Hảo Nữ Trung Hoa

Chương 12 : Tuổi thơ tôi không thể quên

Ngày đăng: 09:54 18/04/20


Tôi đã bắt đầu tìm kiếm những câu chuyện của những người phụ nữ Trung Quốc với bầu nhiệt huyết căng tràn của tuổi trẻ nhưng lại hiểu biết rất ít. Giờ khi tôi đã biết nhiều hơn, tôi đã có một sự thấu hiểu chín chắn hơn - nhưng tôi lại cảm thấy đau đớn hơn. Thỉnh thoảng tôi lại chợt thấy mình tê liệt do tất cả những nỗi khốn khổ mà tôi đã chứng kiến, như thể một cục chai đã hình thành trong tôi. Rồi tôi nghe thấy một câu chuyện khác và cảm xúc của tôi lại một lần nữa bị khuấy trộn lên.



Dù đời sống nội tâm của tôi không được bình lặng nhưng xét về sự nghiệp tôi lại ngày càng thành công. Tôi được đề bạt làm Giám Đốc Kế Hoạch Và Phát Triển Chương Trình, điều đó có nghĩa là tôi chịu trách nhiệm xây dựng chiến lược trong tương lai cho cả đài phát thanh. Cùng với tiếng tăm và ảnh hưởng ngày một lớn, tôi có thể gặp gỡ những người phụ nữ mà bình thường tôi không thể tiếp cận: Vợ các lãnh đạo Đảng, những người phụ nữ trong quân đội, trong các cơ quan tôn giáo hay trong tù. Một cuộc gặp gỡ như thế đã xảy ra bởi một lần tình cờ gặp mặt ở lễ trao giải thưởng của Sở Công An. Tôi vừa hoàn thành một số công việc tổ chức các hoạt động giáo dục cộng đồng cho Sở Công An và kết quả là tôi được tặng danh hiệu “Bông Hoa Của Lực Lượng Cảnh Sát”. Giải thưởng không có gì ghê gớm lắm, nhưng tôi là người phụ nữ duy nhất trong tỉnh được vinh danh như vậy, và điều đó tỏ ra cực kỳ hữu ích cho nỗ lực của tôi nhằm tiếp cận với phụ nữ nhiều hơn nữa.



Người Trung Quốc tận dụng bất kỳ cớ gì để tổ chức tiệc tùng: chúng tôi sống theo nguyên tắc dĩ thực vi thiên, và tiêu tốn không biết bao nhiêu tiền của. Dù chỉ có bốn người được nhận giải, nhưng có tới bốn trăm khách tại bữa tiệc. Rất ít phụ nữ trong ngành cảnh sát được vinh danh hay nhận giải thưởng, đừng nói gì đến những người bên ngoài Sở Công An, vì thế tôi trở thành chủ đề cho rất nhiều cuộc thảo luận tối đó. Tôi ghét cảnh chen chúc và những câu hỏi bất tận, nên đã lẻn vào hành lang phục vụ để trốn. Khi những người bồi bàn đang bận tíu tít trong hành lang nhìn thấy tôi, họ kêu lên, “Tránh ra nào, đi đi, đừng cản đường!”



Tôi né người nép vào tường. Sự bất tiện ở nơi này có vẻ còn dễ chịu hơn sự chăm chút kỹ lưỡng của những vị khách ngoài kia. Vài phút sau, cảnh sát trưởng Mai đi vào cảm ơn những người phục vụ và ngạc nhiên khi thấy tôi. Ông hỏi tôi nghĩ mình đang làm gì vậy.



Tôi đã biết cảnh sát trưởng Mai được một thời gian và tin tưởng ông nên tôi nói thật. Ông cười khùng khục và bảo, “Cô không cần phải trốn trong cái nơi kinh khủng, chật hẹp này. Nào, tôi sẽ đưa cô tới một chỗ tử tế hơn.” Ông dẫn tôi đi.



Đại sảnh tổ chức bữa tiệc, rất nổi tiếng ở thành phố này, có những phòng khách và phòng họp riêng sát vách mà tôi không biết. Cảnh sát trưởng Mai đưa tôi vào một trong những căn phòng đó, bảo tôi rằng nơi này có cách bố trí giống với Đại Lễ Đường Nhân Dân ở Bắc Kinh, được thiết kế để tiện cho các lãnh đạo nòng cốt của trung ương khi họ tới thanh tra thành phố. Tôi cảm thấy hơi bị ngợp khi được đưa vào nơi bất khả xâm phạm ở bên trong này, đồng thời cũng sợ những người khác đặt điều ác ý cho chúng tôi vì ở riêng cùng nhau.



Nhận ra sự ngần ngại của tôi, ông Mai bảo, “Cô không cần lo lắng về tin đồn. Có lính gác bên ngoài rồi. À, tôi mệt quá...” Ông ta ngáp và đổ xuống ghế sofa.



