Hấp Lực Thần Công

Chương 7 : Oan gia lại gặp nhau

Ngày đăng: 15:31 18/04/20


Họ tới chỗ giao đấu hôm qua.



Bốn bề vắng lặng.



Trên mặt đất còn in vài vết cháy đen do roi của Kim Diện Nhân quét đến hoặc do những đường chớp sét của Ngô Khả Sinh đánh xuống. Nhưng bóng dáng hoặc dấu vết của Tần nương và Kim Diện Nhân thì không thấy.



Một dấu vết của mặt đất như bị nứt ra còn để lại. Nhưng chỉ có vậy thôi, ngoài ra không có gì đáng chú ý.



Hắc Diện Nhân gãi đầu sồn sột, lẩm bẩm nói :



- Rõ ràng là ta đã chôn chân mụ ta. Tại sao bây giờ không thấy dấu vết gì cả.



Ngân Thiết đứng kế bên nghe được, chợt lên tiếng hỏi lại :



- Hôm qua, đại sư huynh có mặt ở đây à? Tại sao đệ không thấy?



Hắc Diện Nhân vẫn còn thắc mắc, hết gãi đầu rồi lại gãi cổ, miệng thì sừng sộ đáp trả :



- Ngươi hỏi như vậy là có ý gì? Có phải ngươi cho ta chết nhát, gặp lúc đánh nhau không dám lộ diện chăng?



Thanh Diện Nhân sợ hai người lại gây gổ, bèn lên tiếng giảng hòa :



- Cái tài banh đất chôn chân người khác, ngoài đại sư huynh ra thì còn ai làm được.



Ngân Thiết nghe vậy không nói gì.



Hắc Diện Nhân lẩm bẩm giải thích như tự nói với chính mình :



- Ta vào Tô gia thăm dò, sau khi nghe tin Ngô Khả Sinh ở đây, ta vừa chạy đến thì gặp Tần nương đang tìm đường tẩu thoát, nếu không bị con nha đầu Bạch Tiểu Kha dụ dỗ quay về đen đỏ với lão họ Tô, có lẽ ta phanh thay mụ đó ra chứ làm gì chỉ chôn chân không thôi. Nhưng mụ ta thoát ra được bằng cách nào? Lạ thật!



Họ lùng sục một hồi lâu vẫn không tìm được dấu vết gì, đành phải bỏ đi.



Thế là việc trả thù cho Lục gia trang hình như không còn đầu mối. Lúc trước kẻ thù ở ngay trước mặt, thì họ đánh không lại. Bây giờ đã có lòng tin, có chút hy vọng để thắng, thì mọi đầu mối dẫn đến kẻ thù đều mất sạch.



Bọn Lục gia trang không biết nên bắt đầu từ đâu. Làm cách nào để truy lùng kẻ thù.



Lại còn lão Tô Ðằng Không cũng biến mất không để lại một dấu vết.



Hết “chờ đợi và trốn tránh” rồi lại đến “chờ đợi và không manh mối”, lòng kiên nhẫn của họ cạn dần, cạn dần.



Họ cứ lần mò hết trấn này tới trấn khác để tìm kiếm, nhưng vẫn tốn công vô ích. Qua gần ba tháng lang thang đây đó, họ không tìm ra được manh mối nào về bốn người cần tìm, Ngô Khả Sinh, Tô Ðằng Không, Tần nương và Kim Diện Nhân.



Cả bóng dáng của Bạch Tiểu Kha, họ cũng không thấy.



Một ngày nọ, ngồi trong khách điếm, Thanh Diện Nhân cứ lấy ngón tay gõ bàn liên tục, có vẻ đang gặp khó khăn mà không giải quyết được. Ngân Thiết thấy vậy vội hỏi :



- Nhị sư huynh, có chuyện khó nghĩ chăng?



Hắc Diện Nhân cũng nhăn mặt chen vào :



- Ðúng rồi, có gì cứ nói ra. Ngươi cứ gõ ngón tay làm ta chóng mặt nhức cả đầu.



