Động Đình Hồ Ngoại Sử

Chương 6 : Tây vu Lục

Ngày đăng: 14:46 18/04/20


Trưng Trắc lệnh cho thuyền xuôi giòng sông. Nàng kể cho Vương Phúc, Trần Quốc nghe: Nguyên sau khi Nghiêm Sơn, Đào Kỳ xuất chinh, thì ở nhà

Phong Châu Song-quái vượt ngục. Vũ Trinh Thục là người cầm đầu hệ thống

Tế-tác Lĩnh Nam, được tin chính Lê Đạo Sinh cứu Song-quái, rồi cùng các

đệ tử như Đức Hiệp, Hoàng Đức lên đường đi Trung Nguyên. Vũ Trinh Thục

không biết bọn họ đi Trung Nguyên làm gì. Trưng Trắc viết thư thông báo

cho các lộ anh hùng Lĩnh Nam biết. Đặng Thi Sách ước tính Lê Đạo Sinh đi Trung Nguyên sẽ bất lợi cho Nghiêm Sơn.



Giữa lúc đó Đặng Thi Sách được thư của Tây Vu Thiên ưng lục tướng tức

Lục Sún hỏi về lời cam kết giữa Thi Sách với Công Tôn Thiệu trên núi Kim Sơn cách đây hơn mười năm. Thi Sách chưa kịp trả lời, lại được thư của

Phùng Vĩnh Hoa với các anh hùng Lĩnh Nam đạo Hán Trung, cũng hỏi về

chuyện đó. Đặng Thi Sách, Trưng Trắc không dám quyết định, hội ý với Đào Thế Kiệt, để cùng đi Trung Nguyên quan sát tình hình. Hai người viết

thư trả lời Phùng Vĩnh Hoa phải "cẩn thận". Giữa lúc chuẩn bị lên đường

thì Đào Thế Kiệt lâm bịnh nặng. Ông sai sư đệ Đinh Đại, mang theo đệ tử

Quách Lãng với con gái là Đinh Bạch Nương lên đường. Mục đích chuyến đi, báo cho anh hùng Lĩnh Nam biết vụ Lê Đạo Sinh để đề phòng. Mục đích thứ nhì, quan sát tình hình Trung Nguyên, hầu đưa ra quyết định kịp thời.



Trưng Trắc tới Phiên Ngung, thì bản doanh của Nam Hải nữ hiệp đã dời vào đất Thục. Trưng Trắc gặp Lương Hồng Châu, Lê Ngọc Trinh trấn giữ hậu

quân, tiếp tế cho đạo binh của Đinh Công Thắng và Triệu Anh Vũ.



Trần Quốc tường thuật tỉ mỉ từ ngày tiến quân sang Trung Nguyên đến giờ. Nhất là những gì đạo quân Lĩnh Nam đã làm. Nhiệm vụ của nàng với Vương

Phúc là liên lạc với đạo quân Đinh Công Thắng. Trên đường đi, gặp Vương

Nguyên, rồi gặp Trưng Trắc. Trong khi đó chính Trưng Trắc đang trên

đường liên lạc với đạo quân Đào Kỳ.



Vương Phúc là Bình Nam Vương, trấn thủ mặt Nam Ích Châu. Chàng nổi tiếng có tài dùng binh. Nghe Trưng Trắc kể, chàng thắc mắc:



– Núi Kim Sơn cao đến hai ngàn trượng (4000 mét ngày nay), muốn đi từ

Tượng Quận vào thục phải băng qua đến hai mươi ngọn núi. Núi cao trùng

trùng điệp điệp. Trên đỉnh núi quanh năm có tuyết. Đến con chim bay qua

còn khó khăn thay, làm thế nào đưa một đạo quân vào?



Trưng Trắc tường thuật.



