáu quả.



Tề Cảnh công sai Án Anh mời rượu, Án Anh tay bưng chén ngọc, đến dâng

trước mặt Lỗ Chiêu công. Thị vệ bưng mâm đào đến. Án Anh chúc một câu

rằng :



“Đào to bằng đấu



Thiên hạ ít có



Hai vua cùng ngự



Nghìn năm hưởng thọ !”



Lỗ Chiêu công uống xong chén rượu, cầm ăn một quả đào, thấy ngon ngọt lạ thường, nên ngợi khen mãi không ngớt mồm. Đến lượt Tề Cảnh

công, cũng uống một chén rượu, cầm ăn một quả đào, ăn xong, lại bảo quan đại phu nước Lỗ là Thúc Tôn Nhược rằng :



- Thứ đào này quí lắm! Quan đại phu có tiếng là người giỏi, nay lại làm tướng lễ ở đây, cũng nên xơi một quả.



Thúc Tôn Nhược quì xuống mà tâu rằng:



- Hiền đức của tôi, còn kém quan tướng quốc (trỏ Án Anh) muôn

phần. Quan tướng quốc trong thì sửa sang chính trị, ngoài thì khiến cho

chư hầu phải phục, có công to lắm, vậy thứ đào này nên nhường để quan

tướng quốc xơi, tôi đâu dám tiếm!



Tề Cảnh công nói :



- Đã như vậy thì ban cho cả hai người, mỗi người một chén rượu và một quả đào.



Án Anh và Thúc Tôn Nhược lạy tạ rồi lĩnh lấy. Án Anh tâu với Tề Cảnh công rằng :



- Trong mâm còn hai quả đào, chúa công nên truyền lệnh cho các quan, người nào có công lao nhiều thì ra mà lĩnh lấy quả đào ấy.



Tề Cảnh công khen phải, rồi sai thị vệ truyền dụ cho các quan rằng :



- Trong hàng các quan ai cũng có công lao nhiều, đáng ăn quả đào này thì cho được đứng ra mà tâu. Đã có quan tướng quốc xét công lao mà

cho đào.



Công tôn Tiệp đứng ra tâu rằng :



- Ngày xưa tôi theo chúa công đi săn ở Đông Sơn, ra sức giết được hổ thì công ấy thế nào ?



Án Anh nói :



- Cái công bảo giá (bảo vệ nhà vua) to ngất trời ấy, còn gì hơn nữa !



Án Anh nói xong, đưa cho một chén rượu và một quả đào. Công tôn Tiệp lãnh lấy rồi lui xuống. Cổ Gia Tử đứng ra mà tâu rằng :



-Giết hổ chưa lấy gì làm lạ! Khi trước tôi giết được con giải

yêu quái ở sông Hoàng Hà, khiến chúa công nguy mà lại yên, công ấy thế

nào ?



Tề Cảnh công nói :



- Ta còn nhớ lúc bấy giờ sóng gió dữ dội, nếu không có tướng

quân chém được con giải ấy thì thuyền ta tất phải đắm, đó thật là một kỳ công trên đời, đáng uống rượu và ăn đào lắm!



Án Anh vội đưa rượu và đào cho Cổ Gia Tử. Bỗng thấy Điền Khai Cương bước lên mà nói rằng :



- Tôi phụng mệnh chúa công đi đánh Từ, chém được tướng Từ, bắt

sống được hơn năm trăm quân Từ, vua Từ cùng vua Đàn, vua Cử đều sợ hãi

mà phải xin hoà, tôn chúa công lên làm chủ, cái công ấy có đáng ăn đào
- Cái đó là bởi số phận ! Khanh về với quả nhân thì muộn, nhưng làm chánh hậu thì đã sớm được không biết mấy năm rồi !



Nàng Mạnh Doanh nghe nói, trong lòng nghi hoặc, mới dò hỏi các

cung nữ. Các cung nữ không thể giấu được, bèn thuật chuyện lại cho nghe. Nàng Mạnh Doanh thở dài, rồi ứa nước mắt khóc. Bình vương biết ý, hết

sức chiều chuộng, hẹn lập Trân làm thế tử, bấy giờ nàng Mạnh Doanh mới

hơi yên lòng. Phí Vô Cực vẫn lấy việc thế tử Kiến làm e ngại, sợ sau này Kiến nối ngôi thì tất trị tội mình, mới tâu với Bình vương rằng :



- Tôi nghe tin thế tử cùng với Ngũ Xa bàn mưu phản nghịch, mật

sai người giao thông với Tề và Tấn, đại vương phải phòng bị mới được.