Thanh Diện Nhân thở dài nói :



- Chúng ta không còn bao nhiêu ngân lượng. Chỉ đủ lộ phí từ đây tới Tây Thành.



Hắc Diện Nhân hừ một tiếng lớn :



- Tính tình của ngươi hay lo xa như đàn bà vậy. Chúng ta là người giang hồ, đâu thể nào lệ thuộc vào tiền bạc như thế được.



Thanh Diện Nhân phân minh :



- Ðành rằng ba chúng ta là người giang hồ nhưng trong đoàn còn có đàn bà trẻ nít, đâu thể nào...



Ngân Thiết nghe sư huynh nói vậy liền nghĩ tới cái dáng yểu điệu tiểu thư của Tô Nguyệt đang bị Hắc Diện Nhân bắt đi theo. Nàng đã chịu cực khổ quá nhiều. Chàng trai vội vàng gật đầu, cắt ngang lời Thanh Diện Nhân :



- Nhị sư huynh nói đúng. Chúng ta hãy tới Tây Thành, rồi tìm cách kiếm tiền sau. Làm nghề mãi võ có lẽ cũng kiếm được chút tiền lộ phí.



* * * * *



Tây Thành nằm về phía về phía Tây, là nơi dân cư sầm uất. Tuy không bằng Bắc Kinh nhưng phố xá cũng nhộn nhịp người qua kẻ lại, trai thanh gái lịch trong những bộ y phục đắc tiền như bầy bướm đang khoe sắc dưới nắng mai. Khách điếm, tửu lâu đâu đâu cũng có, kẻ say người tỉnh ra vào tấp nập. Ngày nào ở Tây Thành cũng là ngày hội.



Cả bọn người Lục gia trang vừa tới Tây Thành thì trời đang nắng ráo tự nhiên tối sầm như báo hiệu sắp có một cơn mưa lớn đổ ập xuống. Trên phố mọi người nhốn nháo tìm chỗ trú chân. Bọn Lục gia trang cũng vội vả ghé vào một khách điếm gần đó.



Khách điếm họ vừa vào cũng là một tửu lâu. Giữa sảnh lố nhố một đám người vừa ăn uống vừa đưa mắt nhìn về phía một người đàn ông trạc tứ tuần, đang kéo đàn hát vang. Người đó có cái giọng trầm ấm, nồng nàn, lại hát về những câu chuyện tình nổi tiếng thời xưa.



Bên ngoài thì trời lại âm u, mây đen giăng đầy, làm cho tiếng hát của người đàn ông kia càng thêm thê lương, sầu não cuốn hút người nghe. Ðám người vừa uống rượu vừa nghe hát say mê. Có lẽ họ say vì tiếng hát chứ không phải say vì rượu.



Có kẻ còn khẽ đu đưa đầu hay rung đùi như đang nhập thần vào điệu nhạc...



Bất chợt...



Một tiếng trong trẻo tru hú rống vang lên theo nhịp hát của người đàn ông hát rong, tiếng tru hú lạt lẽo sai nhịp điệu đó át hẳn cái giọng trầm ấm kia.



Giọng trong trẻo mà tru lên thì chẳng khác nào một con dao sắt bén rít vào tai, rạch phá cái lỗ nhĩ, xoáy vào tận óc, rồi rung lên i ỉ trong cân não. Mọi người trong khách điếm đều giật mình, thức tỉnh và đưa tay bịt tai, mặt mày nhăn nhó tỏ vẻ giận dữ khó chịu.



Người hát rong đã ngưng hát từ lâu, hai tay cầm đàn giờ đây bịt lấy hai lỗ tai, khí giận bốc lên tới đỉnh đầu.



Chủ quầy sợ khách sẽ hoảng hốt bỏ chạy vì tiếng tru đó, liền nhảy ra tìm kẻ phá rối để đuổi đi.