Đoạn này thuật cuộc tiến quân của đạo binh



Đinh Công Thắng và Triệu Anh Vũ vượt núi Thiên-sơn



Đinh Công Thắng với Triệu Anh Vũ mang đội quân Thần Hầu của Hồ Đề hơn

vạn người đến Xích Thủy. Cả hai người đều tuổi Trung niên trên 40, võ

công cao, kinh nghiệm nhiều, văn võ kiêm toàn. Họ ở vai sư thúc Nghiêm

Sơn, danh dự, địa vị đáng tôn kính, cho nên dù giá nào, họ cũng phải

vượt Kim Sơn vào Thục.



Triệu Anh Vũ đề nghị:



– Đinh Công huynh là chủ tướng, chỉ huy phía sau, tôi là phó tướng phải

lên trước. Nếu tôi lên xong, đổ núi, thì Đinh Công huynh hãy lên thì

vừa.



Đinh Công Thắng không chịu:



– Tôi là chủ tướng, tôi đi trước, Triệu huynh đi sau.



Hai người thâm trầm, họ không cãi nhau, mà đề nghị rút thăm. Khi rút thăm thì Triệu Anh Vũ được đi trước. Đinh Công Thắng dặn:



– Triệu huynh lên đầu tiên, nhớ cẩn thận, vì phía bên kia núi, Công Tôn

Thuận đóng một đội tiễn thủ trên trăm người. Hãy đợi chúng ta lên đông

đủ rồi cùng đánh xuống một thể.



Điều khiển đội Thần hầu là Tây Vu lục hầu tướng. Tuổi chúng từ 13 đến

17. Ông chỉ huy là Trung Quân hầu tướng, tuổi lớn nhất là 17. Người Tây

Vu sống với núi rừng thiên nhiên. Họ bắt khỉ nuôi, dạy như người để sai

vặt. Khi Hồ Đề được bầu làm Thống Lĩnh, nàng hợp những người nuôi khỉ,

dạy khỉ lại gom góp kinh nghiệm. Từ đó nàng đưa ra phương pháp nuôi, dạy khỉ. Nàng cho lệnh bắt khỉ, chia thành từng trăm con, nuôi chúng bằng

rau, đậu, trái cây có tẩm nước muối. Chỉ ít lâu sau chúng trở thành

ghiền. Đuổi chúng cũng không đi. Nàng huấn luyện chúng như một đội quân.



Đội Thần hầu lên đến mấy ngàn con. Nàng chia chúng thành một Ngũ 5 con.

Một Lượng 25 con. Một tốt 100 con. Một Lữ 500 con. Nàng có tất cả 5 Lữ

cộng chung tới 2500 con. Khi quyết định Bắc viện, nàng tuyên bố chọn một Lữ 500 con theo. Các Lữ trưởng tranh nhau đòi đi. Cuối cùng nàng cho

thi leo cây, băng núi. Nếu tướng sĩ chỉ huy Lữ nào giỏi hơn hết thì được tùng chinh. Sau cuộc thi, TâyVu lục hầu tướng thắng.Nàng quyết định

mang cả Lữ của Lục hầu tướng lên đường. Nàng còn đem theo đội dã nhân,

tức Hầu quân hầu tướng 100 con nữa.



Tây Vu lục hầu tướng là 6 đứa trẻ. Cha mẹ nó bị người Hán giết chết,

hoặc bị bắt đi lao binh. Chúng bơ vơ côi cut, nàng đem về nuôi dạy.

Chúng sống chung với khỉ, leo trèo mãi thành quen. Suốt ngày chúng đu từ cây nọ sang cây kia. Chúng chỉ huy đàn Thần hầu rất giỏi.



Triệu Anh Vũ hỏi Trung quân hầu tướng là Hoàng hầu;



– Bây giờ cháu cho đội nào xuất trận đầu tiên?



Hoàng Hầu hỏi:



– Sư bá định kế hoạch như thế nào, để cháu còn điều khiển "ba quân".



