Động Đình Hồ Ngoại Sử

Chương 13 : Điểu tận cung tàn

Ngày đăng: 14:46 18/04/20


Trưng Nhị thấy chưởng của y hùng hậu, tinh diệu, nàng không đỡ vội, vọt

người sang bên trái tránh. Trương Linh quát một tiếng vung chưởng lên

cao, dồn hết chân khí đánh xuống. Thế chưởng của y hung dữ, xoay tròn,

bụi bay mịt mù. Trưng Nhị nhảy lui liền hai bước. Tay phải phát chiêu,

tay trái biến thành chảo, đó là chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục

ngưu thần chưởng. Bùng một tiếng, người nàng lại vọt lên cao. Trưng Nhị

vốn dĩ thích mặt áo trắng, dây lưng vàng như Phương-Dung. Bây giờ nàng ở trên cao, mượn sức hai chưởng vọt lên như chiếc pháo thăng thiên, trông đẹp vô cùng.



Quang-Vũ cũng phải xao xuyến trong lòng :



– Gái Việt đẹp thật, hèn chi khi xưa Ngô Phù Sai chẳng bị mất nước vì

Tây-Thi. Tại sao trong hậu cung mình lại không có những người như thế

này?



Trương Linh thấy Trưng Nhị đánh ở trên không một chưởng mạnh như vũ bão, khiến y tê dại cả chân tay. Y chưa kịp phát chiêu đánh tiếp, Trưng Nhị

đã tà tà đáp xuống bên cạnh. Nàng xoay mình đánh ra một chưởng từ phải

vòng ra sau sang trái, đó là chiêu Ngưu ngọa ư sơn trong Phục ngưu thần

chưởng. Chiêu này vừa trầm, vừa mãnh liệt. Trương Linh vung tay đỡ, binh một tiếng, cả hai cùng lui lại. Trưng Nhị là người tuyệt thế thông minh mượn sức lui trở lại, nàng chuyển chưởng thành một dây, từ sau về trước đúng lúc Trương Linh vọt đến tấn công. Chưởng này là chưởng Cửu-chân,

hôm ra đảo Đào-hoa, bà Đào Thế-Kiệt đã dạy nàng. Thế chưởng nhàn nhã,

gió phát ra nhẹ nhàng, làm y phục nàng bay phơi phới, trông đẹp không

thể tưởng tượng được. Trên từ Quang-Vũ xuống đến các quan ai cũng xuýt

xoa.



– Gái Việt có khác, đẹp thực!



So về sắc đẹp với Phương-Dung, Tường-Quy, Thiều-Hoa thì Trưng Nhị không

thể nào sánh bằng. Nhưng khi đấu võ, thân pháp nàng làm cho quần áo, dây lưng, khăn choàng cổ bay lượn. Tạo thành một hình ảnh đẹp, như tiên nữ

múa khúc nghê-thường.



Hai người quấn lấy nhau giao chiến. Trương Linh thì trầm trọng, chưởng

lực rất hùng hậu. Còn Trưng Nhị phiêu phiêu, hốt hốt. Nàng dùng toàn võ

công Tản-viên. Đấu được trên trăm hiệp. Các võ tướng mới thấy khâm phục

Trương Linh võ công kinh người, họ tự nghĩ: Bản lĩnh y như vậy, hèn chi

Quang-Vũ không dùng y làm cận vệ. Nhưng dù y tấn công cách nào chăng

nữa, cũng không thắng được Trưng Nhị.



Trước đây Phong-châu song quái làm việc dưới quyền Nghiêm Sơn một thời

gian. Vì vậy Vương hiểu rất tường tận võ công Tản-viên. Vương đã có dịp

trắc nghiệm võ công Song-quái, thấy công lực chúng thấp hơn Vương một

bực. Còn ngoại công, chúng biết có 12 chưởng Phục ngưu. Phục-ngưu thần

chưởng tinh diệu thì có tinh diệu. Song đánh từng chưởng rời rạc, kết

quả lại không đạt được trình độ tối cao. Khi Song-quái phản sư môn, võ

công chúng do Lê Đạo-Sinh truyền dạy, cao hơn sư phụ là Nguyễn

Thành-Công một bậc.



