Động Đình Hồ Ngoại Sử
Chương 20 : Oai trấn Trung nguyên
Ngày đăng: 14:46 18/04/20
Đào Kỳ cười nhạt :
– Điều này dễ lắm. Ta hãy đánh ngươi một chưởng, đẩy chất độc vào người
như Tạ Thanh-Minh, xem ngươi có thể nào không tự đem thuốc giải ra không ?
Bỗng hai người từ hai phía nhảy ra tấn công Đào Kỳ. Đào Kỳ nhận ra đó là Kiến-oai đại tướng-quân Cảnh Yểm, Bô-lỗ đại tướng-quân Mã Vũ. Kình lực
mạnh gấp bội Tạ Thanh-Minh. Vương không dám coi thường. Tay trái phát
chiêu Thanh-ngưu nhập điền Dương-cương, tay phải phát chiêu Ác ngưu nan
độ Âm-nhu. Bùng, bịch hai tiếng. Vương cảm thấy ngạt thở, nhảy lui lại
ba bước. Trong khi đó Cảnh Yểm, Mã Vũ cũng bật ngược trở lại. Nhanh như
chớp Tang Cung chụp lấy Trần Lữ nhảy ra ngoài điện.
Cảnh Yểm, Mã Vũ cùng lên tiếng khen ngợi Đào Kỳ :
–Tuyệt ! Võ công tuyệt cao. Thất lễ ! Thất lễ !
Sau khi Đào Kỳ đối chưởng với Cảnh Yểm, Mã Vũ, Vương biết một mình chàng khó địch lại Tương-dương cửu hùng. Vương tính kế khác, Vương hướng vào
Hoài-nam vương :
– Vương gia ! Trần Lữ là người của Xích My ẩn náu trong quân, không biết để làm gì ? Vương gia điều khiển quân mã thiên hạ. Mong Vương-gia dậy
cho.
Hoài-nam vương vẫy Trần Lữ:
– Tả quân hiệu-úy, ngươi bước ra đây cho ta hỏi mấy lời.
Trần Lữ từ từ bước ra. Hoài-nam vương hỏi y:
– Hán-trung vương Đào vương-gia nói ngươi là người của Xích My, sự thực như thế nào, ngươi phải khai cho rõ?
Trần Lữ chắp tay nói:
– Tiểu tướng từ khi theo Phục-ba tướng-quân đến giờ lập nhiều công lao
mà lên. Tiểu tướng không hề biết Xích Mi và phái Trường-bạch bao giờ cả.
Mã Viện cũng tiếp:
– Thần thấy hình như những người Lĩnh Nam có âm mưu chia rẽ giữa ngoại
thích với hoàng-tộc. Hán-trung vương định nói khống cho Trần tả-quân
hiệu-úy. Xin Vương-gia xét lại.
Hoài-nam vương là người ghét cay, ghét đắng ngoại thích, nay nghe Mã Viện nói vậy. Ông cho rằng y nói xóc. Ông nghiêm nghị nói:
– Dù bịa đặt, dù vu cáo cũng không thoát khỏi cái lý của nó.
Bạch-kiếm là người nhiều mưu trí, mấy hôm nay ông bị nhóm Mã Viện làm
nhục, bực tức không có chỗ phát tiết, nhất là Trần Lữ võ công không phải là tầm thường, chính y đã đấu với một trong Ngũ kiếm ngang tay.
Bạch-kiếm đấu với y, thấy công lực, võ công y cao hơn ông, dường như y
tránh né không dùng hết lực. Chỉ một lần phải đối chưởng với Tiên-yên
nữ-hiệp. Y bị dồn vào thế bí, mới xử dụng hết công lực, khiến cho
Tiên-yên nữ-hiệp bị trúng độc.
Bạch-kiếm nhảy vèo đến phóng chưởng đánh y. Thế chưởng cực kỳ quái dị
nhắm đỉnh đầu chụp xuống. Trần Lữ vội vàng đưa tay lên đỡ. Bốp một
tiếng, cả hai đều lùi lại. Một mùi tanh hôi từ tay Trần Lữ bốc ra khiến
mọi người buồn nôn.
Hoài-nam vương hô:
– Võ sĩ đâu, bắt y lại.
Trần Lữ hoảng kinh nhắm Hoài-nam vương đánh một chưởng. Chưởng phong nhu hòa ẩn mùi tanh hôi nồng nặc. Hoài-nam vương cung tay gạt. Trần Lữ bỏ
ông tấn công Quang-Vũ. Hoàng-kiếm, Bạch-kiếm đứng cạnh cùng xuất chưởng
tấn công Trần Lữ cứu Quang-Vũ. Trần Lữ lạng người đi một cái đến phía
sau hai người, tay trái chụp cổ Quang-Vũ giơ lên. Tay phải để lên đầu y
nói :
– Ngươi mau bảo tất cả dừng tay, nếu không ta nhả độc chưởng, ngươi chết tức thời.