Triệu Anh Vũ thấy thằng bé chưa tới 18 tuổi, mà nói năng như người lớn thì mừng lắm:



– Ta muốn chăng giây lên đỉnh Kim Sơn, cho quân bám giây leo tiếp, chăng từ đỉnh xuống chân núi phía trong. Từ chân núi phía trong, lại chăng

lên đỉnh thứ nhì. Chúng ta cần vượt trước sau 9 đỉnh núi cao và 6 đỉnh

núi thấp.



Hoàng Hầu rút cờ lệnh mầu đen nói:



– Trần Bắc tướng quân, Hắc hầu tướng nghe lệnh.



Hắc hầu đứng dậy uy nghi như người lớn:



– Có tiểu tướng đây.



Hoàng Hầu nói:



– Ngươi cho Thần hầu leo lên đỉnh núi thứ nhất rồi trấn ở đó. Nếu có

địch tới tấn công, lập tức chống trả, dù chết cũng không được lùi, chỉ

cần ngươi chống được khoảng mấy khắc, thì dưới này trên một trăm quân sẽ lên trợ chiến với ngươi.



Trấn bắc hầu tướng ra sân hú lên một tiếng dài liên miên bất tuyệt, lập

tức trăm con khỉ lông đen tập hợp ở sân. Nó méo miệng, nhăn mặt làm

hiệu, khọt khẹt nói với Thần hầu. Đám Thần hầu mỗi con đeo một thanh đao nhỏ ở lưng, ôm sợi dây lên đường.



Hoàng hầu tướng gọi:



– Chinh Đông hầu tướng nghe lệnh.



Thanh hầu tướng bước ra oai vệ, ưỡn ngực:



– Có tiểu tướng đây.



Triệu Anh Vũ suýt bật cười, nhưng ông vội bụm miệng lại giả vờ ho.



Hoàng hầu tướng nói:



– Ngươi dẫn Thần hầu, mỗi hầu đeo trên người một quả bầu đựng nước. Lưng đeo thực nhiều trái cây, tiếp tế cho các đạo Thần hầu. Sau khi Trấn Bắc tướng quân và đạo Hắc hầu lên đỉnh thứ nhất, thì ngươi cho Thần hầu đeo mỗi hầu một sợi day vào lưng, bám day leo lên, tiếp tế cho đội Hắc hầu. Vì sau khi leo núi sẽ khát nước và đói lắm.



Thanh hầu tướng hỏi:



– Chúng tôi tiếp tế sao còn phải đeo ở lưng một sợi dây chi cho nặng nữa?



Hoàng hầu tướng oai vệ:



– Ngươi biết một mà không biết hai. Phàm phép dùng binh phải lấy mau làm căn bản. Tại sao phải chia ra Hắc hầu chăng dây mà Thanh hầu không

chăng dây được? Lợi dụng leo lên tiếp tế, một công đôi việc, ngươi cho

mang theo lên 100 sợi dây rồi cột một đầu vào cây hay đá, thả xuống, như vậy là ta có tới 200 sợi. Ngươi hiểu không?



Thanh hầu tướng vâng lệnh, ra ngoài hú lên tập họp thần hầu.



Triệu Anh Vũn ngẩn người ra về phép ước tính điều quân của cậu bé Hoàng

hầu tướng. Ông có biết đâu, khi còn ở Tây Vu, Hồ Đề đã cho luyện tập

hành quân hàng trăm lần, bọn hcúng điều khiển đã quan, nhiều kinh

nghiệm.



Hoàng hầu tướng lại gọi:



– Bình-nam hầu tướng nghe lệnh.



