Đông Chu Liệt Quốc

Chương 82 : Ngũ viên liều chết can vua ngô khoái qúi lập mưu về nước vệ

Ngày đăng: 01:55 20/04/20


Bấy giờ là năm thứ 36 đời Chu Kính vương, vua Việt là Câu Tiễn sai quan

đại phu là Chư Kê Sinh đem ba nghìn quân giúp Ngô đánh Tề. Vua Ngô là

Phù Sai cử đại binh đi đánh Tề sai người lập biệt quán ở đát Câu Khúc

chung quanh trông ngô đồng mùa thu gọi là Ngô Cung cho Tây Thi ra nghỉ

mát ở đấy đợi khi thắng Tề thì Phù Sai cũng về nghỉ ở đấy cho quan mùa

hạ.



Khi quân Ngô sắp khởi hành, Ngũ Viên lại can rằng:



- Nước Việt chính là cái bệnh trong tim trong ruột của ta, còn nước Tề

chẳng qua như là bệnh ghẻ lở ở bên ngoài mà thôi. Nay đại vương đem mười vạn quân, đi nghìn dặm đường, để chữa cái bệnh ghẻ lở mà quên cái bệnh

tim ruột, tôi e rằng chưa thắng được Tề mà đã phải khổ với Việt.



Phù Sai nổi giận mà nói rằng:



- Ta đã định ngày phát binh mà lão tặc dám đem lời quái gở để ngăn trở quân ta, nghĩ có đáng tội không !



Lúc bấy giờ Phù Sai đã có ý muốn giết Ngũ Viên. Bá Hi mật tâu với Phù Sai rằng:



- Ngũ Viên là một bậc lão thần đời trước, ta không nên giết, chi bằng

đại vương sai sang ước chiến với nước Tề, để cho người Tề giết đi.



Phù Sai nói:



- Quan thái tể nói phải lắm!



Phù Sai liền viết một bức thư kể tội nước Tề đánh Lỗ là khinh Ngô, sai

Ngũ viên đưa sang vua Tề, định khiến vua Tề tức giận mà giết Ngũ Viên.

Ngũ Viên biết là nước Ngô tất mất mới đem người con là Ngũ Phong cùng

đi. Khi đến Lâm Tri (kih thành nước Tề) Ngũ Viên đem bức thư của Phù Sai vào dâng lên Tề Giản công. Tề Giản công nổi giận, toan giết Ngũ Viên.

Bão Tức (con Bão Mục) can rằng:



- Ngũ Viên là trung thần nước Ngô, đã nhiều lần can ngăn mà không hợp ý

vua Ngô, nay vua Ngô sai sang đây là ý muốn mượn tay ta giết đi để khỏi

mang tiếng là kẻ giết kẻ trung thần, chi bằng ta tha cho về, khiến bọn

trung bọn nịnh công kích lẫn nhau, mà Phù Sai phai chịu tiếng ác.



Tề Giản công tiếp đãi Ngũ Viên tử tế, rồi hẹn đến cuối mùa xuân thì khai chiến. Nguyên Ngũ Viên cùng với Bão Mục quen nhau, cho nên Bão Tức can

Tề Giản công không nên giết Ngũ Viên. Bão Tức hỏi riêng Ngũ Viên về việc nước Ngô. Ngũ Viên ứa nước mắt mà không nói gì cả, chỉ cho con là Ngũ

Phong nhận làm em Bão Tức, rồi gửi ở đấy. Về sau gọi là vương tôn Phong, không dùng họ Ngũ nữa. Bão Tức thở dài mà nói rằng:



- Ngũ Viên định về cố can mà chịu chết, cho nên để con lại nước Tề đây!



