Động Đình Hồ Ngoại Sử

Chương 18 : Bây giờ nàng đã nghe ai Gặp anh ghé nón chạm vai chẳng chào

Ngày đăng: 14:46 18/04/20


Khất đại-phu nói:



– Tên Trần Lữ kia có nội công Âm-nhu giống hệt nội công của phái

Long-biên. Nhưng y lại dùng năm thứ nọc độc là: nọc rắn, nọc rết, nọc

bò-cạp, nọc nhện-độc, nọc tằm-núi hợp lại với phân chim quạ và ma-hoàng. Năm loại độc này khi trộn với phân chim quạ, sẽ giữ nguyên độc chất

trong người. Thêm ma-hoàng để độc chất dễ nhập vào da người ta. Trong

năm thứ nọc độc, mỗi thứ nhập vào một tạng trong người. Nọc Rắn nhập

Tâm, nọc Rết nhập Phế, nọc Bò-cạp nhập Can, nọc Nhện nhập Tỳ, nọc Tằm

nhập Thận. Vì vậy không có cách gì cứu chữa được.



Chu Bá hỏi:



– Sư phụ! Tại sao nội công phái Trường-bạch lại giống nội công phái Long-biên. Hai bên ở cách nhau hàng mấy vạn dặm?



Khất đại-phu thở dài:



– Tất cả cùng một nguồn gốc mà ra. Nguyên khi Vạn-tín hầu Lý Thân cầm

đầu anh hùng Lĩnh Nam sang đấu trước sân rồng Tần Thủy-Hoàng, trong đó

có chín người đệ tử của ngài. Ngài ra lệnh khởi diễn cuộc đấu, ngày đầu

chỉ lấy hòa. Thỉnh thoảng mới tấn công để đối phương trổ hết sở trường

ra. Rồi tối về, thầy trò tóm tắt tất cả chiêu thức của họ lại, tìm lấy

một yếu quyết võ công, đưa ra thế phá. Sau hơn 15 ngày đấu, thầy trò

Vạn-tín hầu tìm ra khắp Trung-nguyên chỉ có 18 nguyên tắc võ học. Hầu

hết đều thiên về Dương-cương. Một lần nữa ngài tìm ra thứ nội công

Âm-nhu, phá nội công Dương-cương của Trung-nguyên. Nội công Âm-nhu này

chỉ cần luyện một năm, có thể phá người luyện nội công Dương-cương đã

tập đến 5 năm. Ngài đem nội công ra dậy cho tất cả 9 người. Sau khi đánh Hung-nô, xây Vạn-lý trường-thành xong, ngài cùng đệ tử trở về Âu-lạc.

Tần Thủy-Hoàng giữ nhị đệ-tử của ngài là Trần Mạnh-Chi lại, lĩnh chức

Nội-giám hiệu-úy thống lĩnh cấm quân, Trần Mạnh-Chi được phong hầu, lấy

vợ Trung-nguyên, sinh con đẻ cái ở vùng Trường-bạch, lập môn phái dạy

học trò. Đời thứ năm thì đổi khác. Phan Huy được sư phụ sai đi tiểu trừ

một bọn dùng thuốc độc giết người, vô ý bị chúng bắt. Chúng dùng nọc độc để tra khảo y phải khai ra bí quyết võ công. Y vận công chống độc. Nội