– Ngươi dẫn Thần-hầu, mỗi hầu mang theo hai cuộn dây. Đợi cho Thanh hầu

tướng lên đỉnh, thì ngươi lên sau. Ngươi cho Thần-hầu bám vách núi leo

lên đỉnh núi thứ nhì. Lên tới, cột dây vào đá, vào cây, rồi thả xuống

dưới. Ngươi trấn thủ tại đây, đề phòng giặc tới cắt dây. Nếu giặc tới

phải chiến đấu tới cùng bảo vệ đầu cầu. Trên đỉnh núi thứ nhì có tuyết,

ngươi phải mang theo 200 viên thuốc chống lạnh, bắt mỗi Thần-hầu uống

một viên, nếu không thì không chịu nổi.



Hoàng hầu tướng lại gọi:



– Trấn-tây hầu tướng nghe lệnh.



Bạch hầu bước vào hô lớn:



– Tiểu tướng nghe lệnh.



– Ngươi là tướng tiên phong, phải đi trước. Ngươi đợi Xích hầu tướng lên đỉnh thứ nhì rồi, thì ngươi lên theo. Mỗi hầu mang theo hai sợi dây

dài. Ngươi leo lên đỉnh cao nhất của Kim-sơn, trấn thủ tại đây. Nhớ quan sát xem có địch không. Sau đó ngươi cho cột dây, thòng xuống dưới, cho

đoàn quân leo lên. Nhớ mang theo thuốc chống lạnh. Đây là đỉnh cao nhất

của Kim-sơn, bên kia là thung lũng, thuộc đất Thục, phải cẩn thận để

giặc khỏi thấy ta.



Hậu-quân hầu tướng thấy không sai đến mình, nó bứt rứt hỏi:



– Tại sao tôi không được đánh trận này?



Hoàng hầu tướng nói:



– Ngươi lĩnh nhiệm vụ quan trọng hơn hết. Ngươi cho Thần-hầu chuẩn bị vồ với cọc, mang theo dây. Ngươi lên đỉnh cao nhất Kim-sơn, cho dã nhân dò theo dốc núi, gỡ tuyết ra đóng cọc chăng dây xuống thung lũng. Vì dã

nhân của ngươi to lớn, khỏe mạnh, ngươi xuống núi nếu gặp địch còn chiến đấu.



Thế rồi suốt gần hai tháng trời, đoàn quân của Triệu Anh Vũ mới vượt qua Kim-sơn. Đến đỉnh Kim-sơn, Triệu Anh Vũ cùng Đinh Công Thắng đứng trên

cao nhìn xuống nói:



– Kia là Giang-an, phía xa là Vĩnh-xuyên. Giang-an ở dưới chân núi nầy. Kia là đồn Trường-đình.



Sau hai tháng, hơn vạn người đã lên đến đỉnh núi. Đoàn khỉ tiếp tục được Tây-vu lục hầu tướng chỉ huy mang lương thảo từ dưới lên. Trong khi đó, Triệu Anh Vũ, Đinh Công Thắng thả dây bắt đầu xuống dưới chân núi
chúng thiệt hơn vạn binh, dù chúng ta thắng trận. Bây giờ đại ca xử trí

với y như thế nào ?



Đinh Đại là sư thúc, lại là cậu Đào Kỳ, ông biết cháu mình nhiều tình cảm, khó có thể giết người, nên ông xen vào :



– Cháu Kỳ, lòng nhân không thể lúc nào cũng áp dụng được, cháu phải chém đầu y làm hiệu lịnh mới hả lòng quân.



Vương Nguyên đứng dậy chắp tay xá Đinh Đại :



– Đinh-hầu, tôi nghĩ chúng ta không nên giết y làm gì. Cái thứ tồi tệ

đến độ dâng vợ cho giặc kiếm chút công danh, giết chi cho bẩn gươm. Tôi

xin hiến một kế, mượn tay Công-tôn Thuật giết y. Bây giờ Đào nguyên soái cứ giả vờ không truy cứu tội, thả lỏng y trong thành. Khi đi thăm dân,

mang y đi theo. Ít lâu sau tất y trốn về Thành-đô. Công-tôn Thuật là đứa đa nghi, sẽ giết anh em y.