Trước mặt lão là một cô gái trẻ, tóc cột lên hai búi hai bên đầu như na tra, đang chu mỏ nhắm mắt hát rống lên một cách say sưa. Cô ta hình như không phát hiện lão chủ quầy đang hầm hầm đi tới bên mình.



Lão giơ tay tính chụp lấy cô gái kia, nhưng lạ thay tay lão vừa thò ra bên hữu thì cô gái ngồi bên tả. Lão xoay người qua bên tả chụp thì cô gái lại đâu mất tiêu, ngó tới ngó lui thì thấy cô ta đang ngồi bên hữu, hai mắt vẫn nhắm tít, say sưa nghểnh cổ rống bài tình khúc.



Lão không biết làm cách nào cô ta lại chuyển đổi vị trí nhanh như vậy.



Lão cứ thò tay chụp cô gái, nhưng tay chưa đến thì cô gái đã biến đi đâu mất.



Lão tức mình thò cả hai tay chụp ra hai phía, lúc đó cô gái một là ở phía trước, hai là ở phía sau lão.



Tay chưa tới mà mục tiêu đã mất, lão chủ quầy chụp lần nào là nhào té lần đó, đâm ra lão càng thêm giận dữ. Rồi cơn giận dữ bỗng biến thành hoảng sợ.



Bóng ảnh của cô gái lúc thoắt biến mất bên này, khi chợt hiện ra bên kia, mà cái giọng tru tréo kia lại vang lên eo éo không dứt.



Mặt lão chủ quầy lúc này đã hoàn toàn lộ vẻ hoảng hốt như gặp ma giữa ban ngày, mồ hôi đổ ra đầm đìa, ướt cả áo quần.



Bọn khách khứa và người hát rong trong sảnh phòng thấy vậy cũng sợ hãi, kinh hồn hoảng vía tranh nhau ùa cả ra ngoài. Kẻ bò người chạy, có kẻ sợ quá đứng không nổi bò không được cũng lê lết kéo tấm thân ra ngoài cửa. Cũng có kẻ hiếu kỳ muốn ở lại xem chuyện lạ, nhưng họ lại không chịu nổi tiếng tru hú kia, đành phải nối đuôi bọn người kém vía kia chạy ra.



Vừa chạy họ vừa kêu la inh ỏi :




Nguyên do đứa nhỏ đánh hơi được hai nữ nhân trước là do mùi son phấn tỏa ra.



Còn ba người nam nhân có mùi vị phong trần gần như với đất cát thì nó phải vất vả một hồi lâu mới khám phá ra chỗ họ bị chôn vùi.



Cũng nhờ mùi son phấn, Tiểu Kê còn đánh hơi lôi ra được Tần nương. Bà ta cũng như những người kia, mê mang bất tỉnh.



Cảm thấy vô lực vì không có cách nào cứu tỉnh lại ba người của Lục gia trang và vị tiểu thơ họ Tô, Khả Thanh ngồi khóc i ỉ. Tiểu Kê thì bò hết từ người này tới người kia rờ rẫm mặt mày tay chân mấy lượt, nó cũng cảm thấy vô phương cứu giúp. Nhất là đối với Thanh Diện Nhân không còn sống được bao lâu. Ðứa nhỏ cảm thấy thương tâm cho người đã từng chăm sóc, che chở nó từ nhỏ tới giờ. Nó lại nghĩ tới cái chết của bà bà, bất giác nó rướng cổ tru lên một hơi thật dài đầy vẻ bi thương.



Nó hú xong thì lại nằm phịch xuống ngay bên cạnh Thanh Diện Nhân. Không biết vì quá mệt mỏi hay vì quá thương tâm.



Một lúc sau có tiếng đất đá khua rạt rạt, rồi lộc cộc một cỗ xe ngựa lờ mờ hiện ra trong bóng tối.



Một giọng nói khàn khàn vang lên :



- Tên nào vừa mới tru tréo đưa tiễn oan hồn?