Lại nói chuyện vua Ngô là Phù Sai hẹn ngày cất quân, đi qua Cô Tô đài,

ăn cơm trưa ở đấy. Cơm xong, chợp ngủ đi, bỗng có một giấc chiêm bao;

khi tỉnh dậy, trong lòng hoảng hốt, mới gọi Bá Hi vào mà bảo rằng:



- Ta vừa chợp ngủ đi, chiêm bao thấy vào Chương Minh cung; khi vào đến

nơi, thấy hai cái nồi đun chưa chín; lại có hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc; lại có hai cái cuốc bằng gang,

cắm trên tường; lại thấy nước chảy cuồn cuộn vào chốn điện đường; còn về hậu phòng thì nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống; trông

ra phía vườn trước, chẳng thấy cây gì khác cả, chỉ toàn một giống ngô

đồng. Quan thái tể đóan hộ ta xem tốt xấu thế nào ?



Bá Hi sụp lạy mà chúc mừng rằng:



- Tốt thay! giấc mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! hai chữ

"chương minh" nghĩa là phá giặc thành công, tiếng tăm lừng lẫy; hai cái

nồi đun mà chưa chín, nghĩa là khí thế đại vương đang thịnh; hai con chó đen; một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc nghĩa là các nước phải đến triều phục nước ta; hai cây cuốc cắm ở trên tường, nghĩa là

dân thợ, dây cày chăm việc làm ruộng; nước chảy cuồn cuộn, vào chốn điện đường, nghĩa là các nước đem đồ cống hiến đến nhiều; nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm, chẳng ra chuông, chẳng ra trống, nghĩa là cung nữ vui vẻ;

trông ra phía vườn trước, toàn một giống ngô đồng, nghĩa là đem thứ gỗ

cây ngô đồng ấy làm đàn cầm, đàn sắt thì tiếng kêu rất êm ái. Mộng của

đại vương tốt không biết dường nào mà kể!



Phù Sai dẫu ưa lời nịnh, nhưng vẫn không đành lòng, lại hỏi Vương Tôn Lạc, Vương Tôn Lạc nói:



- Tôi dốt không biết đóan mộng, ở núi Dương Sơn về phía tây thành có một người dị sĩ, tên gọi Công Tôn Thánh. Người ấy học rộng lắm, nếu đại

vương còn hồ nghi, sao không triệu đến mà bảo đoán xem.



Phù Sai nói:



- Nhà ngươi triệu đến đây cho ta.



Vương Tôn Lạc đi triệu Công Tôn Thánh.



Công Tôn Thánh hỏi cớ, rồi phục xuống đất mà khóc. Người vợ đứng cạnh cười mà bảo rằng:



- Phu quân dở hơi quá! sao nghe thấy vua triệu mà lại khóc lóc như mưa ?



Công Tôn Thánh thở dài mà nói rằng:



- Thương thay! việc này nàng không biết được. Ta đã tính số ta đến ngày

nay là hết. Bây giờ ta phải vĩnh biệt với nàng, cho nên ta thương khóc

đó.



Vương Tôn Lạc giục Công Tôn Thánh lên xe, cùng đến Cô Tô đài. Phù Sai

triệu Công Tôn Thánh vào, rồi nói chuyện chiêm bao cho nghe và bảo đoán. Công Tôn Thánh nói:



- Tôi biết nói thì tất chết, nhưng dẫu chết cũng cứ nói. Lạ thay! giấc

mộng của đại vương, ứng vào việc đánh Tề này! chữ "chương" nghĩa là thua chạy vất vả; chữ "minh" nghĩa là về nơi âm ti; hai cái nồi đun mà chưa

chín, nghĩa là đại vương thua chạy, không kịp nấu ăn, hai con chó đen:

một con sủa về phía nam, một con sủa về phía bắc, nghĩa là phải chạy về

âm phương, vì âm thuộc về sắc đen; hai chiếc cuốc cắm ở trên tường nghĩa là quân Việt vào cày cuốc nền xã tắc nước Ngô; nước chảy cuồn cuộn vào

chốn điện đường, nghĩa là chốn điện đường bỏ không, nước trôi sóng vỗ;

nơi hậu phòng nghe tiếng ầm ầm chẳng ra chuông, chẳng ra trống nghĩa là

cung nữ bị bắt, thở vắn than dài; trông ra phía vườn trước, toàn một

giống ngô đồng, nghĩa là đem gỗ cây ngô đồng làm đồ minh khí, đợi khi

tống táng. Xin đại vương bãi quân đánh Tề đi, và sai quan thái tể là Bá

Hi sang tạ tội với Câu Tiễn thì nước mới yên mà thân mới toàn được!