Đào Kỳ cảm tạ Vương Nguyên, nghĩ trong lòng :



– Ông này, văn thì đỗ Hiếu-liêm, làm quan nhà Hán, đàn giỏi, tiêu hay,

võ công không thua ta mà mưu trí sâu xa không kém gì Vĩnh Hoa. Chỉ tiếc

rằng ông đào hoa quá, có nhiều vợ đẹp mà thành ra tan nhà nát cửa. Cũng

may ông ta có ba con trai, một gái đều thông minh, văn võ song toàn.



Cha con Vương Nguyên gặp Nam-hải nữ hiệp, như người quen nhau từ lúc

nào. Họ luôn luôn bên cạnh nhau, bàn âm nhạc, hoà nhạc với nhau. Trưng

Trắc thấy vậy nói :



– Đào sư đệ, ngươi hãy nhờ Nam-hải sư bá cùng với Vương tiên sinh, Sa

Giang tổ chức những cuộc trình diễn âm nhạc cho tướng sĩ nghe, để họ

giải trí, được chăng?



Sa Giang vui vẻ đáp:



– Sư tỷ dạy đúng đấy, em nghĩ nên làm như thế. Cứ mỗi ngày chúng ta

trình diễn cho một Lữ coi. Có điều phải dùng những điệu nhạc dân gian

hùng tráng, để quân sĩ không nhớ nhà.



Hôm ấy ngày 15 tháng Chạp, Đào Kỳ ngồi trong trướng bàn việc tiến quân vào Thành-đô, thì quân canh báo:



– Có sứ giả của Lĩnh-nam vương tới.



Đào Kỳ vội vàng tiếp, sứ giả là một viên võ quan, đi cùng với Quỳnh Hoa. Quỳnh Hoa thấy Đào Kỳ, chạy lại nắm tay chàng:



– Đào đại ca! Đại ca mạnh khỏe chứ? Đại ca giỏi quá, đánh đến đây rồi à?



Mỗi lần Đào Kỳ gặp cô em gái này, lòng chàng lại rộn lên niềm vui ấm áp. Chàng nắm tay Quỳnh Hoa:



– Mạnh khỏe thì vẫn mạnh khỏe, nhưng không có ổi có mận mà ăn, nhất là không có hoa Quỳnh, hoa Quế mà ngắm.



Quỳnh Hoa móc trong bọc ra một phong thư đưa cho Đào Kỳ:



– Đây là thư của Nghiêm đại ca.



Đào Kỳ móc ra đọc, được biết Nghiêm Sơn đã cho một đạo quân nữa từ

Tử-dương tiến chiếm Vạn-nguyên, Thành-khẩu, Thông-giang, Ba-trung, nối

liền hai đạo Kinh-châu với Hán-trung. Nghiêm Sơn muốn chàng tiến đánh

Hán-nguyên, Đông-sơn, Mi-sơn và Thành-đô.



Đợi Đào Kỳ đọc thơ Nghiêm Sơn xong, Quỳnh Hoa móc trong túi ra một cái hộp rất đẹp để lên bàn:



– Còn hộp này, đố đại ca biết trong đựng gì?



Đào Kỳ ngắm nghía, suy nghĩ, song chàng đoán không ra, lắc đầu:



– Sư muội, anh đoán không ra.



Quỳnh Hoa mở lớp lụa bọc ngoài, bên trong là cái hộp sơn son thiếp vàng, trên vẽ một cây đào đầy trái. Tim chàng đập mạnh, vì nhận ra là nét vẽ

của Phương Dung. Chàng cầm lấy trịnh trọng mở nắp hộp, bất giác ngẩn

người ra, đỏ mặt lên. Vì bên trong có chiếc khăn quàng cổ của Phương

Dung mầu xanh lợt. Chiếc khăn này nàng choàng trong ngày cưới ở đảo.

Cạnh chiếc khăn là một cái áo gối thêu rất công phu: Đóa hoa đào bên

cạnh hai con chim uyên ương.