Khả Thanh nghe vậy thì bật khóc rống lên. Nàng không dám nghĩ đến cái chết, dù cái chết đó không phải dành cho nàng.



Giọng khàn khàn lại vang lên :



- Vậy là có người chết rồi! Xác chúng đâu mang lên xe hết đi!



Khả Thanh liếc nhìn Tiểu Kê đang nằm bên xác của Thanh Diện Nhân, cô nàng nước mắt rơi lả chả nhưng lại không nói thêm một tiếng nào. Thỉnh thoảng còn nấc nghẹn mấy cái nghe thật não nùng.



Từ trong bóng tối hai bóng người đàn ông cao lớn cầm đuốc bước ra, soi đuốc nhìn khắp mọi nơi một lượt, rồi lẳng lặng bước tới xốc bế mấy cái xác và Tiểu Kê bỏ lên cỗ xe ngựa. Khả Thanh nhào tới ngăn cản thì bọn họ cũng túm cổ cô nàng quăng lên xe ngựa cùng với đống xác người sắp đi chầu diêm vương. Khả Thanh thấy mình bức lực, lo ngồi khóc mà không để ý thấy bọn người bí ẩn kia nhét vào mồm năm cái xác vài thứ gì đó.



Cứ thế chiếc xe do bốn con ngựa to khỏe kéo chậm chạp lăn bánh.



Lốc cốc... lộc cộc...



Thứ âm thanh buồn bã cứ vang lên đều đều bên tai, cho tới khi đến một vùng hoang dã như chưa hề có dấu chân người đặt xuống thì dừng lại.



Hai người đàn ông lạ mặt lại lần lượt bế xốc những người bị thương bỏ vào một hang động.



Nói là hang động cũng không phải, mà đó có vẻ như là một gian thạch thất được thiên nhiên tạo ra, hỏm vào trong một vách núi. Tuy không có cửa sổ, nhưng lại có một lỗ khá rộng để đi vào. Bên trong được sắp đặt sẵn năm chiếc giường bằng cỏ đơn sơ. Chỉ có thế thôi, không bàn không ghế và cũng không một bóng người.



Hai người đàn ông lần lượt đặt mỗi người bệnh nằm lên một chiếc giường cỏ. Xong việc, họ lại xách cổ nhấc bổng Khả Thanh và Tiểu Kê khỏi xe ngựa. Mặc kệ một nữ nhân ôm đứa trẻ nhỏ ngơ ngác đứng đó, họ leo lên xe quất roi vào mông mấy con ngựa rồi dong đi mất.



Ðứng ngó một hồi tới khi bóng chiếc xe ngựa khuất khỏi rặng cây, Khả Thanh lặng lẽ ôm Tiểu Kê đi vào trong hang động. Lạ thay, bọn người trọng thương kia, kể cả Thanh Diện Nhân vẫn còn thở, chưa người nào bị thiệt mạng.



Một ngày chậm chạp trôi qua, chủ nhân của căn thạch thất vẫn chưa xuất hiện. Tiểu Kê cũng đã tỉnh lại ngồi ì một đống. Cả ngày chưa ăn, bụng Khả Thanh cứ sôi lên ùng ục đến thẹn cả người. Cô gái xoay qua nhìn Tiểu Kê thì thấy nó ngồi kiết đà, mắt thất thần nhìn vào khoảng không.



Mãi đến tối mịt, từ xa xa mới có một ánh đèn nhấp nháy tới gần.



Một bà lão già nua, gia nhăn đến nổi không còn chỗ nào để nhăn thêm được nữa, lưng khòm, mắt lồi, một tay xách túi vải, tay kia cầm một cái nồi con con. Chiếc túi có vẻ xẹp lép như không có gì ở bên trong. Nhưng bà lão lại xách chiếc túi là là như gần chạm mặt đất vậy, chứng tỏ nó phải rất nặng đối với bà ta.