Viên cảnh sát gác bên ngoài gõ cửa hỏi khẽ, “Sở Trưởng, ông có cần gì không ạ?”



“Thế này đủ rồi,” ông Mai đáp bằng giọng gọn ghẽ, lạnh lùng. Đó là cách mọi quan chức cấp trên nói với cấp dưới của mình ở Trung Quốc; nó khiến tôi nghĩ điều này đã làm nảy sinh quan niệm cao thấp giữa những người Trung Quốc như thế nào.



Cảnh sát trưởng Mai dùng hai tay bóp đầu khi nằm dài trên ghế sofa. “Hân Nhiên, tôi vừa đi công tác ở Hồ Nam về, ở đó tôi có gặp vài tù nhân. Tôi nghe nói có một người nữ tù quan tâm tới cô. Cô ta đã bị bắt rồi được thả ra vài lần vì tội mãi dâm và ăn ở bất hợp pháp với đàn ông. Hình như hoàn cảnh gia đình cô ta khá thảm. Nếu cô muốn phỏng vấn cô ta, tôi có thể sắp xếp mọi việc và cho xe đưa cô đi.”



Tôi gật đầu và cảm ơn ông. Ông lắc đầu vẻ mệt mỏi, nói: “Phụ nữ Trung Quốc thực sự đã phải chịu khổ sở. Tôi đã nghe chương trình của cô vài lần. Nó thật buồn, rất xúc động. Có bao nhiêu phần hạnh phúc trong cuộc đời của một người phụ nữ đã sống qua thập kỷ gần đây? Vợ tôi bảo phụ nữ dành nụ cười cho người khác song lại giữ nỗi đau cho riêng mình. Bà ấy thích chương trình của cô lắm, nhưng tôi không muốn bà ấy nghe nhiều quá; bà ấy tình cảm lắm, một câu chuyện có thể dày vò bà ấy suốt mấy ngày liền.” Ông ngừng lại. “Tôi không muốn bà ấy ra đi trước tôi, tôi không thể chịu được điều đó.”



Cảnh sát trưởng Mai là một người đàn ông to lớn, rắn rỏi gốc Sơn Đông. Tôi biết ông đã nhiều năm nay, nhưng chẳng khi nào nghĩ rằng ông lại nhạy cảm đến thế. Đàn ông Trung Quốc lớn lên với niềm tin rằng họ nên yêu cầu sự tôn trọng, và nhiều người không muốn để người khác thấy sự mềm yếu của mình. Lần đầu tiên trong thời gian quen biết nhau, buổi trò chuyện của chúng tôi hôm tối đó không bàn về công việc mà về đàn ông, phụ nữ và các mối quan hệ giữa họ.



Hai tuần sau, một chiếc xe jeep của Sở Công An đưa tôi tới một nhà tù nữ ở vùng núi tỉnh Hồ Nam. Quần thể kiến trúc này trông không khác gì các nhà tù khác: hàng rào điện, lính gác và đèn pha rọi liên tục lên các bức tường xám xịt tạo ra một không khí sợ hãi và căng thẳng. Cánh cổng chính - vốn chỉ có xe ô tô của những người có quyền lực mới được đi qua - đóng im ỉm; chúng tôi vào qua lối cửa phụ.



Nhìn lên tòa nhà đồ sộ, qua kích cỡ và hình thù của các khung cửa sổ, tôi có thể đoán được thứ gì phía sau. Đằng sau các khung cửa sổ rộng, cao, bị vỡ, những cái bóng xám đi tới đi lui trong tiếng máy móc nghe như sấm rền. Tù nhân thường làm việc trong thời gian thụ án: sửa ô tô, xe tải hay các thiết bị máy móc, hoặc may quần áo và dệt vải. Một số bị phân những việc nặng như khai thác đá hay làm trong hầm mỏ. Qua những khung cửa sổ cỡ vừa, người ta có thể nhìn thấy những bộ đồng phục, trang thiết bị và những mảng màu sắc; đây là các văn phòng và phòng học tập chính trị. Những chiếc cửa sổ bé nhất trên cùng của tòa nhà thuộc về khu phòng ngủ tập thể của phạm nhân và căng tin.



Tòa nhà chính tạo thành hình móng ngựa quanh tòa nhà nhỏ hơn được sử dụng làm khu nhà nghỉ của cán bộ trại giam và các phòng điều hành. Có hai điều ở nhà giam nữ tỉnh Hồ Nam này khiến tôi có cảm giác khác so với các nhà tù khác là: thứ nhất, tường nhà giam bám đầy rêu và địa y xanh thẫm bởi khí hậu ở phía Tây tỉnh Hồ Nam rất ẩm ướt; thứ hai, cảm giác kỳ lạ khi thấy các công an nữ quát tháo nữ tù nhân. Cuộc sống, tình yêu, sự đau khổ và niềm vui của những người phụ nữ trong bộ cảnh phục không thể khác biệt quá mức so với những người phụ nữ trong bộ áo tù nhân đến thế.