Quang-Vũ quát lên :
– Các ngươi không được vọng động.
Tần-vương Lưu Nghi hỏi :
– Trần Lữ, ngươi muốn gì nói ra đi.
Trần Lữ nói :
– Đúng như tên lỏi con Đào Kỳ nói. Ta là sư đệ của Xích Mi. Ta không
giúp Xích Mi làm phản. Thế mà khi Xích Mi bị hại, quan quân nhà Hán truy lùng bắt giết ta. Trải qua trăm cay, nghìn đắng mới thoát chết. Trong
khi trốn chạy ta nghe một tin...
Trần Lữ ngưng một lúc nhìn Mã Viện nói :
– Chính bọn ngoại thích các ngươi lộ cho ta biết. Trước kia thiên hạ
chia làm bảy nước. Các nước của cải súc tích vô hạn. Sau bảy nước bị Tần Thủy-Hoàng gồm thâu. Của cải thuộc về Tần. Thời Tần, Thủy-Hoàng vơ vét
hết của cải dân chúng các nước xung quanh mang về Hàm-dương. Khi tổ tiên nhà Hán chiếm Hàm-dương, của cải đó lại về nhà Hán. Suốt đời nhà Hán
các vua đã thụ lĩnh của cải biết bao đời, bao nước, lại còn nhận đồ tiến cống của các nước xung quanh, kho đụn chồng chất. Khi Vương Mãng cướp
ngôi, kho tàng đó lại về Vương Mãng. Cảnh-Thủy hoàng-đế khởi binh đánh
Vương Mãng. Người sai Xích-Mi cầm quân giết Vương Mãng, đoạt lại tất cả
kho tàng đó. Xích Mi cất giấu một nơi. Rồi Xích-Mi bị bại. Tấm bản đồ
kho tàng nằm trong tay vợ con y. Vợ con y bị xử tử, tấm bản đồ đó hiện ở đâu chúng ta không biết. Vì vậy chúng ta chia nhau làm quan với Hán để
tìm tung tích kho tàng.
Hoài-nam vương hỏi:
– Thế Tạ Thanh-Minh với mi là thế nào?
– Tạ Thanh-Minh là em kết nghĩa của Xích-Mi. Y học võ công phái khác,
khi gần Xích-Mi, y học được phép luyện độc chưởng. Nghĩa là nội công của y thuộc dương-cương, độc chưởng lại của phái Trường-bạch chúng ta.
Tần-vương nói:
– Ngươi phải buông Thiên-tử ngay. Nếu không chúng ta băm vằm ngươi ra từng mảnh.
– Tần-vương uổng có tiếng là trí dũng hơn đời, mà sao lại ngu quá vậy?
Nếu các ngươi băm vằm ta được, thì đã băm vằm rồi. Bây giờ điều kiện thế này: Ta tha Quang-Vũ ra. Song trước hết y phải ban chỉ tha Tạ
Thanh-Minh cùng với ta. Quang-Vũ phải theo ta ra ngoài thành. Y không
được mang quân sĩ theo. Ngoài thành có sẵn hai con ngựa cùng lương thực
cho chúng ta tẩu thoát. Vậy có ai phản đối giải pháp này không?
Bỗng một tiếng ầm trên nóc điện. Ngói gạch, cát bụi bay mịt mờ, có hai bóng người nhảy xuống. Tiếng phụ nữ thanh thoát:
– Ta phản đối giải pháp của ngươi.
Người còn trên không đã xỉa kiếm tấn công Hoài-nam vương. Chiêu kiếm
nhắm giữa cổ Vương đâm tới. Ông hoảng hốt lộn người đi ba vòng mới tránh khỏi. Người đó lại tấn công Tần-vương, chiêu kiếm đâm vào ngực ông. Ông tránh không kịp lăn tròn dưới đất đến 10 trượng. Người đó lại dùng năm
chiêu nữa đẩy lui Ngũ-phương thần kiếm, rồi tấn công Trần Lữ.
Đào Kỳ nghe tiếng nói biết vợ mình. Khi Phương-Dung tấn công Tần-vương,
Hoài-nam vương thì Tương-dương thất hùng, Phùng Dị, Mã Viện đồng tấn
công nàng. Đào Kỳ vận âm kình phát liền chín chưởng trong Phục-ngưu thần chưởng đánh lui cả bọn. Chín người xúm vào bao vây Đào Kỳ. Khất đại-phu từ trên nóc điện nhảy xuống, ông phóng chưởng tấn công Phùng Dị, Mã
Viện.
