Đông Chu Liệt Quốc

Chương 94 : Thử mạnh thường, phùng hoan gõ gươm hát đánh kiệt tống, vua tề hợp đại binh

Ngày đăng: 01:56 20/04/20


Lại nói Mạnh Thường quân tự Tần trốn về, đừơng qua nước Triệu, Bình

Nguyên quân Triệu, Thắng ra ngoài đón ở ngoài ba mươi dặm, rất là cung

kính. Người nước Triệu vốn nghe tiếng Mạnh Thường quân mà chưa được biết mặt, lúc ấy thi nhau đi xem, thấy Mạnh Thường quân lùn thấp bé nhỏ,

trong bọn người đi xem, có kẻ cười nói rằng:



- Trước kia ta hâm mộ Mạnh Thường quân, cho rằng người trời tất là khôi

vĩ khác thường, nay xem ra thì chỉ là một anh chàng bé nhỏ mà thôi!



Cũng có nhiều người hùa theo cười cợt. Đêm ấy những kẻ cười Mạnh Thường

quân đều bị mất đầu. Bình Nguyên quân biết đó là do môn khách của Mạnh

Thường quân làm ra, nhưng không dám hỏi đến.



Lại nói Tề Mân vương sau khi đã sai Mạnh Thường quân sang Tần, thì như

mất hai cánh tay, sợ nước Tần dùng mất, rất lấy làm lo, cho khi thấy

Mạnh Thường quân trốn về được, thì cả mừng, lại dùng làm tướng quốc. Từ

đó Mạnh Thường quân được tân khách theo về càng đông, bèn chia làm ba

đẳng; khách thượng đẳng gọi là "đại xá", khách trung đẳng gọi là "hạnh

xá", khách hạ đẳng gọi là "truyền xá". Đại xá là gồm những khách nào có

thể thay thế mình, hạng này được ăn thịt đi xe; hạnh xá gồm những khách

nào có thể dùng được, hạng này chỉ được ăn thịt, không được đi xe;

truyền xá gồm những khách chỉ cho ăn cơm sạch trấu cho khỏi đói, ra vào

mặc ý đó là hạng hạ khách. Những người khách mà lúc trước đã có công làm gà gáy chó sủa hay giấy trạm giả, đều được ở vào hạng đại xá. Hàng năm

số bổng thu đựợ ở ấp Tiết, không đủ để cung tân khách, Mạnh Thường quân

bèn đem tiền cho ấp Tiết vay, lấy số lãi để thêm vào sự chi tiêu. Một

hôm có một người thân thể cao lớn, mặc áo rách, đi dép cỏ, tự nói họ

Phùng, tên Hoan, người nước Tề, xin vào yết kiến. Mạnh Thường quân vái

chào mời cùng ngồi, nói rằng:



- Tiên sinh hạ cố, có điều gì dạy Văn này ?



Hoan nói:



- Không có gì. Tôi trộm nghe ngài có lòng yêu mến kẻ sĩ, không chọn sang hèn, cho nên chẳng ngại đem cái thân nghèo đến nương náu cửa ngài.



Mạnh Thường quân cho ở hạng truyền xá. Hơn mười ngày, Mạnh Thường quân hỏi người truyền xá trưởng rằng:



- Người khách mới đến làm việc gì ?



Truyền xá trưởng nói:



- Phùng tiên sinh nghèo quá chẳng có cái gì, chỉ có một thanh kiếm lại

không có vỏ, lấy dây cỏ buộc đeo ở sau lưng, ăn xong cứ gõ gươm mà hát

rằng: "Gươm ơi! về đi thôi! ăn không có cá!"



Mạnh Thường quân cười nói:



- Đó là hắn hiềm ta cho ăn uống chẳng có gì!



Nói xong, liền đổi cho vào ở hạng hạnh xá, bữa ăn nào cũng có cá thịt.

Lại sai người hạnh xá trưởng xét xem ý Hoan thế nào. Năm ngày sau, người hạnh xá trưởng bảo rằng:



- Phùng tiên sinh vẫn gõ gươm mà hát như cũ, nhưng câu hát có khác lần

trước. Tiên sinh hát rằng: "gươm ơi! về đi thôi! đi không có xe!"



Mạnh Thường quân lấy làm lạ, nói:



- Hắn muốn ta đãi vào hạng thượng khách chăng ? người ấy chắc là có tài lạ!



Rồi đổi cho lên hạng đại xá, và sai người đại xá trưởng xét xem thế nào. Hoan ngày ngày cỡi xe ra đi đến đêm mới về, lại hát rằng: "Gươm ơi! về

đi thôi! chẳng có gì gửi về nhà giúp đỡ!"