Bình vương nói :



- Thế tử vốn là người hiếu thuận, có đâu có những việc ấy !



Phí Vô Cực nói :



- Thế tử vì việc nàng Mạnh Doanh mà đem lòng oán giận. Nay ở đất Thành Phủ, vẫn luyện tập binh mã, thường khen Mục vương ngày xưa nổi

loạn mà được hưởng nước Sở, con cháu phồn thịnh, thế là có ý muốn bắt

chước. Nếu đại vương không trừ bỏ đi thì tôi xin muốn trốn trước để khỏi tai vạ.



Bình vương vẫn muốn bỏ thế tử Kiến, lập Trân làm thế tử, lại

nghe lời nói của Phí Vô Cực, cũng hơi động lòng, toan hạ lệnh bỏ thế tử

Kiến.



Phí Vô Cực lại tâu rằng :



- Thế tử đang giữ binh quyền ở ngoài, nếu hạ lệnh bỏ thì khác

nào như giục thế tử làm phản. Ngũ Xa sẽ làm chủ mưu cho thế tử. Chi bằng đại vương triệu Ngũ Xa về đã, rồi sau đem quân bắt thế tử, mới có thể

trừ bỏ được.



Bình vương khen phải, sai người triệu Ngũ xa. Ngũ xa về. Bình vương hỏi rằng :



- Thế tử Kiến đem lòng phản nghịch, nhà ngươi có biết không ?



Ngũ Xa vốn là người chính trực, đáp rằng :



- Đại vương chiếm lấy vợ thế tử, cũng đã quá lắm rồi, nay lại nghe lời đứa tiểu nhân mà bỏ tình cốt nhục, thì sao cho đành ?



Bình vương có ý hổ thẹn, truyền bắt Ngũ Xa giam lại. Phí Vô Cực tâu rằng :



- Ngũ Xa dám nói như vậy, quả là có lòng oán vọng. Nếu thế tử

biết Ngũ Xa bị bắt thì tất nổi loạn, đem quân Tề và quân Tấn về, ta khó

lòng đương nổi !



Bình vương nói :



- Ta muốn sai người đi giết thế tử, chưa biết dùng ai.



Phí Vô Cực nói :



- Sai người khác đi thì thế tử tất chống cự được, chi bằng mật dụ cho quan tư mã là Phấn Dương phải bắt thế tử mà giết đi.



Bình vương liền sai người mật dụ Phấn Dương rằng :



- Giết thế tử thì được trọng thưởng, tha thế tử thì phải tội chết.



Phấn Dương tức khắc sai người tâm phúc báo cho thế tử Kiến biết, dặn phải mau mau đi trốn.



Thế tử Kiến kinh sợ. Bấy giờ Tề nữ đã sinh con trai, đặt tên là

Thắng. Thế tử Kiến liền đem vợ con chạy sang nước Tống. Phấn Dương biết

thế tử Kiến đã trốn rồi, mới bảo người Thành Phủ trói mình lại, giải về

Sinh Đô nộp Sở Bình vương. Phấn Dương tâu với Bình vương, nói thế tử đã

trốn mất rồi. Bình vương nổi giận mắng rằng :



- Việc này tự miệng ta nói ra, vào đến tai nhà ngươi, còn ai biết nữa mà báo thế tử !



Phấn Dương nói :



- Chính tôi báo thế tử ! Ngày trước đại vương có dặn tôi rằng :

“Nhà ngươi thờ thế tử, cũng tức như là thờ ta!” Tôi vâng lời dặn ấy,

không dám hai lòng, cho nên phải bảo cho thế tử biết. Sau nghĩ ra mới

biết là mắc tội, hối lại không kịp !



Bình vương nói :



- Nhà người đã tha thế tử, lại dám đến yết kiến ta, không sợ chết hay sao ?



Phấn Dương nói :



- Tôi đã không theo được lời dặn sau cùng của đại vương nếu lại

sợ chết mà không đến thì thành ra hai tội. Và chưa có tang chứng gì là

thế tử phản nghịch cả, nếu đem trị tội chẳng cũng oan lắm sao! Thế tử

sống thì tôi dẫu chết cũng được thoả lòng !