Chỉ hai chiêu kiếm, Phương-Dung đã đâm Trần Lữ bị thương ở tay, y buông
Quang-Vũ xuống. Phương-Dung chụp lấy Quang-Vũ. Nàng xỉa một nhát kiếm
trúng chân Trần Lữ. Y ngã lăn giữa điện Vị-ương.
Trong điện Vị-ương Ngũ-phương thần-kiếm, mỗi người đấu với một Tương-dương thất hùng. Còn Đào Kỳ đấu với Cảnh Yểm, Mã Vũ.
Ngũ-phương thần-kiếm đấu với bọn Tương-dương, một chọi một ngang tay
nhau. Vì cả hai bên đều là những cao thủ tuyệt hảo của Trung-nguyên.
Còn Khất đại-phu đấu với Phùng, Mã ngang tay nhau. Ông tuy là đệ nhất
cao nhân Lĩnh-nam. Nhưng võ công con người dù ở đâu cũng vậy, chỉ có thể đạt tới tuyệt đỉnh là hết. Tuy giữa những cái tuyệt đỉnh đó, khó có sự
sai biệt nhau.
Đào Kỳ đấu với Mã Vũ, Cảnh Yểm cứ mỗi lần Vương dùng Phục-ngưu thần
chưởng của Tản-viên, thì chân tay rung động, khí huyết nhộn nhạo. Vương
biết rằng công lực chúng không kém gì mình, một đấu với hai e khó thắng. Khi Vương xử dụng Phục-ngưu thần chưởng âm nhu của Vạn-tín hầu Lý Thân, thì y như chiếm được thượng phong đôi chút.
Vương tự nghĩ:
– Vậy ta thử dùng võ công Cửu-chân xem sao.
Vương lui lại phát chiêu Loa-thành nguyệt ảnh đánh xuống đầu Mã Vũ, Mã
Vũ vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người y bật lui trở lại, y phải lui
lại bốn năm bước mới đứng vững. Đào Kỳ tỉnh ngộ:
– Thì ra võ công Cửu-chân khắc chế võ công bọn Tương-dương.
Vương phát chiêu Hải triều lãng đãng là chiêu thức uy mãnh nhất của
Cửu-chân. Lớp đầu phát ra, chưởng phong ào ào. Bình một tiếng, Cảnh Yểm
bay bổng lên cao, đập lưng vào cột điện. Đào Kỳ phát lớp thứ nhì đánh
vào Mã Vũ. Mã Vũ vừa đứng dậy được, công lực chưa phục hồi, bị trúng một chưởng như vũ bão, y bay bổng ra sân điện, nằm đứ đừ. Đào Kỳ phát lớp
thứ ba, lớp này mạnh đến long trời lở đất, trúng vào Cảnh Yểm, y bị bay
ra sân nằm bên cạnh Mã Vũ.
Khổ một cái là Hải triều lãng đãng có những năm lớp, đã phát đến lớp thứ ba thì không ngừng được lớp thứ tư và năm. Thấy Ngô Lương đang tấn công Phương-Dung, Vương hướng lớp thứ tư vào người y. Y chỉ kêu được một
tiếng ối, người bay bổng lên bắn vọt ra ngoài sân, rơi xuống bụi hoa.
Lớp thứ năm của Đào Kỳ phát ra. Vương hướng vào năm cao thủ Tương-dương
đang đấu với Ngũ-phương thần kiếm. Ngũ-phương thần kiếm biết lợi hại của chưởng này, cả năm bỏ bọn Tương-dương vọt lên cao tránh. Năm tướng danh tiếng Kinh-châu thấy chưởng Đào Kỳ, đồng quay lại phóng năm chưởng đỡ.
Binh, binh... liền năm tiếng. Đào Kỳ vẫn đứng nguyên. Còn năm tướng bật
lùi mấy bước, ọe một tiếng, phun ra búng máu tươi. Năm người lảo đảo
ngồi xuống vận công.
Khất đại-phu đấu với Phùng Dị, Mã Viện ngang tay. Ông thấy Đào Kỳ hiển
linh uy vũ, liền áp dụng phương pháp chuyển Âm thành Dương, chuyển Dương thành Âm mà ông sáng chế ra, đánh Lê Đạo-Sinh ở Tây-hồ. Ông vung hai
chưởng đánh hai người, sáu chưởng gặp nhau, ông ung dung đứng yên lặng
chuyển sức của Mã Viện, Phùng Dị đánh lẫn nhau. Người ngoài nhìn vào
tưởng ông đấu nội công với hai người. Có ngờ đâu ông dùng nội lực của
người nọ đánh người kia. Được một lát Mã Viện công lực yếu hơn. Mồ hôi y nhỏ giọt khói bốc lên đầu.