công y cao, y lại thông minh, nên dù bị kẻ thù dùng thứ tự năm thứ nọc

độc, y chống được cả. Cuối cùng kẻ thù lấy phân chim bắt ăn, để phân

chim cùng độc chất hành hạ y. Y vận công chống lại đến nổi mê man. Kẻ

thù sợ y chết, nấu Ma-hoàng đổ vào cho y uống. Trong cơn mê mê tỉnh

tỉnh, y vẫn vận công chống độc. Hai hôm sau y tỉnh dậy trong đêm, thấy

người khỏe mạnh như thường, nội lực tăng tiến. Y vận công phá gông cùm,

tìm giết kẻ thù. Khi y vận chưởng giết kẻ thù thấy mùi tanh hôi bốc ra,

kẻ trúng chưởng bị đau đớn khủng khiếp, rồi mới chết. Y trở về phúc

trình sư phụ. Sư phụ khuyên y bỏ lối luyện độc chưởng. Y không nghe cứ

bí mật luyện. Cho đến một hôm bị sư phụ bắt được, đuổi y ra khỏi sư môn. Phan Sùng tức Xích-My là hậu duệ của y vậy.



Đào Kỳ ngồi im bây giờ mới xen vào:



– Cùng gốc ở Vạn-tín hầu, tại sao phái Trường-bạch, Long-biên rồi Tản-viên, rồi Cửu-chân lại khác nhau?



Khất đại-phu thở dài:



– Tiểu hữu hỏi câu này thực phải. Nguyên khi rời Trung-nguyên về Âu-lạc. Vạn-tín hầu chế ra nội công Âm-nhu, Trần Mạnh-Chi học được nội công

này, vì vậy nội công Âm-nhu phái Trường-bạch giống nội công phái

Long-biên.



Ngừng một lúc ông tiếp:



– Khi về đến Âu Lạc ông tập trung hết các chiêu thức ngoại công như

quyền, chưởng của các phái Trung-nguyên. Ngài dậy đệ tử là Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung. Vì bấy giờ Vũ Bảo-Trung lĩnh chức Tư-mã của Âu Lạc thống

lĩnh quân đội. Người thống lĩnh quân đội cần học võ công phá võ công

Trung-nguyên để đánh giặc ngoại xâm. Muốn xử dụng những võ công phá võ

công Trung-nguyên đó, phải học nội công Dương-cương. Do vậy Vạn-tín hầu

chế nội công Dương-cương khắc chế nội công Trung-nguyên cho phù hợp với

chiêu thức khắc chế võ công Trung-nguyên. Con cháu, đệ tử Trung-tín hầu

sau lập ra phái Cửu-chân. Phái Cửu-chân thường đỉnh lập, tránh đụng chạm với người Việt, mà chỉ chú ý đến chống ngoại xâm. Vì vậy đời đời được

anh hùng Lĩnh Nam kính trọng.



Chu Bá gật đầu tỏ vẻ hiểu biết:



– Sư phụ! Thì ra là vậy. Trước đây con lấy làm lạ rằng võ công Cửu-chân

song kiệt không hơn chúng con làm bao. Nhưng Đinh-hầu, Đào-hầu được

chúng nhân tôn phục, kính trọng tuyệt đối. Hơn hẳn nhạc phụ con là

Lục-trúc tiên sinh. Chính vì uy đức yêu nước chống giặc?



Khất đại-phu gật đầu:



– Đúng thế! Đất Lĩnh Nam mình, người ít, đất rộng. Bên cạnh Trung-nguyên người đông, đất hẹp. Họ luôn muốn chiếm đất mình, vì vậy người Lĩnh Nam đặt võ đạo chống ngoại xâm lên hàng đầu. Ai chống ngoại xâm được kính

trọng... Để ta tiếp, Vạn-tín hầu dạy con cháu nội công Âm-nhu, kiếm pháp thần thông. Con cháu người lập ra phái Long-biên. Vì vậy nội công

Long-biên với Trường-bạch giống nhau. Tuy nhiên người tập võ công

Cửu-chân muốn luyện võ công Long-biên cũng dễ dàng, vì cùng một nguồn

gốc. Do đó Đào tiểu hữu gặp sư huynh, Nguyễn Phan được sư huynh dạy

Long-biên kiếm pháp, mà chỉ mấy ngày luyện xong. Còn cháu Phương-Dung

lấy chồng rồi, luyện võ công Cửu-chân cũng thành công là thế.