Không thèm liếc mắt ngó hai người còn khỏe mạnh một cái, bà ta đi lần tới năm người bị trọng thương xem xét một hồi rồi móc trong túi vải ra một đống lá cỏ. Bà ta đưa nồi thuốc cho Tiểu Kê, và đống lá cỏ cho Khả Thanh.



Ðứa nhỏ nhận lấy nồi thuốc mà không biết phải làm gì, nó cứ trơ mắt ra ngó. Khả Thanh đoán bà ta muốn nó ra suối lấy nước. Nàng lên tiếng nói :



- Bà ta muốn em ra suối lấy nước về đây.



Ðứa nhỏ đứng lên nhấp chân đi, nhưng nó bỗng dừng lại đưa cặp mắt thất thần ngó chằm chằm vào bà lão. Bà ta liền ra ngoài cửa hang động, đưa tay chỉ về hướng Bắc.



Ðứa nhỏ lập tức chạy đi liền.



Bà lão lại quay vào đưa con dao sắc thuốc cho Khả Thanh.



Cô gái hiểu ý bà lão muốn nói gì, vội tìm một hòn đá trơn tru, phủi bụi sạch sẽ tính kê đám lá cỏ lên sắc nhỏ. Bất ngờ “bốp” một tiếng, bà lão không biết đã dùng vật gì đập lên đầu Khả Thanh một cú. Mắt muốn nổ đom đóm, cô gái vụt quay phắt người lại sừng sộ với bà lão. Nào ngờ, bà ta cứ thản nhiên như không có chuyện gì, một tay cầm nhánh cây khô chỉ vào một gốc cây nhẵn nhụi bóng láng kế bên đó. Khả Thanh lại lặng lẽ cầm đám lá cỏ cùng con dao thuốc tới chỗ gốc cây nhẵn nhụi bóng láng đó. Cô ta bắt đầu sắc thuốc, nhưng cắt nhỏ quá cũng bị bà ta đập một cái lên đầu, cắt lớn quá cũng bị đập một cái nữa. Cố gắng dằn cơn giận, cô gái hậm hực ráng để ý sắc thuốc theo đúng ý của bà ta.



Lúc đó Tiểu Kê cũng lấy nước về tới.



Bà ta nhìn mực nước trong nồi thuốc một hồi, rồi giơ tay ra dấu bảo nó đổ đi. Ðứa nhỏ cũng làm theo, nhưng nó đổ nhanh cũng bị bà ta cầm nhánh cây khó đập một cái vào đầu. Ðổ nhiều nước đi quá, không tới mực nước quy định thì bà ta lại chỉ tay về hướng Bắc, bắt nó đi lấy lại nồi nước khác. Nếu nó đổ chậm cũng bị đập. Cứ thế, bị bao nhiêu lần đi lấy nước, bao nhiêu lần bị đập vào đầu tới độ nó không còn biết đau là gì nữa, thì đứa bé cũng học được cách đổ nước với tốc độ nào, cầm chiếc nồi thuốc làm sao, và mực nước bao nhiêu thì đủ.



Gái trẻ, con nít đều bị bà ta đập vào đầu “bốp bốp” cả buổi cũng chỉ vì nấu một nồi thuốc nhỏ cho năm người bệnh. Còn một điều lạ nữa là bà ta không hề lên tiếng nói một lời. Cái hành động đánh người ta hình như là một cách nói chuyện thì phải.



Cuối cùng họ cũng nấu được nồi thuốc, tới việc đổ thuốc vào miệng người bệnh không đúng cách cũng bị bà ta đập.



Tiểu Kê thì có vẻ như một tên chai lì không biết đau là gì, còn Khả Thanh thì dù oán hận cũng phải cố gắng dằn lòng bởi một lý do đơn giản, bà ta chỉ cách nấu thuốc cho họ cứu người thân.



Xong chuyện, bà ta lại quày quả bỏ đi, mặc kệ hai người đã đói khát gần hai ngày trời chưa có gì vào bụng.



Khả Thanh dù mình mảy ê ẩm vì bị bà lão kỳ quặc đánh mấy chục đập, vẫn ráng gượng mình đi vào khu rừng gần đó cố kiếm một thứ gì đó ăn cho đỡ đói.