Đào Kỳ thấy vậy nghĩ:
– Một năm trước đây, ta với Khất đại-phu đều không phải là đối thủ của
bọn Tương-dương cửu hùng. Không biết Quang-Vũ làm cách nào mà chiêu dụ
được chín tên theo y. Cũng may ta giết được Sầm Bành và Tế Tuân, chúng
chỉ còn bảy người với Phùng Dị là đáng lo.
Về phần Khất đại phu, đấu với Mã Viện, Phùng Dị, ông dúng quy pháp
Âm-Dương, hút chân khí của hai người. Một lát sau, Mã Viện lảo đảo mấy
cái, rồi ngã ngồi xuống điện. Khất đại-phu là một đại danh y. Đánh người đấy, lại thương người. Ông chĩa tay phóng đến vèo một cái trúng giữa
huyệt Bách-hội của Mã Viện. Y từ từ đứng dậy, mặt xám như tro.
Đào Kỳ hỏi Phương-Dung về việc cứu Nghiêm Sơn:
– Kết quả ra sao?
Phương-Dung gật đầu:
– Tốt đẹp cả.
Phương-Dung đặt Quang-Vũ ngồi lên ngai. Nàng hỏi ngũ-phương thần kiếm:
– Thần-kiếm! Việc đi đến đâu rồi.
Hoàng-kiếm đáp:
– Chưa đi đến đâu hết.
Tần-vương Lưu Nghi hỏi Phương-Dung:
– Cô nương là ai? Mà lại đến đây cứu giá?
Triều thần đều biết mặt Khất đại-phu, hôm ông chữa bệnh cho Quang-Vũ. Họ không ngờ võ công ông cao đến trình độ đó. Họ đã thấy kiếm pháp của
Phật-Nguyệt. Họ tưởng rằng Lĩnh Nam chỉ có một người kiếm thuật thần
thông. Bây giờ họ thấy thêm Phương-Dung nữa.
Khất đại-phu chỉ Phương-Dung nói:
– Đây là Đào phu nhân nhũ danh Phương-Dung, chính là quân-sư của Lĩnh-nam vương Nghiêm Sơn.
Quần thần cùng kêu lên:
– Ồ!
– Úi chà!
– Ối trời!
Vì họ đã được nghe Quân-sư của Nghiêm Sơn là một thiếu phụ trẻ trên 20
tuổi, nhan sắc diễm lệ kiếm thuật thần thông. Nay họ được thấy tận mắt.
Quang-Vũ được Phương-Dung cứu thoát. Bây giờ y mới nhìn rõ mặt nàng,
dung mạo nàng đẹp hơn Tường-Quy nhiều. Nàng mặc bộ quần áo trắng, dây
lưng xanh, trông phiêu phiêu, hốt hốt như một tiên nữ.
Quang-Vũ cảm động nói:
– Trần tiên-sinh, hôm trước tiên-sinh chữa bệnh cho trẫm, đến nay trẫm
– Nên theo y phục những năm trước đây, người ta cho các thiếu nữ trung
học Trưng-vương, Gia-long tại Sài-gòn đóng vai hai bà Trưng vào ngày phụ nữ hay ngày giỗ vua Trưng.
Một vị khuyên:
– Cứ cho mặc áo dài, khăn đóng vành vàng, khoác ngoài lớp sa mỏng trắng, quần trắng, đi hài là được.
Đem ý kiến ấy hỏi một vị khác, lập tức vị này bác bỏ:
– Không được, như vậy là đầu gà đít vịt, chẳng ra thể thống gì. Bởi
chiếc áo dài đó phỏng theo áo Le Mur mới chế vào thập niên 1930, rồi
biến hóa đi. Khi áo Le Mur vào đến Huế, lại có màn tân cổ giao duyên,
thêm chiếc khăn với cái áo choàng ngoài. Y phục ấy đâu phải y phục thời
Trưng Vương. Quần đó là quần tân thời, không phải của người Việt xưa.
Một vị khác khuyên :
– Bà Trưng quê ở Bắc-ninh, Sơn-tây, chắc hồi ấy mặc quần đen, áo búi
que, đầu đội khăn vuông mỏ quạ như con gái Bắc-ninh đầu thế kỷ này.
Lập tức vị khác nhăn mặt :
– Bậy ! Phụ nữ Việt-nam mặc quần, mới chỉ có từ thời Nguyễn. Trước kia
các cụ bà mặc váy. Trong văn chương bình dân chẳng từng có câu :
Tháng tám có chiếu vua ra,
Cấm quần không đáy, người ta hãi hùng.
Không đi thì chợ không đông,
Đi thì ăn cướp quần chồng sao đang!