Trong còn có bức thư, chàng không kiên nhẫn chờ đợi, mở ra đọc liền. Thì không phải thư mà là một tập nhật ký, Phương Dung ghi từng ngày một,

những nỗi niềm nhớ nhung của nàng. Thấy chung quanh đông người, không

tiện đọc, chàng cất đi.



Quỳnh Hoa đưa cho Hoàng Thiều Hoa một hộp lớn hơn. Thiều Hoa mở lớp lụa

bên ngoài ra, bên trong là một hộp gấm. Nàng mở hộp, trong có nhiều thứ. Vật đầu tiên đập vào mắt là bông cúc bằng vàng, chạm trổ tinh vi. Cành

và lá bằng ngọc bích xanh lóng lánh.



Thiều Hoa ngắm nghía một lúc rồi đeo vào tóc.



Vương Nguyên là người lãng mạn, thích âm nhạc, ông trọng phụ nữ có sắc

đẹp. Tư hôm gặp Hoàng Thiều Hoa, sắc đẹp ôn nhu, văn nhã, như có một cái gì bí hiểm thu hút người nhìn. Lòng ông lại hồi tưởng đến hai người vợ

quốc sắc thiên hương, đến nỗi Công-tôn Khôi, sư huynh của ông hại ông để chiếm. Đem so sánh vợ với Hoàng Thiều Hoa, thì sắc đẹp của vợ ví như

hông hoa Lan hoa Huệ. Thanh tao có thanh tao, ông tìm ra một nét mà chỉ

Thiều-Hoa mới có, là phong tư rạng trỡ, hồng hào tươi mát của người tập

võ.



Ông là người trọng sắc đẹp, thấy sắc đẹp như thấy bông hoa tươi thắm.

Ngắm nhìn chỉ để ngắm nhìn, lưng dạ vẫn giữ đạo chính nhân quân tử. Ông

nổi tiếng là tiêu thần, vì vậy ông cầm ống tiêu thổi một bài ca tụng sắc đẹp của Thiều Hoa. Tiếng tiêu nhu hòa, như mây trôi phiêu lãng, róc

rách như suối chảy, có khi thoang thoảng như tiên nga nhảy múa trên đồi

đầy hoa.



Khúc tiêu dứt, mọi người đều ngơ ngẩn xuất thần, như mơ màng ở thế giới thần tiên.



Thời bấy giờ, luân lý Khổng, Mạnh rất khắt khe. Việc Vương Nguyên vừa

thổi tiêu vừa ngắm nhìn Thiều Hoa là điều vô lễ không tha thứ được. Song Thiều Hoa được giáo huấn cách nhận xét, cách biết người. Gặp Vương

Nguyên, nàng xếp ông vào loại dị nhân, võ công cực cao, có tài vương bá

như Nghiêm Sơn, con mắt của ông chiếu ra nét đa tình hiếm thấy. Người đa tình thường là người đa tài, không phải kẻ tham dâm hiếu sắc.



Hoàng Thiều Hoa biết ông sáng tác bản tiêu, ca tụng sắc đẹp của mình. Nàng đứng lên:



– Đa tạ tiên sinh quá khen tặng.



Nàng mở lớp giấy ở đáy hộp lên thấy bốn bộ quần áo lụa bốn màu: Xanh lá

cây, vàng cánh kiến, hồng tươi và trắng. Trên mỗi bộ quần áo thêu rất

công phu. Nàng lật xuống dưới còn bốn cái khăn, bốn cái dây lưng và một

bức thư.



Quỳnh Hoa xòe tay:



– Lĩnh-nam vương gửi quà cho Vương-phi, rồi Chinh-tây quân sư gửi quà

cho phu quân, thế mà chả ai thưởng cho con bé mang thư cái gì cả.