Hôm nay thấy võ công Trưng Nhị, công lực của nàng dường như cao hơn Song quái, không kém gì Vương. Đó là một điều khiến Vương ngạc nhiên. Điều

Vương ngạc nhiên thứ nhì, là nàng xử dụng đủ 36 chiêu Phục ngưu thành

một dây, không còn một chỗ sơ hở nào để phản công.



Thoáng một cái Vương đã tìm ra nguyên lý. Sở dĩ võ công Trưng Nhị đạt

đến mức này là do Đào Kỳ đã dạy nàng nội công tâm pháp và 36 chưởng Phục ngưu mà y đã học được ở trong gậy đồng.



Vương nghĩ thầm:



– Đào sư đệ quả là người tính tình hào sảng rộng rãi. Thấy y dạy Phục

ngưu chưởng pháp cho Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa, ta tưởng y với hai cô nhỏ này

là bạn thanh mai, trúc mã, y dạy để chiều lòng. Thì ra y dạy cả Trưng

Nhị nữa. Người trong võ lâm, khi mình phát minh hoặc tìm kiếm được võ

công kỳ lạ, thường giữ làm của riêng, chỉ dạy cho đệ tử thân tín con cái mà thôi. Ít khi dạy cho người ngoài.



Cơ duyên may mắn, Đào Kỳ được bộ Văn lang võ học kỳ thư, chàng nghĩ đây

là công trình tâm huyết của tổ tiên để lại. Chàng trao cho Khất đại-phu. Khất đại-phu luyện tập dạy lại cho Nguyễn Thành-Công, Đặng Thi-Kế, Đặng Thi-Sách, nhị Trưng, Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa.



Phục-ngưu thần chưởng kỳ diệu ơ¨¨û chỗ người công lực yếu hay mạnh đều

xử dụng được. Nếu xử dụng từng chiêu chỉ có sức mạnh mà thôi. Còn nếu

học được 36 chiêu, chưởng lực biến thành một thứ tường đồng vách sắt bao trùm lấy người, đối phương không sao tấn công được.



Hai người đấu với nhau đến hiệp thứ hai trăm, Phật-Nguyệt hỏi Khất đại-phu:



– Thái sư thúc, xin người chỉ cho Trưng sư tỷ cánh thắng Trương Linh. Vì sợ đấu lâu, thì người Hán biết võ công mình thì khó thay.



Khất đại-phu với Phật-Nguyệt nói bằng tiếng Việt. Những người có mặt ở đó chỉ Nghiêm Sơn là hiểu.



Khất đại-phu quan sát trận đấu. Ông là đại tôn sư võ học, liếc qua ông

cũng biết tình hình. Ông là thầy thuốc, không muốn chém giết người, mà

cũng chẳng còn hiếu thắng. Đối với ông, Trưng Nhị thắng cũng thế, mà

Trương Linh thắng cũng vậy. Ông không quan tâm cho lắm. Ông biết

Quang-Vũ dàn cảnh cho Trương Linh đàn hạch Nghiêm Sơn. Trưng Nhị có

thắng cũng chẳng đi đến đâu. Tuổi tác của Trưng Nhị còn nhỏ hơn Trương

Linh 20 năm luyện tập, nàng có thua Trương Linh cũng là sự thường.



Ông lơ đãng nhìn khắp điện Vị-ương. Khi Phật-Nguyệt nhắc, ông quan sát

trận đấu thấy Trưng Nhị muốn thắng Trương Linh mà không nổi. Ông nghĩ: Ừ thì để con nhỏ này thắng Trương Linh cho nó vui lòng.