Lá thư giới thiệu của cảnh sát trưởng Mai có tác dụng như một chỉ dụ quyền uy; sau khi đọc xong, người quản lý trại giam bố trí ngay cho tôi một phòng phỏng vấn riêng tư để tôi gặp riêng Hoa Nhi, người tù mà ông Mai đã giới thiệu.



Hoa Nhi là một người đàn bà mảnh dẻ tầm tuổi tôi. Cô ta cứ ngọ ngoạy liên tục dưới bộ quần áo tù như thể đang đấu tranh với thân phận không chút quyền lực của mình. Dù tóc của cô đã bị cắt bởi bàn tay không chuyên nào đó và trông lởm chởm chẳng ra lề lối gì cả, song nó lại khiến tôi nhớ tới những kiểu tóc kỳ lạ mà các hiệu cắt tóc đang tạo ra. Cô ta xinh đẹp, nhưng vẻ mặt kín bưng, khó đăm đăm của cô thì giống như vết rạn trên một mảnh sứ tạo tác tinh vi.



Tôi không hỏi chi tiết về tội trạng của cô ta, hay tại sao cô ta vi phạm luật cấm sống như vợ chồng ngoài giá thú hết lần này đến lần khác, mà chỉ hỏi xem cô ta có thể nói về gia đình mình không.




Vào cuối những năm 1960, mối quan hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô hoàn toàn tan vỡ, và một cuộc xung đột vũ trang về vấn đề biên giới phía Bắc Trung Quốc đã diễn ra tại đảo Trân Bảo. Mọi thị trấn và thành phố phải đào hầm trú ẩn tránh máy bay. Ở một số thành phố lớn, các hầm trú ẩn có thể đủ chỗ cho toàn bộ dân cư. Những thiết bị đơn giản và lương thực dự trữ có thể đảm bảo cho họ sống trong hầm vài ngày. Mọi người già trẻ lớn bé đều bị bắt đi đào hầm; ngay cả trẻ con mới bảy tám tuổi cũng không được miễn. Lũ học sinh trường tôi phải đào hầm ở sườn đồi sau trường. Chúng tôi bị chia thành hai nhóm, một làm việc bên trong hầm và một làm bên ngoài. Dù được chỉ định làm việc ở nhóm bên trong, nhưng tôi cũng được sắp xếp làm ở miệng hầm vì tôi là con gái và khá yếu ớt.



Một hôm, khoảng nửa giờ sau khi chúng tôi bắt đầu đào, có một tiếng động rền vang: Sập hầm. Bốn cậu bé bị chôn vùi trong đó, trong đó có Ân Đạt, người đi vào sâu bên trong nhất. Khi được bới lên bốn ngày sau vụ tai nạn, thi thể họ chỉ còn nhận ra được qua quần áo.



Lũ trẻ con và những người dính líu tới các gia đình Đen không được phép nhìn bốn chàng trai đó lần cuối, những con người sau khi chết được xem là anh hùng. Từ xa, hình ảnh cuối cùng của Ân Đạt mà tôi thoáng thấy là cánh tay không còn sự sống của anh lủng lẳng bên cái cáng.



Ân Đạt từng dạy tôi bài hát trong phim Khách Đến Băng Sơn[6]. Nó có giai điệu đẹp và lời hát tưởng nhớ tới một người bạn đã mất. Nhiều năm sau, khi Trung Quốc bắt đầu mở cửa và cải cách, bộ phim này được chiếu lại. Những ký ức về Ân Đạt ào ạt hiện về.



Quê hương tươi đẹp của tôi nằm dưới chân dãy Thiên Sơn



Khi ra đi tôi giống như trái dưa bị ngắt khỏi dây.



Người con gái tôi thương sống dưới những cây bạch dương.



Khi tôi đi, nàng giống như chiếc sáo, treo lạnh lẽo trên tường.



Dây đã đứt, nhưng trái dưa vẫn ngọt.



Người chơi sáo trở về, sáo lại ngân vang.



Khi tôi xa bạn tôi,



Anh giống như ngọn núi tuyết một lần lở, vĩnh viễn mất đi.



Ôi, người bạn thân thương của tôi,



Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được nghĩ lại thân hình cường tráng hay gương mặt hiền từ của bạn nữa.



Ôi, người bạn thân thương của tôi,



Bạn sẽ không bao giờ còn nghe tôi chơi sáo, không bao giờ còn nghe tôi hát nữa đâu.



Tôi không biết có phải Ân Đạt dự cảm về định mệnh của mình trong bài hát sầu muộn đó khi anh hát cho tôi nghe không, nhưng anh đã để lại một giai điệu cho chính mình mà qua đó tôi có thể nhớ về anh.