Như vậy từ triều Nguyễn về trước đàn ông mặc quần, đàn bà mặc váy. Loại
váy này cho đến năm 1947-1948 ở nông thôn vẫn còn tồn tại. Còn áo dài ư ? Từ triều Nguyễn về trước phụ nữ Việt-nam mặc áo tứ thân, thắt khăn vòng qua bụng nút ở ngang hông. Gái chưa chồng thì nút ở bên phải. Gái có
chồng thì nút ở bên trái.
Đại loại những ý kiến như thế được đưa ra. Nhưng không ý kiến nào có luận cứ vững chắc. Có vị khuyên :
– Anh viết tiểu thuyết như vẽ ma, vẽ quỷ, muốn tả y phục thời ấy như thế nào mà chả được.
Ý kiến này gia nghiêm gạt thẳng :
– Lịch đại văn học Việt-nam, chưa có vị nào chịu bỏ thì giờ, chịu bỏ cả
đời viết tiểu thuyết lịch sử trường thiên. Nay con là người đầu tiên
viết. Con viết vì muốn làm sáng tỏ hào khí dân tộc. Con viết vì muốn trả nợ tổ tiên. Ông kỳ vọng vào con. Bố kỳ vọng vào con. Con phải học hỏi
những gì của người đi trước. Tại sao bộ Tam quốc chí của La Quán-Trung
lại thành công hơn các bộ Phong thần, Đông-Chu liệt quốc, Tây-Hán,
Đông-Hán, Thuyết-Đường, Chinh-Đông, Chinh-Tây ? Một là văn La diệu hơn
văn các vị kia. Hai là La đi sát với lịch-sử, đi sát với sự thực, nên
được tin tưởng hơn. Gần đây, Kim-Dung thâu thái của cổ nhân, thêm vào
nghệ thuật Tây-phương mà thành công. Kim-Dung chỉ đặt tác phẩm vào hoàn
cảnh lịch sử, mà không viết tiểu thuyết lịch sử. Con đi sau tất cả bằng
ấy người. Con có kiến thức Trung-quốc ngang với họ, con lại có kiến thức Tây-phương sâu xa. Con hơn họ ở điểm con được luyện võ từ nhỏ, nay đến
trình độ đáng kể. Con hơn hẳn họ ở điểm con học tới trình độ cao nhất
của y học Đông lẫn Tây. Con cần viết sao cho tác phẩm không đi đến chỗ
quá đáng như ma trâu đầu rắn. Con nhớ rằng một lời con viết là
Trưng-Vương nói, Hưng-Đạo vương nói. Tuyệt đối không nên, không thể bịa
đặt quá đáng. Không tìm ra y phục thời vua Trưng chắc chắn, thì tìm lấy
một nét có thể bấu víu được, là quần áo các bà hầu bóng Ngài. Hay hãy
tìm trong y phục cổ Việt-nam, lấy một loại quần áo cổ điển nhất, rồi
phong cho làm y phục thời vua Trưng là được rồi, việc gì phải quá câu
nệ.
Thói thường của thuật giả, là khi gặp vấn đề nan giải là tắm rửa sạch
sẽ, đến trước bảo điện đọc kinh Bát-nhã, rồi nhập thiền. Sau khi nhập
Thiền nhắm mắt tưởng tượng. Trong tưởng tượng đó thấy gì hiện ra thì tùy nghi giải quyết. Bởi vậy đối với y phục thời Lĩnh-nam thuật giả nhập
Thiền ba lần đều thấy vua Trưng mặc một thứ y phục rất khác lạ với y
phục Trung-quốc và Việt-nam, nhưng lại rất quen thuộc.
Trong dịp giỗ vua Trưng năm 1969, thuật giả chở mẫu thân đi giúp bà bạn
hầu bóng hay nói nôm na là lên đồng vua Trưng. Khi bà mặc quần áo về
đồng uy nghi mà đẹp vô cùng. Thuật giả mới bừng tỉnh : Mình đáng chết
thực, thì ra từ nhỏ mình đã thấy hình bóng, y phục vua Trưng qua các bà
đồng, cho nên trong lúc nhập thiền, y phục đó hiện lên.
Kỷ niệm về thời thơ ấu sống lại mãnh liệt. Đền thờ hai Bà bao giờ cũng
có tượng, trong tư thế ngồi bệ vệ, quần áo rực rỡ, đầu đội khăn. Tượng
đặt phía sau màn. Chỉ quan khách đặt biệt mới được phép mở màn chiêm
ngưỡng tượng hai Bà. Hai bên bệ thờ còn có tượng của sáu hai nữ đại công thần, đẹp đẽ trong các bộ quần áo đủ màu, đầu đội khăn.