Ông lại nghĩ : Chưởng pháp Tản-viên của Trưng Nhị tinh diệu. Nhưng công

lực không đủ phát huy để đàn áp Trương. Muốn đàn áp Trương Linh phải

dùng võ công Cửu-chân.



Ông tủm tỉm cười, quan sát, dự đoán tình hình hai bên, rồi thình lình lên tiếng:



– Ngưu hổ tranh phong, Loa thành nguyệt ảnh.



Trưng Nhị đang đấu với Trương Linh thấy Thái sư thúc hô như vậy, nàng

dùng hết sức ra chiêu Ngưu hổ tranh phong trong Phục ngưu thần chưởng.

Hai chưởng đánh mạnh về phía trước. Trương Linh chụm hai tay đỡ. Hai

chưởng của nàng và y chạm nhau. Người nàng vọt lên cao. Từ trên cao nàng chuyển chưởng thành chiêu Loa thành nguyệt ảnh của Cửu-chân đánh xuống.



Trương Linh tưởng nàng đưa ra chưởng dương cương như trước, vung chưởng

đánh lên, thì chiêu Loa thành nguyệt ảnh chụp xuống người. Bốn chưởng

chạm nhau. Chưởng pháp Cửu-chân khắc chế võ công Trung-nguyên. Chưởng

của Trưng Nhị đánh xuống, khiến Trương Linh bị bật vèo về phía sau đến

mấy trượng, chân tay bủn rủn lảo đảo chực ngã. Trưng Nhị là người thông

minh mưu trí bậc nhất thời Lĩnh Nam. Nàng thấy Trương Linh bị tuyệt căn

bản, bước xéo về phải đánh chiêu Thiết kình thăng thiên, tiếp theo chiêu Kình ngư quá hải, đều là hai chiêu thuộc võ công Cửu-chân mà Đào phu

nhân dạy nàng. Trương Linh thấy hai chiêu chưởng bao hàm khắc tinh với

mình, sát thủ ác liệt. Y vội hít hơi đẩy ra một chưởng đỡ. Chưởng của y

chạm vào chưởng của Trưng Nhị, y cảm thấy như tay đẩy vào quãng không.

Biết nguy hiểm, y nhảy vọt lên cao, thì chiêu Kình ngư quá hải đã bao

trùm khắp người. Cả triều thần thấy vậy đều kêu thét lên kinh hoàng.

Những cao thủ bậc nhất muốn ra tay cứu cũng không kịp. Thiết kình phi

chưởng là chưởng pháp đánh ra kình lực như mũi dao đâm vào. Trương Linh

nhắm mắt chờ chết, Trưng Nhị thấy giết y thì gây oán thù không nhỏ với

triều Hán. Nàng nhảy lùi lại đến bốn bước để giảm bớt sức mãnh liệt của

chưởng này. Trương Linh chỉ còn bị có hai phần công lực đánh vào đầu

gối. Y rơi xuống đất đầu gối nhũn ra, người chúi về phía trước, giống

như quỳ lạy Trưng Nhị. Trưng Nhị nhanh trí, thu chưởng, rồi nhảy lại đỡ y dậy. Nàng cười tủm tỉm:



– Trương hiệu-úy! Đa tạ ngài đã nhẹ tay.



Trên từ Quang-Vũ xuống đến các quan đều nghĩ rằng lời nói của Khất

đại-phu chắc bao hàm một bí ẩn gì giúp Trưng Nhị thắng Trương Linh.

Nhưng họ không có chứng cớ đành im.



Trưng Nhị hướng Quang-Vũ bái rồi nhảy ra khỏi vòng đấu.



Nghiêm Sơn tâu với Quang-Vũ:



– Tâu bệ-hạ Trưng cô nương là quân-sư đạo Kinh-châu, chứ không phải là

võ tướng. Sở dĩ Trưng cô nương biểu diễn được mấy chiêu vì cô nương học

phòng thân mà thôi. Cuộc đấu vừa qua Trưng cô nương được Trương hiệu-úy

nhường cho mấy chiêu.