Thiều Hoa tát yêu vào má Quỳnh Hoa, rồi lấy trong bọc ra một chuỗi ngọc

trai dài, quấn vào cổ Quỳnh Hoa đến ba vòng mới hết, nói:



– Không cần sư muội mang quà cho ta, ta cũng thưởng cho sư muội.



Nam-hải nữ hiệp nghĩ thầm:



– Đúng ra với tuổi của Thiều Hoa, Phương Dung lúc nào cũng bên cạnh

chồng, sớm tối có nhau. Vì quốc sự, họ phải xa nhau, thực cũng tội.



Đào Kỳ hỏi thăm Quỳnh Hoa về trận đánh Hán-trung. Chàng biết đây là mặt

trận lớn nhất, người điều khiển mặt trận này là con trưởng Công-tôn

Thuật, với 20 vạn quân, mấy ngàn dũng tướng. Mưu lược tuyệt vời như Ngô

Hán, võ công cao cường như Phùng Dị, Lai Háp trợ giúp còn bị thua mấy

trận nghiêng ngả. Chàng biết Ngô Hán có "trí" như Phương Dung, Trưng

Nhị, có tài dùng người như Vĩnh Hoa và có tài xung phong hãm trận như

Nghiêm Sơn với chàng. Phùng Dị võ công tuy cao nhưng so với bên Thục thì thua xa, vì vậy Nghiêm Sơn mới tăng viện thêm Khất đại phu, Cao Cảnh

Minh theo giúp.



Quỳnh Hoa đáp:



– Đạo quân Hán-trung không gặp may mắn như đạo Kinh-châu, Lĩnh-nam.

Trước sau hai bên đánh trăm trận. Ông ngoại em bị thương. Sư bá Cao Cảnh Minh súyt mất mạng, con trai út Ngô Hán tử thương. Nghiêm đại ca, sư tỷ Phương Dung phải thân tới điều động quân mã. Trận đánh nào cũng thần

sầu quỉ khốc. Bên Thục tướng sĩ một lòng, mỗi người là một dũng sĩ. Họ

đã quyết chiến, dù chết cũng không lùi. Mãi tới hai ngày trước, mới

chiếm được Võ-đô, Nam-bình, Dương-bình quan, Kiếm-các, Giang-du.

Công-tôn Thuật rất khôn, y đoán được ý định của ta đánh Độ-khẩu với mục

đích làm náo loạn Thành-đô. Còn mặt Kinh-châu quá xa, thủy quân Thục rất mạnh, khó vào được. Y dồn cầm chân quân Thục ở mặt Giang-du, cho đạo

Kinh-châu và Lĩnh-nam tiến vào Thành-đô trước.



Hoàng Thiều Hoa hỏi:



– Nghiêm đại ca hiện đóng ở đâu?



Quỳnh Hoa cười:



– Lĩnh-nam vương phi hỏi Lĩnh-nam vương chinh tiễu nơi đâu hay sư tỷ Thiều Hoa hỏi Nghiêm đại ca?



Thiều Hoa vỗ lưng Quỳnh Hoa:



– Chị hỏi nghiêm đại ca.



Quỳnh Hoa không trả lời, nàng cất tiếng ngâm Sa-mạc:



Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,



Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?



Nhớ ai dạ những bồi hồi,



Như đứng đống lửa, như ngồi đống rơm.



Ngâm xong nàng mới nói:



– Sư tỷ xưa nay là người thông minh, linh mẫn bậc nhất Lĩnh Nam, mà sao

hôm nay lại lẩn thẩn quá. Lúc đến đây em nói, em từ Kiếm-các tới. Thế

thì Nghiêm đại-ca phải ở Kiếm-các mới gửi quà cho sư tỷ được chứ.



Hoàng Thiều Hoa đỏ mặt lên, nàng nói lảng:



– Bao giờ sư muội trở về Kiếm-các?



Quỳnh Hoa không dám đùa nữa:



– Em phải trở về ngay, để săn sóc ông ngoại em.