Bá Hi đứng ở cạnh tâu với Phù Sai rằng:



- Đứa thất phu ở nơi thảo dã, lại dám ăn nói càn gỡ, chẳng giết còn để làm gì!



Công Tôn Thánh chừng mắt mà mắng Bá Hi rằng:



- Quan thái tể quyền cao chức trọng, lộc nước cơm vua, mà chẳng hết lòng trung thành, lại cứ giữ lối du nịnh. Ngày khác quân Việt diệt Ngô, quan thái tể phỏng có còn giữ được đầu hay không ?



Phù Sai nổi giận nói:



- Đứa thất phu không có kiến thức gì, chỉ một mực nói càn, không giết thì tất nhiên làm mê hoặc mọi người.



Nói xong, truyền cho lực sĩ đem cái dùi sắt để đánh Công Tôn Thánh, Công Tôn Thánh kêu to lên rằng:



- trời ơi! trời có thấu cái tình oan này cho tôi không ? trung mà bị

tội! thật mà chết oan! sau khi tôi chết rồi, xin chớ có mai táng, đem

quẳng thây tôi ở dưới núi Dương Sơn, sau này còn làm cái vang cái bóng

để báo đại vương!



Phù Sai đã đánh chết Công Tôn Thánh, mới sai người quẳng thây dưới núi

Dương Sơn mà kể tội rằng : Giống sài lang ăn thịt mày, lửa đốt xương

mày, gió bay tro mày, hình tiêu ảnh diệt, còn đâu là vang bóng để báo ta được!



Bá Hi rót chén rượu dâng lên mà chúc rằng:



- Mừng thay! đại vương đã trừ được giống yêu quái, xin cạn một chén rượu này, rồi sẽ phát binh.



Trung quân thì Phù Sai và Bá Hi, thượng quân thì Tư Môn Sào, hạ quân thì Tào Cô, cả thảy mười vạn quân và ba nghìn quân Việt, cùng kéo thẳng về

phía Sơn Đông. Phù Sai sai sứ sang ước hội trước với Lỗ Ai công để hợp

quân đánh Tề. Ngũ Viên đem lời hẹn của Tề Giản công báo với Phù Sai ở

ngang đường rồi cáo ốm xin về trước, không theo đi đánh.



Lại nói chuyện tướng nước Tề là Quốc Thư đóng quân ở bến sông Vấn, nghe

tin Ngô và Lỗ hợp quân đến đánh, liền họp các tướng lại để thương nghị.

Bỗng nghe báo: quan tướng quốc là Trần Hằng sai em là Trần Nghịch đến.

Quốc Thư và các tướng mời vào. Trần Nghịch nói:



- Quân Ngô đã kéo sang đất Doah Bác, việc nguy cấp đến nơi! quan tướng

quốc sợ các tướng không chịu cố sức, vậy sai tiểu tướng đến đây để dốc

chiến. Cứ như việc ngày nay, cho đánh trống, chứ cấm không cho đánh

chiêng.



Các tướng đều nói:


trăm người tha hồ cho tân khách ra vào, không cấm đoán gì cả. Trần Hằng

sinh được con trai hơn bảy mươi người, muốn dùng kế ấy để làm cho bọn

Trần chóng cường thịnh. Sau các quan đại phu và ấp tể ở nước Tề đều là

họ Trần cả.



Lại nói chuyện thế từ Khoái Qúi nước Vệ ở Thích Ấp, con là Vệ Xuất công

(Triếp) đem người trong nước ra để chống cử với Khoái Qúi. Quan đại phu

là Cao Sài can ngăn. Khóai Quí không nghe. Chị gái Khoái Qúi lấy quan

đại phu là Khổng Ngũ sinh được người con tên gọi Khổng Khôi, lại nối

chức làm đại phu, cầm quyền chính nước Vệ. Gia thần họ Khổng là Hồn

Lương Phu tư thông với nàng Khổng Cơ (tức là chị gái Khoái Qúi). Nàng

Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu đi sang Thích ấp hỏi thăm em là Khóai Qúi.