Quang-Vũ kết huynh đệ với Nghiêm Sơn. Đã từng ăn cùng mâm ngủ cùng

giường, y còn lạ gì tính tình của Vương nữa. Vương nói câu đó là khiêm

nhường, vuốt mặt cho Trương Linh, nhưng đầy kiêu khí. Bảo rằng Trưng Nhị học mấy chiêu phòng thân, mà đã như thế. Nếu nàng học thực, võ công sẽ

đi đến đâu? Vương lại vuốt mặt cho Trương Linh bằng câu nhường cho mấy

chiêu.



Một lão già từ võ ban ra phục xuống đất tâu:



– Tâu bệ-hạ, võ công Trưng cô nương cao cường, tinh diệu thì đúng rồi.

Thần nghe Vũ Chu kiếm pháp thần thông mà cô nương Phật-Nguyệt thắng được y, thần không tin. Xin bệ-hạ cho phép thần được qua lại mấy chiêu với

Phật-Nguyệt.



Nghiêm Sơn nhìn ra thì là Thái-sơn thần kiếm Lưu Quang. Lưu Quang nguyên thuộc tôn thất nhà vua. Cha ông nguyên là Sở-vương, ham võ nghệ, đi

khắp thiên hạ chiêu mộ những tay kiếm khách về, để học lấy những chiêu

thức đặc biệt. Rồi từ đó sắp xếp thành hệ thống, tạo ra phái Thái-sơn.

Cha của ông về ẩn ở Thái-sơn, lập môn hộ luyện tập võ nghệ. Đến đời Lưu

Quang, Vương Mãng cướp ngôi nhà Hán. Lưu Quang xách kiếm phò Quang-Vũ

đánh Vương Mãng, Ngỗi Hiêu rồi Xích Mi. Xích Mi nguyên là một kiếm khách khét tiếng Trung-nguyên, được tôn hiệu là Bất bại thần kiếm. Bởi vậy

lúc đầu y dấy nghĩa ở vùng Lũng-thượng, tranh dành ngôi vua với Vương

Mãng. Sau khi Vương Mãng bại, y tự tôn mình làm vua chống nhà Hán.

Quang-Vũ sai Lưu Quang mang quân chinh tiễu. Xích Mi cùng Lưu Quang đấu

ba ngày, ba đêm không phân thắng bại. Lưu Quang về suy nghĩ nửa tháng,

tìm ra cách phá phi kiếm của Xích-Mi, rồi đánh bại y.



Kiếm pháp của Lưu Quang được coi là vô địch Trung-nguyên. Bất cứ đấu với ai, y chỉ đánh một hai chiêu là đối thủ mất mạng. Y hiện được phong

tước Hoài-nam vương, trấn thủ vùng Lạc-dương, tức kinh-đô nhà vua. Trước đây Nghiêm Sơn đã đấu với y. Chỉ 10 hiệp đã bị đánh bay mất kiếm.

Nghiêm đành chịu thua.



Bây giờ nghe Lưu Quang nói muốn đấu với Phật-Nguyệt, Vương nghĩ:



– Hiện kiếm pháp cao nhất Lĩnh-nam là Nguyễn Phan tiên sinh, thì ông bị

tật. Thứ đến Đào Kỳ, Phương-Dung, Phật-Nguyệt, khó biết ai cao, ai thấp. Không hiểu Phật-Nguyệt có đủ công lực đấu với Lưu Quang hay không?



Vương nói với Phật-Nguyệt:



– Sư muội! Người là thừa kế của Vạn-tín hầu. Vậy người hãy dùng

Long-biên kiếm pháp đấu với Hoài-nam vương mấy chiêu. Hy vọng vương-gia

dạy cho muội những chiêu kiếm tinh kỳ.



Phật-Nguyệt đi theo đạo Kinh-châu, được nghe nói nhiều đến Lưu Quang.