Đại xá trưởng nói với Mạnh Thường quân.



Mạnh Thường quân nhăn trán nói rằng:



- Người khách ấy sao tham lam đến thế ?



rồi lại sai dò xét xem, nhưng Hoan không hát nữa. Được hơn một năm,

người quản gia nói với Mạnh Thường quân rằng tiền thóc chỉ còn đủ tiêu

trong một tháng. Mạnh Thường quân tra sổ thấy dân gian thiếu nợ rất

nhiều, bèn hỏi các tân khách rằng:



- Ai có thể đến ấp Tiết đòi nợ cho tôi được ?



Người đại xá trưởng nói rằng:



- Phùng tiên sinh chẳng thấy có sở trường gì, nhưng xem ra thì một con

người trung thực có thể dùng được. Hôm trước ông ta đã tự xưng làm

thượng khách. Vậy ngài hãy dùng xem.



Mạnh Thường quân liền cho vời Phùng Hoan đến nói về việc đi thu nợ,

Phùng Hoan nhận lời ngay, không hề từ chối, rồi cỡi xe đi ngay đến ấp

Tiết, ngồi ở trong công phủ. Dân ấp Tiết có đến một vạn nhà, phần nhiều

đều có vay nợ, nghe Tiết công sai vị thượng khách đến thu, thì đem nộp

giả rất nhiều, tính số tiền được lãi hơn mười vạn. Phùng Hoan đem nhiều

tiên sai mua rượu và trâu bò, lại cho yết thị phàm nhà nào có nợ Mạnh

Thường quân, không kể trả được hay không trả được, ngày hôm sau phải

mang giấy đến công phủ để xét. Trăm họ nghe có rượu và trâu bò đều đúng

kỳ mà đến. Phùng Hoan đều cho ăn uống no say, rồi nhân đó xét rõ ai giàu ai nghèo. Ăn xong, mang sổ ra xét lại, hiện người nào dư sức, dẫu nhất

thời không trả được mà về sau có thể trả được, thì bắt viết văn tự xin

tra hạn. Thấy thế, những người nghèo quá không thể trả được đều lạy xin

nới rộng kỳ hạn. Phùng Hoan sai đem hết những giấy nợ của bọn người

nghèo châm lửa đốt, rồi bảo mọi người rằng:



- Mạnh Thường quân sở dĩ cho các ngươi vay tiền là sợ các ngươi không có tiền để làm sinh kế, chứ không phải vì mưu lợi đâu! nhưng Mạnh Thường

quân có mấy ngàn thực khách, bổng lộc không đủ, cho nên bất đắc dĩ phải

đòi số nợ lãi để cung tân khách. Nay người có thể trả được thì cho gia

hạn, người không thể trả được đã đốt bỏ văn tự đi coi như không có nợ.

Mạnh Thường quân làm ơn với ấp Tiết các ngươi co thể gọi là hậu lắm đó!



Trăm họ đều dập đầu nói:



- Mạnh Thường quân thật là cha mẹ chúng tôi!



Trước kh đó có người đem việc đốt giấy nợ báo cho Mạnh Thường quân biết, Mạnh Thường quân giận quá, sai người đi ngay gọi Phùng Hoan về. Phùng

Hoan tay không vào yết kiến Mạnh Thường quân, Mạnh Thường quân giả ý hỏi rằng:



- Khách khó nhọc lắm nhỉ, thu nợ xong rồi à ?



Hoan nói:



- Không những tôi đã vì ngài thu nợ, lại vì ngài thu được cả lòng dân nữa.



Mạnh Thường quân biến sắc mặt trách rằng:
đi rồi, Mân vương nói:



- Việc đánh Tống này, công Tề nhiều hơn, vậy Sở và Ngụy sao được nhận

đất ? bèn đem quân ngậm tăm theo sau Đường Muội, đánh úp quân Sở ở Trùng Để, thừa thắng tiến mãi, thu lấy cả đất Hoài Bắc, lại lấn đánh Tam Tấn

được thắng lợi luôn. Sở, Ngụy căm giận vua Tề phụ ước, quả nhiên đều sai sứ cầu phụ nước Tần. Tần lại cho đó là cái công của Tô Đại.



Tề Mân vương đã lấy được Tống, thì chí khí lại càng kiêu căng, sai sứ đi dụ vua ba nước Vệ, Lỗ, Trần, ép phải xưng thần vào triều. Ba nước sợ

oai phải theo. Mân vương nói:



- Quả nhân chiếm Yên diệt Tống, mở đất hơn nghìn dặm, đánh Lương cắt Sở

oai lừng khắp chư hầu, Lỗ, Vệ đều đã xưng thần. Mai kia sẽ đem một toán

quân lấy đất của hai nhà Chu, dời chín đỉnh đến Lâm Tri, xưng hiệu là

thiên tử để ra lệnh cho thiên hạn, ai còn dám không theo.