Việc Đào Kỳ học kiếm pháp của Nguyễn Phan dạy lại cho Phương-Dung ai

cũng biết. Còn chuyện Phương-Dung được chồng dạy võ công Cửu-chân thì

không ai biết. Nay nghe Khất đại-phu nói, mọi người ngơ ngác nhìn nàng.

Phương-Dung xấu hổ hỏi:



– Tiên sinh, sao tiên sinh biết cháu luyện võ công phái Cửu-chân?



Khất đại-phu cười:



– Gì mà ta không hiểu! Nội công của cháu thuần Âm-nhu. Khi đối chưởng

với Dương-cương bao giờ cũng lùi lại một bước hóa giải kình lực đối

phương. Nhưng mấy lần cháu xuất thủ ngoài trận tuyến. Ta thấy cháu vận

Dương-cương chống kình lực đối thủ, không chịu lùi bước. Rồi sau đó đổi

ra Âm-nhu, xuất kiếm chiêu, thì ta biết cháu tập võ công Dương-cương của Cửu-chân.



Đô Dương gật đầu bái phục:



– Tiên sinh quả đúng là một tiên ông như người đời gọi. Tiên sinh chỉ

liếc mắt, mà đã biết rõ nguyên ủy mọi việc. Thưa tiên sinh, cháu còn một chuyện thắc mắc, là bộ Văn-Lang võ học kỳ thư, rõ ràng do phò mã Sơn

Tinh chép ra, tức gốc của võ công Văn-lang, tại sao trong đó lại có lẫn

võ công của Vạn-tín hầu?



Khất đại-phu nhìn Đào Kỳ nói:



– Điều này Đào tiểu hữu biết rõ hơn ta. Nguyên khi An Dương vương đánh

nhau với Hùng-vương, phò mã Sơn Tinh đấu với Vạn-tín hầu. Sơn Tinh dùng

võ công Tản-viên, Dương cương, lấy căn bản là Phục Ngưu thần chưởng. Còn Vạn-tín hầu dùng Long-biên kiếm pháp Âm-nhu mà thắng. Khi chiếm được

Văn-Lang, Vạn-tín hầu cướp cây đồng côn tượng trưng uy quyền của Hùng

vương, trong đó chép võ công Tản-viên, tức võ công Văn-Lang. Ngài đem ra nghiên cứu, thấy võ công Tản-viên đạt đến cao độ bậc nhất Dương cương.

Ngài tiếc rẻ một pho kỳ thư võ học. Ngài ngồi ngẫm nghĩ chế ra 36 chiêu

Âm nhu cùng tên với 36 chiêu Dương cương, nhưng nội công lại thuộc Âm

nhu, cách vận sức, chiêu số hoàn toàn khác các chiêu kia. Ngài khắc thẻ

đồng, bỏ chúng vào trong cây đồng côn. Cây đồng côn đó sau thuộc đại đệ

tử của ngài là Trung-tín hầu. Trung-tín hầu tuẫn quốc. Cây gậy vẫn để ở

đền thờ ngài. Đào tiểu hữu có cơ duyên khám phá ra, mà học được đủ cả 36 chiêu Phục Ngưu thần chưởng cả Cương lẫn Nhu.



Tiên-yên nữ-hiệp hỏi:



– Thúc-phụ, cháu thấy có điều kỳ lạ là cây côn đồng chứa 200 thẻ đồng

bên trong. Vậy mà từ Trung-tín hầu đến Đào Kỳ xử dụng tại sao không có

tiếng kêu lóc cóc. Đã có tiếng kêu thì người cầm cây côn phải khám phá

ra chứ.