Đặng Vũ nói đến Lưu Quang không ngớt lời ca tụng. Nay thấy y thách nàng

đấu thì không khỏi lo ngại. Tuy nhiên nàng tự nghĩ rằng. Long-biên kiếm

pháp là kiếm pháp của sư tổ Vạn-tín hầu Lý Thân. Mà Lý Thân chế ra để

khắc chế với kiếm pháp Trung-nguyên, nàng tự tin phần nào.
– Khi hạ thần tới đây, thấy bọn mặt dơi tai chuột hạch hỏi. Hạ thần biết chúng được bệ-hạ chuẩn cho. Chứ đời nào chúng dám hạch hỏi một tước

vương cầm đại quân trong tay. Lại là em kết nghĩa của bệ-hạ? Là ân nhân

cứu bệ-hạ. Nhưng dù chúng bới lông tìm vết cũng không tìm ra được một

tội nào của thần.



Nghiêm Sơn nói một hơi làm Quang-Vũ ngượng mặt ngơ ngác. Nghiêm Sơn nói tiếp:



– Dù sao bệ-hạ cũng cho trói thần rồi. Bây giờ bệ-hạ có tha thần ra, vẫn cảm thấy mình là người vong ân, bội nghĩa. Tất sau bệ hạ sẽ tìm cho ra

một vài tội để giết thần, mới lấp được miệng thế gian. Cho nên thần đã

cầm cái chết trong tay. Vậy bây giờ bệ-hạ có chuẩn cho thần một ngựa,

một gươm ngao du bốn biển không?



Hàn-lâm bác sĩ Phạm Thăng tâu:



– Tâu bệ-hạ! Bệ-hạ cho Vương-gia đi như vậy, tướng sĩ khắp nơi náo loạn

hết. Chắc chắn Vương sẽ về Lĩnh Nam, rồi giúp người Lĩnh Nam tạo phản,

thì nguy thay.



Nghiêm Sơn cười:



– Theo ý Phạm hàn-lâm, giá tôi có một tội gì đó, khả dĩ bệ-hạ có thể đem chém. Rồi ra cái bộ nhân từ, nghĩ đến công lao, tha chết, cách hết chức tước, đuổi ra ngoài dân dã phải không?



Tư-đồ, Hàn-lâm bác sĩ, đều nhìn Quang-Vũ cả hai gần như đồng ý với nhau. Nghiêm Sơn cười:



– Điều đó dễ lắm, để hạ thần làm một tội, nghĩa huynh bệ-hạ có thể giải quyết cái khó khăn.



Vương vẫy Tư-đồ, Hàn-lâm bác-sĩ lại gần:



– Hai vị lại đây, tôi nói nhỏ cho nghe phương cách phạm tội của tôi.



Hai người ghé sát đầu lại gần Nghiêm Sơn. Bất thình lình Vương túm tóc hai người quát lên như sấm nổ:



– Cái tội của tôi để bệ-hạ có thể cách chức, đó là giết đại thần trước mặt bệ-hạ vậy.



Vương hít hơi giật mạnh tay, hai người bay ngược lên cao. Vương quật

xuống thềm. Hai người bể tan đầu, óc phọt ra nền điện, máu me chan hòa.



Quang-Vũ kinh hoảng lắp bắp:



– Hiền đệ đừng hại ta.



Nghiêm Sơn cười khổ sở:



– Bệ-hạ kết huynh đệ với thần, mà giờ này không hiểu thần. Người nghĩa

hiệp đã kết bạn với nhau, sống chết có nhau, không vì một lý do gì mà

hại nhau. Lưu Tú huynh, đệ không hại huynh đâu, huynh hô võ sĩ bắt đệ để trị tội đi.



Quang-Vũ hô lên, các võ sĩ chạy vào. Nghiêm Sơn chỉ vào hai xác Tư-đồ, Tư-không nói:



– Các ngươi mau trói ta giam lại. Ta ỷ mình là nghĩa đệ của bệ-hạ giết mất hai đại thần rồi.