Mạnh Thường quân can rằng:



- Vua Tống vì kiêu căng cho nên Tề mới đánh được, xin đại vương nên lấy

nước Tống làm răn. Nhà Chu dẫu hèn yếu, nhưng vẫn là vua chung thiên hạ, bảy nước đánh nhau không dám động đến, là vì còn sợ danh nghĩa. Đại

vương trước kia đã bỏ đế hiệu không xưng, thiên hạ thấy thế đều khen

ngợi nước Tề là khiêm nhượng, nay bỗng nảy ra cái chí thay nhà Chu, e

không phải là cái phúc của nước Tề.



Mân vương nói:



- Vua Thang đánh Kiệt, vua Vũ đánh Trụ. Kiệt, Trụ, chẳng phải là thiên

tử đó ru ? Quả nhân sao không bằng Thang, Vũ, chỉ tiếc ngươi không phải

là Y Doãn, Thái Công đó thôi!



Rồi đó lại thu tướng ấn của Mạnh Thường quân. Mạnh Thường quân sợ bị

giết, bèn cùng tân khách chạy sang Đại Lương ở nhờ công tử Vô Kỵ.



Vô Kỵ là con bé của Ngụy Chiêu vương, tính người rất là khiêm tốn, qúy

trọng kẻ sĩ, niềm nở tiếp đãi tân khách. Một hôm, đang ăn cơm buổi sáng, bỗng có một cho chim cưu bị con chim dao đuổi, vội chui xuống gậm bàn,

Vô Kỵ che giấu cho con chim cưu, thấy con chim dao đi rồi, mới thả cho

ra. Không ngờ con dao ẩn ở trên nóc nhà, thấy con cưu bay ra thì đuổi

bắt mà ăn thịt. Vô Kỵ tự trách rằng:



- Con cưu ấy tránh nạn mà vào với ta, thế mà vẫn bị con dao giết chết, thực là ta phụ con cưu ấy.



Nghĩ vậy rồi cả ngày không ăn, sai các người tả hữu bắt chim dao, được hơn trăm con, mỗi con nhốt vào một cái lồng, Vô Kỵ nói:



- Chỉ có một con dao giết con cưu kia, nỡ nào lại bắt tội lây đến những con dao khác!



Bèn cầm gươm đập lên những cái lồng mà khấn rằng:



- Con nào không giết con cưu kia thì hướng vào ta mà kêu lên, ta sẽ tha cho!



Tất cả chim dao đều kêu, riêng đến một cái lồng, con dao ở trong ấy gục

đầu không dám ngửa trông, bèn bắt ra giết chết. Rồi sai mở lồng thả các

con khác ra. Người ta nghe việc ấy đều lấy làm kính phục, nói rằng:



- Triệu công tử không nỡ phụ một con chim cưu, thì khi nào lại nỡ phụ người!



Từ đó kẻ sĩ không kể hiền ngu đều theo về đông như chợ, khách ăn trong

nhà cũng đến ba nghìn người, cũng như Mạnh Thường quân và Bình Nguyên

quân. Nước Ngụy có một ẩn sĩ là Hầu Doanh, tuổi đã hơn bảy mươi, nhà

nghèo phải làm chức giữ cửa ở Di Môn. Vô Kỵ nghe tiếng là người thanh

khiết và hay có kỳ kế, người trong làng xom đều tôn kính, gọi là Hầu

Sinh, bèn đi xe đến tận nhà yết kiến, lấy hai mươi cân hoàng kim làm lễ

chào. Hầu Sinh từ chối nói rằng:



- Doanh này yên phận nghèo để giữ mình, không nhận lấy của ai một đồng nào, nay đã già rồi, lẽ nào lại vì công tử mà đổi tiết ?



Vô Kỵ không thể ép được, muốn tỏ ý tôn kính cho tân khách biết, bèn đặt

một cuộc đại yến. Đến ngày, tôn thất và các tướng văn tứớng võ nước Nguỵ cùng các quý khách đều đến dự yến. Khi mọi người đã ngồi yên rồi, còn

trống ghế thứ nhất ở bên tả, Vô Kỵ bèn sai sắp xê thân hành đến Di Môn

mời Hầu Sinh đến dự yến. Hầu Sinh lên xe, Vô Kỵ vái mời ngồi trên, Hầu

Sinh không thể nhún nhừơng. Vô Kỵ ngồi bên cạnh để cầm cương, ý rất cung kính. Hầu Sinh lại bảo Vô Kỵ rằng:



- Tôi muốn đến thăm một người bạn là Chu Hợi làm nghề mổ lợn ở trong chợ, công tử có thể cùng đi với tôi được không ?