Đào Kỳ trả lời:



– Khi cháu xử dụng cây côn đồng đấu với Vũ Hỷ, đã thấy hơi khác lạ. Cháu dùng kiếm gõ vào thấy lạch cạch. Lúc thợ rèn cho gậy vào lửa đốt, mối

hàn ở đầu gậy chảy ra. Nắp gậy lộ khe hở. cháu dùng dao cạy, thì thấy

bên trong ngoài 200 thẻ đồng, còn chứa đầy cát. Chính cát đã làm cho gậy với thẻ đồng không gây tiếng động.



Chu Báthắc mắc:



– Trước nhạc phụ con là Lục-trúc tiên sinh chỉ biết có 12 chưởng trong

36 chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Cả 12 chiêu đều thuộc Dương-cương, không có chiêu nào thuộc Âm-nhu cả là tại sao?



Khất đại-phu đáp:



– Vạn-tín hầu chế ra nội công, chưởng pháp Phục-ngưu Âm-nhu, chứ ngài

không xử dụng được chưởng pháp bằng Dương-cương. Vì ở đời làm gì có

người vừa luyện được Âm-nhu lẫn Dương-cương một lúc bao giờ? Do đó bí

lục Phục-ngưu thần chưởng Âm-nhu chỉ có Vạn-tín hầu biết. Còn Phục-ngưu

thần chưởng Dương-cương chỉ có đệ tử Tản-viên biết xử dụng. Nhưng dần dà chưởng pháp bị mai một đi. Chưởng này, mỗi chiêu phát ra kình lực mạnh

vô song. Đánh từng chiêu một, địch có thì giờ xen vào phản công. Nếu

thuộc cả 36 chiêu, xử dụng như mây trôi, nước chảy, như thành đồng, vách sắt đối thủ không sao trở tay kịp. Thế rồi Đào tiểu hữu học nội công

Dương-cương của Cửu-chân. Y có kỳ duyên tìm được bộ Văn-lang võ học kỳ

thư, y không hiểu ất giáp gì cứ tự luyện lấy. Y luyện cả Dương-cương lẫn Âm-nhu. Khi y luyện sắp thành thì gặp ta. Ta đem lý thuyết hòa hợp chân khí thảo luận với y. Y tìm cách hợp hai thứ nội công lại không được.

Trong lần thám thính Thái-hà trang, y đấu nội lực với Phong-châu song

quái, giữa lúc nguy nan, y đâm liều vận sức cương-nhu cùng một lúc.

Không ngờ thành công đánh Song-quái bị thương nặng.



Đào Kỳ nói:



– Khất đại-phu, hồi đầu cháu chỉ có thể phát chiêu hoặc Dương, hoặc Âm.

Sau lần đó cháu có thể phát ra một lúc tay phải Dương tay trái Âm, hoặc

ngược lại. Hiện cháu vẫn nghĩ rằng một ngày nào đó, hậu thế có người tài trí phát minh ra phương thức hòa hợp, đang giao chiến, thì dù bên tay

phải hay trái phát chiêu khi Âm khi Dương. Như vậy có lúc cả hai bên đều Dương hoặc cả hai bên đều Âm, hoặc bên Âm bên Dương rồi thình lình đổi

ngược lại.



Giao-Chi nghe các đại tôn sư võ học bàn luận võ công, nàng biết thân

phận võ công mình kém nhất, nên chỉ ngồi nghe. Bây giờ mới xen vào:



– Thái sư-thúc, cháu có một thắc mắc mà cho đến nay không giải đáp được. Hồi đại hội Tây-hồ Quế-Hoa, Quỳnh-Hoa còn là hai cô gái, võ công kém

cháu và Hoàng sư tỷ xa. Thế rồi hơn hai năm nay, võ công hai người cao

đến độ cháu không ngờ. Trong trận đánh Dương-bình quan, Võ-đô, Phùng

sư-tỷ dùng hai người như là chiến tướng xung trận. Cháu thật không hiểu

nổi.