Hồi ấy cứ đến ngày mùng 6 tháng 2 âm lịch, tại các đền thờ vua Trưng,
ban trị sự đền tổ chức lễ tắm tượng, để chuẩn bị cho ngày Thánh hóa. Lễ
tắm tượng được tổ chức theo nghi lễ cổ truyền như sau :
Công việc tắm tượng được trao cho một cụ bà đạo cao đức trọng. Trước
ngày tắm tượng, bà phải trai giới ba ngày, tắm rửa sạch sẽ. Sáng ngày 6
tháng 2, bà mặc áo dài đỏ cùng với ba đồng nam, ba thiếu nữ, bưng nước
ngũ vị hương, dùng lụa mới tắm tượng. Năm 11 tuổi, thuật giả cũng được
hưởng ân huệ bưng nước ngũ vị tắm tượng vua Trưng cùng sáu nữ đại công
thần. Vì vậy được thấy tường tận y phục các ngài. Y phục đó giống hệt y
phục các bà đồng mặc, khi vào giá vua Trưng.
Đặt vấn đề ai đã may quần áo mặc vào tượng vua Trưng, cùng mười hai nữ
đại công-thần ? Người may đã căn cứ vào đâu để may các loại y phục như
vậy ? Một lần thuật giả đem vấn đề đó đặt ra với các vị trưởng thượng.
Các vị đó đều cho ý kiến. Nhưng ý kiến của giáo sư Nguyễn Đăng-Thục có
tính chất trung dung nhất, thuật giả xin ghi lại :
– Sau khi bà Trưng nhảy xuống sông Hát-giang tự tử, mười hai nữ đại
công-thần vị quốc vong thân. Người đương thời đã lập đền, tạc tượng thờ. Dĩ nhiên họ phải may quần áo giống như hồi sinh tiền các ngài đã mặc.
Đền thờ sau này tuy có trùng tu, xây mới. Nhưng không ai có can đảm may
loại y phục khác với y phục trên tượng các ngài. Vì, vậy y phục trên
tượng các ngài là y phục thời Lĩnh-nam. Còn các bà đồng khi bà hầu bóng, bao giờ cũng may y phục giống như y phục mặc trên tượng. Kết lại y phục trên tượng hai bà Trưng và mười hai nữ đại công thần được coi là đúng
nhất so với y phục phụ nữ hồi đầu thế kỷ thứ nhất.
Thế là thuật giả căn cứ y phục trên tượng vua Trưng và mười hai nữ đại
công-thần mà tả y phục phụ nữ thời Lĩnh-nam. Nhưng chỉ tuân theo loại
quần áo mà không theo màu sắc. Về mầu sắc, thì lại theo sử, hoặc theo
các cuốn phổ lưu truyền. Như y phục bà Hoàng Thiều-Hoa thường màu vàng. Y phục bà Hồ Đề theo người Mường, mầu tím. Y phục bà Phùng Vĩnh-Hoa, mầu
trắng v.v...
Về cờ của Lĩnh-nam với Hán, thời bấy giờ mang mầu gì ? Tìm mầu sắc cờ
Hán, phải trở lại với bộ sử ký Tư-mã Thiên. Trong đoạn Lưu Bang luận bàn với Trương Lương nên dùng mầu gì. Trương Lương đưa ý kiến nên dùng mầu
đỏ. Lưu Bang kinh ngạc, vì Hán ở phương Tây thuộc Kim. Mầu đỏ thuộc Hỏa. Hỏa khắc Kim, nếu dùng mầu đỏ chẳng hóa ra tự mình khắc hại mình ư ?
Trương Lương giải thích rằng : Hán ở phương Tây thuộc Kim. Kim cần Hỏa
mới luyện thành khí. Kim không Hỏa thì không thành. Vì vậy ta mới dùng
cờ màu đỏ. Khi vua Quang-Vũ nhà Hán phất cờ trung hưng, nối tiếp sự
nghiệp tổ tiên, vẫn dùng cờ đỏ.
Còn cờ Lĩnh-nam ? Không một bộ sách nào ghi lại. Chúng tôi tạm theo cờ
của đền thờ vua Trưng. Nền màu vàng, viền ngoài đỏ và tua màu xanh. Theo cuốn phổ của đền thờ Giao-long nữ ở Hổ-môn, Quảng-tây tả trận Lãng-bạc : Thủy quân Hán bại bỏ chạy, từ xa, hễ thấy thuyền nào kéo cờ vàng, tưởng là thuyền Lĩnh-Nam, thì bỏ vũ khí trốn chạy. Vì vậy trong toàn cuộc
khởi nghĩa vua Trưng, tôi tả cờ Lĩnh-nam màu vàng.