Khóai Qúi cầm tay mà bảo rằng:



- Nhà ngươi làm thế nào mà giúp cho ta về nước làm vua thì ta cho nhà

ngươi được đội mũ miện và đi xe hiên, dẫu có tội đáng chết, cũng tha cho ba lần.



Hồn Lương Phu về, nói với nàng Khổng Cơ. Nàng Khổng Cơ sai Hồn Lương Phu ăn mặc giả đàn bà sang đón Khóai Qúi về. Đang đêm khuya, Hồn Lương Phu

và Khóai Qúi cùng ăn mặc đàn bà, kẻ dũng sĩ là Thạch Khất và Mạnh Áp làm nguời dong xe, cùng ngồi xe kín, giả là tỳ thiếp, lẻn vào trong thành,

nấp ở nhà nàng Khổng Cơ. Khổng Cơ nói:



- Công việc nước nhà đều ở tay con ta cả, nay con ta đang uống rượu ở

trong cung, ta nên đón nó lúc về mà bắt phải làm thì mới thành sự được.



Khổng Cơ bảo Thạch Khất, Mạnh Áp và Hồn Lương Phu đều mặc giáp đeo gươm

để đợi, còn Khoái Qúi thì phục ở trên đài. Được một lúc, Khổng Khôi ở

trong cung say rượu trở về.



Khổng Cơ gọi mà bảo rằng:



- Trong họ cha mẹ thì ai là thân hơn cả ?



Khổng Khôi nói:



- Họ về bên cha thì có bác chú, họ về bên mẹ thì có cậu mà thôi.



Khổng Cơ nói:



- Con đã biết cậu là người rất thân của mẹ thì sao con lại không giúp cho Khoái Qúi ?



Khổng Khôi nói:



- Tiền quân khi xưa bỏ con lập cháu, vậy nên con không dám trái mệnh.



Khổng Khôi đứng ngay dậy, bỏ đi ra nhà xí. Khổng Cơ sai Thạch Khất và

Mạnh Áp đứng chờ ở ngoài nhà xí, đợi khi Khổng Khôi ra thì nắm lấy áo mà bảo rằng:



- Thế tử cho chúng tôi đến triệu ngài.



Chúng kéo Khổng Khôi lên trên đài, để yết kiến Khoái Qúi. Khổng Cơ đã đứng sẵn ở bên cạnh, quát to lên rằng:



- Khổng Khôi! sao con không lạy thế tử đi ?



Khổng Khôi bất đắc dĩ phải sụp lạy. Khổng Cơ nói:



- Ngày nay con có chịu theo cậu hay không ?



Khổng Khôi nói:



- Xin vâng mệnh!



Khổng Cơ liền giết một con lợn đực để lấy máu, bảo Khóai Qúi và Khổng Khôi ăn thề với nhau.



Khổng Cơ bảo Thạch Khất và Mạnh Áp giữ Khổng Khôi ở trên đài, rồi sai

Hồn Lương Phu đem gia giáp của Khổng Khôi vào đánh Vệ Xuất công. Vệ Xuất công đang say rượu, sắp đi nghỉ, nghe nói có loạn, sai nội thị đi triệu Khổng Khôi. Nội thị nói:



- Chính Khổng Khôi nổi lọan!



Vệ Xuất công kinh sợ, tức khắc lấy hết các đồ bảo khí trốn sang nước Lỗ. Các quan trong triều ai không muốn theo Khoái Qúi đều bỏ trốn cả. Trọng Do là gia thần Khổng Khôi, bấy giờ đang ở ngoài thành, nghe tin Khổng

Khôi bị hiếp, toan vào thành để cứu, gặp quan đại phu là Cao Sài ở trong thành ra, bảo Trọng Do rằng:



- Cửa thành đóng rồi. Quyền chính không ở tay nhà ngươi thì lúc họan nạn, can gì mà nhà ngươi dự đến.



Trọng Do nói:



- ta đã ăn lộc của Khổng Khôi, không dám đứng trông.