Khất đại-phu cười:



– Cháu không hiểu là phải, từ trước đến giờ ta chỉ biết có 16 chưởng

Phục-ngưu, dạy cho Quế, Quỳnh. Công lực chúng lại thua cháu xa, xử dụng

Phục-ngưu thần chưởng làm sao phát huy được? Kịp đến khi Đào tiểu-hữu

đây có lòng quảng đại đem tất cả bộ Văn-lang vũ học kỳ thư trao cho ta

nghiên cứu. Ta dạy chúng nội công Dương-cương của Văn-lang rồi dạy chúng đủ 36 chiêu Phục-ngưu thần chưởng. Trong 36 chiêu nếu chúng xử dụng rời rạc, khi đấu với cháu, chỉ vài chưởng là cháu đã thắng chúng. Nhưng

chúng xử dụng đủ 36 chiêu. Chiêu nọ đối chiêu kia, thành một dây liên

miên bất tuyệt, như thành đồng vách sắt, nên võ công đã trở thành huyền

ảo vô song.



Phương-Dung hỏi:



– Trong trận đấu Tây-hồ, cháu thấy tiên sinh dùng một thứ nội công kỳ lạ không phải của Tản-viên, thắng Lục-trúc tiên sinh. Phải chăng là do

tiên sinh chế ra?


– Ngươi ở Trường-sa hay Linh-lăng.



Đào Kỳ nói:



– Tôi ở Lĩnh Nam chưa hề đến Trường-sa hay Linh-lăng.



Quang-Vũ cụt hứng cãi:



– Rõ ràng ngươi nói giọng Trường-sa chứ đâu phải Lĩnh Nam? Người Lĩnh Nam nói tiếng Việt, chứ đâu nói tiếng Hán?



Đào Kỳ buông y ra, nói:



– Ta là người Việt ở Lĩnh-nam. Nhưng ta ở cạnh một người nói giọng

Trường-sa là tỷ phu. Ngươi có muốn biết tên tỷ phu ta không? Tỷ phu ta

rất thân với ngươi.



Quang-Vũ hỏi:



– Ta sinh trưởng ở Trường-sa. Tiên-đế trấn nhậm Trường-sa, ta có rất

nhiều người thân nói giọng Trường-sa. Vậy tỷ phu ngươi là ai?



Đào Kỳ nói gằn:



– Y là Nghiêm Sơn.



Quang-Vũ nghe đến tiếâng Nghiêm Sơn biết điều bất hảo sẽ tới. Y nhìn mặt Đào Kỳ, thấy chàng bớt khắt khe, hỏi:



– Các ngươi là ai? Đến đây định làm gì?



Tiên-yên nữ hiệp đến ngồi trước mặt y nói:



– Để tôi giới thiệu các người này cho hoàng-thượng biết. Đây là Nam-thành vương Trần Công-Minh ở Giao-chỉ.



Quang-Vũ gật đầu:



– Trẫm nghe Tô Định mật tấu về Nam-thành vương làm giặc ở Giao-chỉ chống lại triều đình.



Trần Công-Minh nổi cộc, ông tát Quang-Vũ hai cái nẩy đom đóm mắt:



– Mi là tên Hán hai chân, đồ chó đẻ, đồ khốn kiếp. Đất nước của mi, mi

xưng Kiến-Vũ thiên tử, đất nước của tao, tao xưng Nam-thành vương, tại

sao mi bảo tao làm phản? Vậy tao cũng bảo mi làm phản, chém cái đầu chó

má của mi, mi nghĩ sao?



Quang-Vũ đau quá nói:



– Xin Nam-thành vương tha cho trẫm. Trẫm sẽ phong người làm Nam-thành vương thực thụ.



Trần Công-Minh rút kiếm đưa mấy nhát trên đầu Quang-Vũ, làm y hoảng hồn, y co rút đầu lại. Ông nói:



– Lĩnh Nam là đất nhà ta. Ta là Nam-thành vương không phong chức cho Quang-Vũ thì thôi. Tại sao Quang-Vũ lại phong chức cho ta?