Từ đấy thuật giả cặm cụi viết và vấn đề y phục thời Lĩnh-nam không nhắc
đến nữa. Bẵng đi hai mươi năm không đem ra bàn cãi. Cho đến năm 1986,
khi trao bản thảo bộ Anh hùng Lĩnh-nam cho nhà xuất bản Nam-á. Vấn đề y
phục của vua Trưng lại được đặt ra. Anh Mai Trung giám đốc nhà xuất bản
Nam-á muốn chọn một trong các bức danh họa đã có sẵn về vua Bà, làm bìa. Thuật giả nghiên cứu trong bốn mươi bức tranh vẽ cũng như sơn mài làm
trước và sau 1975. Trong hơn bốn mươi bức đó, y phục hai Bà chia làm ba
loại khác nhau :
– Loại thứ nhất, phỏng theo y phục các thiếu nữ mặc, khi đóng vai hai Bà Trưng trong ngày lễ phụ nữ vào khoảng 1956-1963. Trong đó có bức tranh
của họa sĩ Phạm Hoàng, đã được chọn để làm bìa cho bộ Anh hùng Lĩnh-nam.
– Loại thứ hai quần trắng, áo dài Le Mur mầu vàng. Không thắt lưng,
ngoài choàng một lớp sa mỏng mầu trắng. Chân đi hài đầu đội khăn vành.
– Loại thứ ba ngoài chít khăn mầu, quấn ngoài một giải khăn, để xõa
xuống lưng. Áo dài hơi giống áo tứ thân, cổ choàng khăn, phủ xuống đến
vai. Ngang lưng quấn khăn, nút sang một bên hông. Vua Trưng thì nút ở
bên trái, bà Trưng Nhị thì nút ở bên phải, quần hơi giống quần phụ nữ
ngày nay. Chân đi giày, lưng đeo kiếm.
Sở dĩ chúng tôi chọn tranh của Phạm Hoàng làm bìa, vì biết chắc rằng hồi quyết định y phục cho các thiếu nữ trường Trưng-Vương, Gia-Long đóng
vai Hai Bà, ban tổ chức có tham khảo ý kiến của ban trị sự hội tôn kính
Trưng-Vương. Trong hội này có rất nhiều lính hay ghế của hai Bà. Sau khi bàn đi tính lại, dung hòa ý kiến, ban tổ chức đưa ra y phục trên, hơi
giống y phục của tượng hai Bà, sau đó canh tân đôi chút.
Một lý do nữa khiến chúng tôi chọn tranh ấy, vì trước mắt dân chúng
Việt-nam, dù muốn, dù không y phục đó đã thành quen rồi. Tiểu thuyết
khác với lịch sử. Sử cần đúng, cần thực chính xác. Tiểu thuyết cần quen
với quần chúng. Khi loại y phục đó quen với quần chúng, thì tự nó đã
thành tiểu thuyết rồi.
Một lý do nữa khiến chúng tôi chọn tranh ấy, vì trước mắt dân chúng
Việt-nam, dù muốn, dù không y phục đó đã thành quen rồi. Tiểu thuyết
khác với lịch sử. Sử cần đúng, cần thực chính xác. Tiểu thuyết cần quen
với quần chúng. Khi loại y phục đó quen với quần chúng, thì tự nó đã
thành tiểu thuyết rồi.
Có thân hữu nêu ý kiến, nên cho người về Việt-nam chụp hình đền thờ vua
Trưng ở quận Hai Bà Trưng ở Hà-nội, hoặc chụp hình hai Bà trong đền để
làm hình bìa.
Đến đầu năm 1988, giữa anh Mai Trung và thuật giả có bàn luận về việc
chia cuộc khởi nghĩa của vua Trưng ra làm ba đoạn. Giai đoạn một vẫn để
nguyên tên là Anh hùng Lĩnh-nam từ quyển một đến quyển bốn. Giai đoạn
hai từ quyển năm đến quyển bẩy, đặt tên là Động-đình hồ ngoại-sử. Giai
đoạn ba, từ quyển tám đến quyển mười đặt tên là Cẩm-khê di hận. Khi
quyết định như vậy, đương nhiên hình bìa phải thay đổi. Hình bìa bộ
Động-đình hồ ngoại sử phải nhờ họa sĩ Phạm Đình-Tín vẽ. Khi họa sĩ vẽ
xong, thuật giả xem y phục của bà Phật-Nguyệt đứng trên chiếm hạm, thấy
giống hoàn toàn y phục của các bà mặc khi hầu bóng Trưng-Vương. Thuật
giả có hỏi họa sĩ Tín về lý do nào mà ông vẽ y phục như vậy ? Ông nháy
mắt rồi cười tủm tỉm trả lời :
– A... à thì tôi đã thấy nhiều lần rồi.