Vô Kỵ nói:



- Xin cùng đi với tiên sinh!



Rồi đánh xe quặt đường đi vào chợ. Đến cửa hàng thịt, Hầu Sinh nói:



- Công tử hãy tạm dừng xe lại, để già này xuống thăm khách.



Hầu Sinh xuống xe, vào nhà Hợ, cùng Hợi ngồi ở trước bàn thịt nói chuyện với nhau giờ lâu. Hầu Sinh thỉnh thoảng lại nhìn Vô Kỵ, thấy Vô Kỵ vẫn

ra ý vui vẻ không chán nản. Bấy giờ mấy chục tên kỵ binh theo hầu, thấy

Hầu Sinh nói chuyện mãi, lấy làm tức mình, có đứa chửi vụng, Hầu Sinh

cũng nghe tiếng nhưng nhìn Vô Kỵ thì thấy Vô Kỵ vẫn vui vè, bèn từ biệt

Chu Hợi, lại lên xe ngồi trên như trước. Vô Kỵ đi từ giờ ngọ mãi đến giờ thân mới về đến phủ, các qúi khách thấy Vô Kỵ thân đi đón khách, lại để trống chỗ để đợi, không biết là vị du sĩ có tiếng ở nơi nào hay sứ thần nước lớn nào, đều một lòng kính cẩn chờ đợi. Chờ mãi không thấy đến, ai nấy đều chán nản. Bỗng nghe báo công tử đã đón khách về đến nơi, mọi

người đều đứng dậy chờ xem khách là người nào. Khi khách vào, chúng đều

ngước mắt nhìn xem, thì thấy một ông già râu bạc, áo mũ mộc mạc, mọi

người đều kinh ngạc. Vô Kỵ dẫn Hầu Sinh giới thiệu với khắp mọi người,

ai nấy mới biết là người giữ cửa Di Môn, đều không bằng lòng. Vô Kỵ mời

Hầu Sinh ngồi ghế đầu, Hầu Sinh không hề nhún nhường. Khi uống rượu đã

nửa chừng, Vô Kỵ tay nâng chén rượu mời Hầu Sinh, Hầu Sinh đón lấy và

nói rằng:



- Tôi đây là một kẻ lại giữ cửa quan, công tử đã hạ mình đến đón, chờ

lâu ở trong chợ, lại cho ngồi trên các tân khách, về phần tôi thực là

quá phận. Sở dĩ tôi làm ra như thế, là muốn cho công tử được tiếng là

biết nhún mình quí kẻ sĩ vậy!



Các qúi khách đều cười thầm rồi tiệc tan. Từ đó Hầu Sinh là thượng khách của Vô Kỵ. Hầu Sinh nhân đó mà tiến cử Chu Hợi, Vô Kỵ mấy lần đến yết

kiến, nhưng Chu Hợi tuyệt không đến đáp lễ, mà Vô Kỵ cũng không lấy làm

quái, đủ biết là người phục lòng qúi trọng kẻ sĩ nhường nào!



Bấy giờ Mạnh Thường quân đến Ngụy, ở nhờ Vô Kỵ, đồng thanh đồng khí nên

tình ý rất hợp nhau. Mạnh Thường quân vốn chơi thân với Bình Nguyên quân nước Triệu, khuyên Vô Kỵ kết giao với Bình Nguyên quân, Vô Kỵ lại đem

người chị gả cho Bình NGuyên quân làm phu nhân. Từ đó Triệu, Ngụy thông

hiếu với nhau, có Mạnh Thường quân đứng giữa làm môi giới.



Mân vương nước Tề từ sau khi Mạnh Thường quân bỏ đi, lại càng kiêu căng, muốn thay nhà Chu làm thiên tử. Bấy giờ ở nước Tề sinh ra nhiều điềm

quái dị, trời mưa ra máu trong khoảng vài trăm dặm, ướt cả áo người đi

đường, tanh hôi lạ thường; lại đất nẻ vài trượng, nước suối chảy ra; lại có người đến cửa quan mà khóc, chỉ nghe thấy tiếng, mà không thấy hình. Nhân dân lấy làm lo sợ, các quan đại phu là Hồ Cáng, Trần Cử đều lần

lượt vào can ngăn Mân vương và xin gọi Mạnh Thừơng quân về. Mân vương

đều tức giận đem giết chết cả, sai phơi thây ngoài đường đi, để bịt

miệng những người muốn can. Vì vậy bọn Vương Chúc, Thái Sử Hiểu đều xưng bệnh từ chức, về ẩn ở làng xóm.