Tiên-yên nữ-hiệp tự giới thiệu:



– Tôi là Tiên-yên nữ hiệp Trần Thị Phương-Chi. Tôi là sư phụ của Phùng Vĩnh-Hoa, nữ quân-sư đạo quân Hán-trung, đánh vào Thục.



Quang-Vũ gật đầu:



– Trẫn đọc tấu chương của Ngô Hán, nói rằng Phùng Vĩnh-Hoa tài sắc vẹn

toàn, điều khiển ba quân tiến đánh 9 thành của Thục, Trẫm sẽ phong cho

Phùng Vĩnh-Hoa làm công-chúa.



Miệng tuy nói thế, nhưng Quang-Vũ cũng đoán ra được phần nào những người hiện diện hôm nay vì lý do gì.



Tiên-yên nữ hiệp chỉ Đào Kỳ:



– Vị này là Đào Kỳ giữ chức Trấn-viễn đại tướng quân, điều khiển đạo

quân Lĩnh-nam tiến vào Thành-đô đầu tiên. Y là sư đệ của Lĩnh-nam vương

phi.



Quang-Vũ đã nghe nói rất nhiều về Đào Kỳ. Y thấy Đào Kỳ có tài, muốn dùng để thay Nghiêm Sơn, y nói:



– Thì ra Đào tướng quân, trẫm nghe nói nhan sắc của Đào phu-nhân khuynh

quốc, kiếm thuật thần thông, thâm mưu viễn lự. Còn tướng quân võ công

bậc nhất thiên hạ, trí mưu hơn người. Trẫn đợi sau khi bình Thục xong,

sẽ phong cho ngươi làm Tả tướng-quốc, tước Hán-trung vương. Hôm nay

tướng quân vào đây có việc gì?



Tiên-yên nữ-hiệp chỉ Ngũ-phương thần kiếm nói:



– Đây là Ngũ-phương thần kiếm, người đã giúp Cảnh-Thủy hoàng-đế tiến

chiếm Trường-an, giết Vương Mãng, được ban cho Thượng-phương bảo kiếm.



Hoàng-kiếm đưa thanh kiếm cho Quang-Vũ coi. Y thấy đầu thanh kiếm có con rồng, trên khắc chữ Ngự tứ Thượng-phương bảo kiếm, dưới khắc chữ Thượng trảm hôn quân, hạ trảm gian thần.



Quang-Vũ nói:



– Vậy thì ra đại công thần của bản triều. Tại sao Ngũ-phương thần kiếm lại cùng ba vị này đến đây khó dễ trẫm?



Tiên-yên nữ hiệp cười gằn:



– Ngũ-phương thần kiếm hôm đến đây để trảm đầu hôn quân.



Quang-Vũ run run hỏi:



– Trẫm một thanh gươm, phất cờ, trùng hưng đại nghiệp tổ tiên. Sao lại gọi là hôn quân?



Hoàng-kiếm thấy y run sợ quá nói:



– Được để tôi nói cho hoàng-thượng nghe tội lỗi của mình. Tôi hỏi

hoàng-thượng. Nếu có người Hán, có mẹ không nhận, lại đi nhận người hại

mẹ mình làm mẹ. Hoàng-thượng xử như thế nào?



Quang-Vũ khẳng khái:



– Con không nhận mẹ, chỉ còn là cầm thú. Trẫm sẽ chặt đầu tức khắc.



Hoàng-kiếm đáp:



– Nếu một đại thần cũng phạm tội trên?



Quang-Vũ nói:



– Đã làm tới đại-thần, phải làm gương cho dân chúng, thế mà lại bất

hiếu, còn để làm gì? Phải chém đầu đem bêu khắp chợ để noi gương.