Bình vương động lòng, và có ý thẹn, ngẫm nghĩ hồi lâu, rồi bảo Phấn Dương rằng :



- Phấn Dương dẫu có trái mệnh, nhưng tấm lòng trung trực cũng đáng khen !



Bình vương xá tội cho Phấn Dương, vẫn cho được làm quan tư mã ở

Thành Phủ. Bình vương lập con nàng Mạnh Doanh là Trân làm thế tử, lại

cho Phí Vô Cực làm chức thái sư. Phí Vô Cực tâu rằng :



- Ngũ Xa có hai con là Ngũ Thượng và Ngũ Viên, đều là bậc tài

giỏi, nếu để trốn sang nước Ngô thì tất hại cho nước Sở, chi bằng ta bắt Ngũ Xa phải viết thư triệu về. Kẻ kia tin lời cha, tất rủ nhau về cả,

bấy giờ ta giết hết đi, mới có thể trừ được hậu hoạn.



Sở Bình vương mừng lắm, sai người vào ngục đem Ngũ Xa ra, rồi đưa giấy bút cho mà bảo rằng :



- Nhà ngươi xui thế tử làm phản, đáng lẻ phải chết chém, nhưng

ta nghĩ đến cái công tổ phụ nhà ngươi, không nỡ bắt tội. Nhà ngươi nên

viết thư triệu hai con về, ta sẽ phong quan chức cho.



Ngũ Xa biết là Bình vương đánh lừa, để triệu về mà giết cả đi, mới tâu rằng :



- Con trưởng tôi là Ngũ Thượng, nhân hậu ôn hoà, nghe tôi triệu

thì tất về ngay; còn con thứ tôi là Ngũ Viên thì văn vũ toàn tài, mà

tính nhẫn nại, mai sau có thể làm nên việc được, nó tinh khôn lắm, vị

tất đã chịu về.



Bình vương nói :



- Nhà ngươi cứ theo lời ta mà triệu về, còn về hay không, không can dự đến nhà ngươi !



Ngũ Xa không dám trái mệnh, liền viết một bức thư, đại lược nói rằng :



“Ta có lời cho hai con là Thượng và Viên biết rằng : Ta vì nói

thẳng trái ý đại vương mà phạm tội, nhưng đại vương nghĩ đến công của tổ phụ ta ngày xưa, không nỡ giết chết, vậy có theo lời bàn của các quan

mà tha tội cho , lại muốn phong quan chức cho hai con nữa. Hai con nên

mau mau về triều, nếu chậm thì có tội.”



Ngũ Xa viết xong, đệ trình Bình vương, Bình vương xem qua, lại

truyền giam Ngũ xa vào ngục, và sai Yên Tương Sư đem thư sang Đường Ấp

để triệu Ngũ Thượng và Ngũ Viên. Khi Yên Tương Sư sang đến Đường Ấp thì

Ngũ Thượng cùng Ngũ Viên đã sang Thành Phủ rồi. Yên Tương Sư lại sang

Thành Phủ, đến gặp Ngũ Thượng, liền đem lời chúc mừng. Ngũ Thượng nói :



- Thân phục tôi đang bị giam, còn vui gì mà chúc mừng ?



Yên Tương Sư nói :



- Đại vương quá nghe người ta nói, bắt giam tôn công (trỏ Ngũ Xa ), may có các quan bảo lịnh, tâu rằng nhà tôn công về trước đã ba đời

trung trực, cho nên đại vương nghĩ lại, bèn phong cho tôn công làm tướng quốc, và phong cho hai ngài làm Hồng Đô hầu (Thượng) và Cái hầu (Viên). Tôn công bị giam đã lâu, nay mới được tha, mong nhớ hai ngài lắm, vậy

có sai tôi mang thư đến đây để đón.



Ngũ Thượng nói :



- Thân phụ tôi bị giam, lòng tôi thật đau như cắt, nay được tha là may, khi nào lại dám mong quan chức !



Yên Tương Sư nói :



- Đó là mệnh vua, ngài chớ nên từ chối !



Ngũ Thượng mừng lắm, liền đem thư vào nhà trong cho em là Ngũ Viên xem.