Vừa bấy giờ có người ở trong thành đi ra, Trọng Do nhân khi cửa ngỏ,

liền vào trong thành, đi thẳng đến dưới đài, gọi to lên rằng:



- Trọng Do ở đây, quan đại phu họ Khổng cứ xuống!



Khổng Khôi không dám thưa. Trọng Do toan đốt đài. Khoái Qúi sợ, sai

Thạch Khất và Mạnh Áp cầm giáo xuống đài để đánh nhau với Trọng Do.

Trọng Do cầm kiếm để đối địch. Hai ngọn kích của Thạnch Khất và Mạnh Áp

cùng xúm lại đâm Trọng Do đứt cái dải mũ. Trọng Do bị thương nặng, lúc

sắp chết nói:



- Cứ theo trong lễ thì người quân tử dẫu chết cũng không chịu bỏ mũ!



Trọng Do nói xong, còn buộc dải mũ lại, rồi mới chết. Khổng Khôi lập

Khóai Qúi lên nối ngôi, tức là Vệ Trang công. Vệ Trang công lập người

con thứ là Tật làm thế tử, cho Hồn Lương Phu làm quan khanh.



Bấy giờ Khổng Tử ở nước Việt nghe tin Khóai Qúi nổi loạn, bảo học trò rằng:



- Có việc loạn này thì Cao Sài sắp về đây mà Trọng Do thì tất chết mất!



Học trò hỏi:



- Tai sao mà thầy biết ?



Khổng Tử nói:



- Cao Sài biết theo đại nghĩa thì tất toàn thân được, còn Trọng Do hiếu dũng mà khinh sinh, tài nào khỏi chết đuợc!



Nói chưa dứt lời thì quả nhiên thấy Cao Sài chạy về. Thầy trò trông thấy nhau, nửa bi ai nửa mừng rỡ. Bỗng có sứ giả nước Vệ đến, nói với Khổng

Tử rằng:



- Chúa công tôi mới lập, mến tiếng phu tử, nhân có món ăn ngon này, sai tôi đem dâng.



Khổng Tử nhận lấy rồi mở ra xem thì thấy một lọ thịt ướp, liền sai đậy lại mà bảo sứ giả rằng:



- Đây là thịt ướp của học trò ta là Trọng Do, có phải không ?



Sứ giả kinh sợ mà nói rằng:



- Phải! nhưng tại sao phu tử lại biết ?



Khổng Tử nói:



- Nếu không phải vua Vệ thì khi nào lại ban cho thế này!



Khổng Tử sai học trò đem chôn, rồi khóc mà than rằng:



- Ta vẫn thường lo cho Trọng Do bất đắc kỳ tử, nay quả nhiên như thế.



Sứ giả cáo từ xin về. Chưa được bao lâu thì Khổng Tử cũg bị bệnh rồi

mất. Năm ấy ngài bảy mươi ba tuổi. Bấy giờ là ngày kỷ sửu, tháng tư, mùa hạ, năm thứ 41 đời Chu Cảnh vương. Học trò đưa linh cữu ngài ra an táng tại Khúc Phụ, nấm mộ rộng những một khoảnh đất, các cây cối ở đấy, chim chóc không dám đến đậu. Các triều vẫn phong ngài là "đại thành chí

thánh văn tuyên vương", nay lại đổi làm "đại thành chí thánh tiên sư".

Thiên hạ đều lập văn miếu để thờ, mỗi năm hai lần cúng tế. Con cháu

Khổng Tử nối đời được phong là Diễn Thánh công.



Lại nói chuyện Vệ Trang công (Khoái Qúi) nghi Khổng Khôi là vây cánh của Vệ Xuất Công (Triếp), mới cho Khổng Khôi uống rượu say rồi đuổi đi nước khác. Khổng Khôi chạy sang nước Tống. Vệ Trang công thấy kho tàng trống không cả, mới gọi Hồn Lương Phu vào mà thương nghị rằng:



- Nhà ngươi có kế gì lấy lại được các đồ bảo khí không ?



Hồn Lương Phu mật tâu rằng:



- Vong quân bây giờ cũng là con chúa công, sao chúa công không triệu về.