Ði mãi cô chỉ kiếm được một mớ trái cây xanh về ăn tạm vậy thôi. Ðứa nhỏ lúc đầu chỉ ngồi kiết đà, trố mắt nhìn vào khoảng không, không thèm ăn. Cuối cùng nó đói quá cũng đưa tay lấy một quả táo rừng bỏ vào miệng nhai, rồi phun hột ra phì phì.



Ăn xong, họ lại nằm gục kế bên những người bệnh ngủ một giấc thật dài để lấy lại sức.



Qua ngày hôm sau, người tỉnh lại đầu tiên là Tô Nguyệt.



Tới tối thì ánh đèn vàng lại nhấp nháy, bà lão kỳ quặc lại xuất hiện.



Tuy là một tiểu thơ đài các, và là người mới bệnh dậy, Tô Nguyệt cũng bị bà lão kia phang cho mấy phát. Khả Thanh nhiều lúc phải làm thay cho Tô Nguyệt để tiểu thơ của mình khỏi bị đánh.



Bị đánh nhiều ba người học được cách nấu thuốc theo ý bà ta một cách nhanh chóng.



Cứ thế, mỗi tối bà lão kỳ quặc lại đến, đưa nắm lá cỏ cho họ nấu thuốc. Mỗi ngày nắm cỏ mỗi khác, không giống vị và số lượng ít nhiều cũng khác. Ngày thứ hai, Hắc Diện Nhân và Ngân Thiết mới bắt đầu tỉnh lại. Hai người tuy chưa được khỏe mạnh lắm, nhưng cũng đảm nhận cái công việc đi kiếm đồ ăn cho cả bọn. Chẳng bao lâu họ cũng mang về được vài chú thỏ.



Ngân Thiết đốt lửa nướng được con thỏ, chàng liền đem vào hang cho Tô Nguyệt :



- Cô ăn đi cho khỏe người.



Tô Nguyệt chỉ lắc đầu ngồi nhìn Thanh Diện Nhân nằm mê mang bất tỉnh. Lâu lâu nàng lại thở dài sườn sượt.



Thấy nàng như vậy, Ngân Thiết không biết nói gì hơn. Chàng cầm miếng thịt thỏ, vừa cắn từng miếng vừa nhìn Tô Nguyệt, mặt lộ vẻ bực dọc không vui.



Trong những ngày Thanh Diện Nhân nằm liệt giường đó, Tô Nguyệt ngồi kế bên chăm sóc cho chàng chu đáo. Từng muổng thuốc được đổ vào miệng chàng hết sức chu đáo cẩn thận. Người bệnh không tắm rửa được, nàng cũng đi lấy nước để lau chùi mặt mũi tay chân cho chàng. Thỉnh thoảng nàng lại lấy thêm cỏ đắp giường cho chàng thêm êm thêm ấm. Khi chàng mở được mắt, ngó nhìn xung quanh thì nàng cũng hỏi thăm, bắt chuyện với chàng cho đỡ buồn.



Ngân Thiết thấy sự thân thiện của hai người, nhiều lúc cũng nổi cơn ghen, nhưng rồi chàng lại nghĩ có lẽ Tô Nguyệt làm như vậy là muốn tỏ lòng cảm ơn vị nhị sư huynh đã cứu mạng nàng.



Ngân Thiết trong lòng tự trách mình tại sao lúc đó chậm chạp không lao đến cứu nàng như vị nhị sư huynh, để giờ đây người được Tô Nguyệt quan tâm đến có lẽ chính là chàng chứ không phải là vị nhị sư huynh kia.



Vì mặc cảm hoặc là vì buồn tủi, càng ngày Ngân Thiết càng ít nói.



Cũng vì thế, Tô Nguyệt càng ít tiếp xúc với chàng hơn.



Không biết có phải vì thế mà tình cảm của họ nhạt đi hay không?