Các võ sĩ nhìn Quang-Vũ hỏi ý kiến. Quang-Vũ gật đầu. Chúng xúm lại trói Nghiêm Sơn.



Quang-Vũ tiễn Nghiêm Sơn ra cửa:



– Ta lại cho giam hiền đệ vào nhà lao đây. Hiền đệ đừng giận ta nghe.



Nghiêm Sơn bước đi, không quay lại, Vương chỉ cười nhạt.



Khất đại-phu vội buông cửa sổ, vọt khỏi điện Vị-ương rời Hoàng-thành ra

chỗ trú ngụ. Trưng Nhị, Phật-Nguyệt đón ông. Hai người nhìn nét mặt ông

thì đoán có chuyện hung hiểm đã xảy ra.



Trưng Nhị hỏi:



– Có chuyện không hay xảy ra rồi sao?



Khất đại-phu thở dài:



– Nghiêm Sơn bị bắt giam. Quang-Vũ định giết hết chúng ta!



Ông từ từ thuật lại hết những gì nghe thấy ở điện Vị-ương cho hai người nghe.



Ánh mắt Phật-Nguyệt chiếu ra những tia hàn quang sáng rực, nàng đề nghị:



– Phải viết thư cho Phương-Dung, Vĩnh-Hoa, chúng ta rời khỏi đây ngay đêm nay.



Trưng Nhị ngồi viết thư rồi cột vào chân Thần-ưng. Hai thần-ưng bay bổng lên cao, hướng đất Ích-châu bay đi.



Phật-Nguyệt bàn:



– Bây giờ chúng ta cứu Nghiêm đại ca, rồi hãy đi chứ?



Khất đại-phu lắc đầu:



– Nghiêm Sơn có một bí mật về thân thế, chỉ có ta mới biết. Y vì tình

nghĩa hiệp và vì nhũ mẫu mà giúp Quang-Vũ. Y không muốn phản Quang-Vũ.

Mặt khác y muốn phục hồi Lĩnh Nam như chúng ta. Bây giờ giữa chúng ta

với Quang-Vũ có chiến tranh. Y không thể giúp Quang-Vũ phản Lĩnh Nam. Y

cũng không thể giúp Lĩnh Nam đánh Quang-Vũ. Y đành ở lại cho Quang-Vũ

giết. Y muốn dùng cái chết của mình, hầu làm nản lòng binh tướng Hán,

khích động lòng hận thù của chúng ta với Quang-Vũ.



Phật-Nguyệt bàn:



– Vậy thì sáng mai Quang-Vũ sẽ cho triệu chúng ta vào triều đãi yến, rồi nhân đó bỏ thuốc mê bắt chúng ta. Sau đó y gửi chiếu chỉ đi khắp nơi bố cáo việc bắt giam Nghiêm đại-ca. Chúng ta cần trì hoãn việc của y, càng lâu, càng tốt. Trong khi đó chúng ta có đủ thì giờ hành sự.



Trưng Nhị quyết định:



– Không có gì khó cả. Chúng ta nói với mấy người ăn mày rằng: Khất

đại-phu đi Hàm-dương chữa bệnh cho Thái-thú, ba ngày sau sẽ về. Hoài-nam vương ngồi chờ chúng ta ba ngày, rồi mới cho người đến Hàm-dương tìm.

Khi biết bị chúng ta lừa, thì đã trễ ba ngày. Bấy giờ Quang-Vũ xuống

chiếu. Sai sứ giả truyền lệnh cho Ngô Hán, Đặng Vũ cũng phải mất 10 ngày đi đường. Tổng cộng chúng ta có nửa tháng. Với nửa tháng đó ta dư sức

chiếm Kinh-châu, Hán-trung, làm giang sơn nhà Hán nghiêng ngửa.