Thuật giả hiểu trong cuộc đời gần bảy mươi năm của ông. Ông đã từng được xem bà xã là một nhà văn nữ lên đồng, các giá về vua Trưng, Hoàng
Thiều-Hoa, Trần Quốc, cho nên ông vẽ giống như y phục ấy.
Ngày 20 tháng 12 năm 1989, thuật giả có công tác y học phải đi Vân-nam.
Khác với những lần trước, muốn đi Vân-nam phải đến Bắc-kinh, rồi đổi máy bay đi Côn-minh. Lần này có đường bay mới từ Vọng-các đi thẳng Vân-nam. Thuật giả tới Vọng-các rồi đổi máy bay đi Côn-minh. Vừa đi vừa về giảm
đường bay được 12.000 cây số, thành ra thời gian công tác dư được năm
ngày. Các bạn đồng hành lập tức trở về Vọng-các tắm hơi, hoặc vào nhà
hàng No hands để được các cô gái Thái xinh đẹp đút cơm, mớm thức ăn cho. Thuật giả thì lợi dụng thời gian đó đi Ngô-châu, Liễu-châu thuộc
Quảng-tây và Quảng-châu thuộc Quảng-đông. Tại các bảo tàng viện di tích
văn hóa cổ ở đây, thuật giả tìm được nhiều ánh sáng về y phục thời vua
Trưng.
Trong bốn bảo tàng viện Côn-minh, Ngô-châu, Liễu-châu và Quảng-châu, các công trình khai quật những ngôi mộ cổ, cũng như tranh khắc ở các thạch
động, trống đồng vào thế kỷ thứ nhất, cung cấp cho thuật giả nhiều chi
tiết quan trọng về y phục thế kỷ thứ nhất. Dưới đây thuật giả trình bày
các hình chụp các y phục vào thời vua Trưng và thời Đông-Hán.
– Lạc-dương, kinh đô nhà Đông-Hán.
– Liêu-đông, vùng phía Đông Trung-quốc.
– Vân-nam, Quảng-tây, Quảng-đông, lãnh thổ Lĩnh-nam.
Qua các hình cho ta thấy y phục ba tỉnh thuộc lãnh thổ Lĩnh-nam hoàn
toàn khác biệt với y phục thuộc lĩnh thổ Hán. Khác biệt đến độ gần như
hoàn toàn. Mà y phục đó giống y như y phục trên tượng vua Trưng, cũng
như các bà lên đồng mặc khi hầu giá các anh hùng thời Lĩnh-nam.
Thuật giả không chép sử, không thể và không bao giờ có hy vọng viết sử.
Thuật giả chỉ viết tiểu thuyết lịch sử. Tiểu thuyết tha hồ phóng túng.
Dưới ngòi bút của La Quán-Trung, Ngụy Võ-đế Tào Tháo đang là một anh
hùng, đang là một thi sĩ đáng yêu trở thành một thứ gian hùng. Quan Vũ
đang là một tên vũ phu thô lỗ, trở thành một đại anh hùng, trung nghĩa
thiên thu. Thuật giả không viết theo lối đó. Ngược lại theo sát lịch sử. Tuy y phục thời Lĩnh-nam không phải là yếu tố quan trọng, nhưng khi tả
các ngài cũng không thể cho các ngài mặc quần đen, đội khăn vuông mỏ quạ như vậy chẳng khác gì cho các ngài mặc quần jean, nhảy disco. Tuy nhiên nếu muốn cho vua Trưng mặc váy, áo búi que, đầu chít khăn vuông mỏ quạ
như các cô gái Bắc-ninh hồi trước 1945, trong giai đoạn đầu các cuộc
khởi nghĩa thì cũng còn có thể cãi được rằng : Khi bà Trưng mới khởi
nghĩa, bà mặc quần áo giống như thôn nữ, để hòa đồng với mọi người thì
cũng được. Mấy năm trước đây, Phong trào liên bang Đông Nam Á, tranh đấu ở hải ngoại, đã cho cờ của quân Tây-sơn mầu vàng. Vua Quang-Trung thì
mặc giáp trụ giống như giáp trụ của Tôn Sĩ-Nghị. Rồi phong trào ra
nghiêm lệnh, cấm dùng bất cứ cờ nào khác. Hôm làm lễ ra mắt phong trào,
có mấy đứa trẻ con hơn mười tuổi tham dự, chúng cãi rằng cờ của vua
Quang-Trung mầu đào và ngài mặc quần áo nâu sồng như trai thôn quê, vì
căn cứ vào bài Ai tư vãn của công chúa Ngọc-Hân sau khi được phong
Hoàng-hậu, khóc ngài :
Mà nay áo vải cờ đào,
Thay vì người ta giải thích cho chúng, thì lại xua đuổi chúng ra, Buồn thực.
Viết tại Paris ngày giỗ thứ 1947 vua Trưng (1990).