Hoàng-kiếm giọng đanh thép hơn:



– Còn thân làm hoàng-đế, có mẹ không thờ, đi tôn thờ một người hại mẹ

mình đến không còn đường sống. Ngày ngày ngồi trên ngai vàng ban phúc

cho thiên hạ, mà không nhận mẹ mình thì phạt như thế nào?



Quang-Vũ lắc đầu:



– Sai rồi, mẫu hậu trẫm họ Mã, hiện ở Lạc-dương. Trẫm vẫn thần hôn định tỉnh, kính lễ như thiên tiên, sao có chuyện đó được?



Hoàng-kiếm gằn từng tiếng:



– Mã thái-hậu không phải là mẹ đẻ của hoàng-thượng đâu. Mẹ của

hoàng-thượng họ Hàn tên Tú-Anh, hiện đang bị Mã thái-hậu truy lùng rất

gắt, không biết giờ này có còn sống được chăng?



Quang-Vũ ngẩn người ra:



– Có chứng cớ nào không?



Tiên-yên nữ hiệp đưa cho Quang-Vũ cuốn nhật ký của Hàn Tú-Anh, chép từ

khi gặp Trường-sa Định-vương cho đến khi Nghiêm Sơn đem quân đánh Thục.

Rồi bà kể vắn tắt cho Quang-Vũ nghe chuyện Mã thái-hậu chiêu mộ nhiều

cao thủ để làm việc này.



Gần đây Quang-Vũ thấy Mã thái-hậu bỏ nhiều tiền bạc chiêu mộ cao thủ,

sai họ đi làm việc bí mật. Y tưởng rằng thái-hậu cùng lo việc ổn định

giang sơn cho mình, nên không chú ý. Tới các đại thần như Tam-công đều

kính nể Thái-hậu vô cùng. Nhất nhất Thái-hậu đưa ý kiến gì là Tam-công

nghe răm rắp. Quang-Vũ là người hiếu thảo. Y không dám trái ý mẹ. Bây

giờ nghe Hoàng-kiếm nói, y thấy mình như người mê ngủ mới tỉnh. Quang-Vũ cầm tập sách nhỏ đọc sơ lược một lần, rồi lại đọc lần thứ nhì. Y lắc

đầu tỏ vẻ không tin:



– Trẫm không tin điều này.



Trần Công-Minh nói:



– Dễ lắm, trong những người theo hầu ngươi, có Dư Thúy-Nham nuôi ngươi

từ nhỏ phải không? Ngươi cứ đòi Dư-thị lên đây, tra hỏi, thì ra ngay,

chứ có khó gì đâu?



Bạch-kiếm nói:



– Còn nữa, phàm người đàn bà nào đã sinh con một lần, da bụng nhăn nheo

như vảy cá. Ngươi với Mã thái-hậu đã là tình mẹ con, khi thần hôn định

tỉnh, ngươi cứ thử xem bụng bà thì rõ: da bụng bà mịn màng, chứng tỏ bà

chưa từng sinh nở bao giờ.



Xích-kiếm trấn cửa Nam, mở cửa ngó đầu ra ngoài, thấy một cung nữ đang ngồi ngủ gật ở đó, bảo thị:



– Hoàng-thượng cho triệu Dư Thúy-Nham lên gấp.



Cung-nữ vội vàng xuống lầu ngay. Bạch-kiếm nói:



– Trong chỗ kín của ngươi có mụn nốt ruồi son rất lớn. Bàn tay ngươi có ba gạch song song với nhau, ngươi có biết không?



Quang-Vũ giật mình nói:



– Sao? Sao ngươi biết?



Hoàng-kiếm nói:



– Thì mẫu thân ngươi nói như thế. Ta muốn khám xem có đúng hay không?



Quang-Vũ xòe bàn tay, quả có ba đường chỉ nằm song song, như ba sợi chỉ căng thẳng. Y nói:



– Còn chỗ kín quả có nốt ruồi son lớn, ngươi khỏi cần khám, ta công nhận là đủ rồi.