Suy nghĩ một lát, Trưng Nhị tiếp:



– Chúng ta đón đường bắt sứ giả giết đi. Rồi giả chiếu chỉ Quang-Vũ gửi

cho Ngô Hán, Đặng Vũ truyền lệnh trao binh quyền cho chúng ta, về

Trường-an nhận chức mới. Còn ta, ta coi như Nghiêm đại ca còn cầm quyền, dùng binh phù Lĩnh-nam vương, lệnh các nơi phản Hán. Tướng nào nghe thì ta để, tướng nào chống thì ta giết. Mọi việc phải thực hiện trong 15

ngày. Sau 15 ngày chiếu chỉ Quang-Vũ tới các nơi thì sự đã rồi. Mặt khác ta cản trở chiếu chỉ đi chậm ngày nào, hay ngày nấy. Một trong ba chúng ta ở lại rình bắt giết sứ giả Quang-Vũ gửi đi Kinh-châu, Ích-châu,

Hán-trung, Lĩnh Nam.



Phật-Nguyệt nói:



– Việc này em có thể làm được.



Trưng Nhị mừng lắm nói:



– Gặp sứ giả phải giết ngay, không nhân nhượng. Sau khi giết đốt, hoặc

chôn xác để không ai nhìn ra. Nhưng công văn trong người sứ giả đem về

cho chị gấp.



Phật-Nguyệt khẳng khái nhận lời.



Trưng Nhị cùng Khất đại-phu phi ngựa về hướng Dương-bình quan. Đến Nam-trịnh, Trưng Nhị bảo Thứ-sử Đô Thiên:



– Tai họa diệt tộc của sư huynh đến nơi rồi!



Đô Thiên kinh hãi hỏi:



– Tại sao vậy?



Trưng Nhị tường thuật tỉ mỉ các việc xảy ra cho Đô Thiên nghe, rồi nàng kết luận:



– Quang-Vũ truyền phái sứ giả đi khắp nơi, truyền bắt giam trừ diệt tất

cả tướng sĩ, thân thuộc, bằng hữu của Nghiêm đại ca. Vì vậy tôi báo để

đại ca biết hầu định liệu.



Đô Thiên chết lặng giờ lâu, hỏi Trưng Nhị:



– Trưng cô nương, cô nghĩ sao?



Trưng Nhị cười:



– Người Trung-nguyên của đại ca thì vua muốn bầy tôi chết, bầy tôi chết. Người Lĩnh Nam chúng tôi không thế. Ta giúp người, người phải đãi ngộ

ta. Ta giúp người mà người không đền đáp ta, ta đòi. Ta xây sự nghiệp

cho người, khi thành công, người giết ta để hưởng tất cả. Ta phải chống

lại để tự tồn.



Đô Thiên run run đáp:



– Trưng cô nương, anh hùng Lĩnh Nam sao thì tôi vậy. Xin cô nương chỉ cho tôi con đường sống nguyện không dám quên ơn.



Trưng Nhị thở dài:



– Đại ca có hai con đường. Một là, chuẩn bị gia thuộc, tắm rửa ngồi chờ

Quang-Vũ sai người tới đem ra chợ chặt đầu, của cải tịch thu. Xác chết

đem phơi nắng mưa, đầu đem bêu khắp nơi cho quần chúng coi.



Đô Thiên nhăn nhó:



– Tôi không chịu được như thế.



Trưng Nhị tiếp:



– Con đường thứ nhì triệu tập hết chân tay thân tín, uống máu ăn thề.

Sau đó gọi các tướng cầm quân, huyện-lệnh, huyện-úy về nói rõ việc mình

làm. Ai theo thì để, ai không theo thì chặt đầu. Rồi truyền, lệnh đi

khắp nơi đóng chặt đồn ải, hợp với chúng tôi phản Hán.



Đô Thiên rút thanh kiếm, chém sạt một góc bàn thề:



– Tôi quyết theo kế sách của cô nương. Cô về đem đại quân ra Trường-an bắt Quang-Vũ, tôi nguyện dẫn đường.