Nam Quốc Sơn Hà

Chương 17 : Vinh Qui Cố Ly -(vinh Dự Trở Về Quê)

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Từ ngày cô thiếu nữ Minh-Đệ bị gia đình ghét bỏ, bị làng khinh khi, bỗng trở lên một đệ nhất sủng-phi của Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế; thì dường như mỗi ngày, lý-dịch làng Thổ-lội lại nhận được văn thư từ các nơi gửi về. Đến nỗi trên từ cụ tiên, thứ-chỉ, cho đến lý-trưởng, phó-lý, trương-tuần, thủ-bạ phải ăn uống ngay tại đình để thi-hành.



Đầu tiên, sau khi Ỷ-Lan lên kiệu ngồi với nhà vua ba ngày, thì bộ Lễ đã sai một vị thị-lang làm khâm-sai đại thần (Ngày nay là tổng-giám đốc) thay nhà vua, đem sính lễ đến nhà ông bà Lê Văn-Thiết. Sính lễ do mười xe ngựa, với năm mươi cung-nga, thái-giám mới mang hết. Tuy Ỷ-Lan mới tiến cung, chưa định rõ đẳng trật, nhưng cứ xem lễ thì người ta đã biết nàng được phong làm Thần-phi. Lễ có năm loại. Một là vàng, bạc; gồm vàng ròng nghìn lượng, bạc nhất ba nghìn lượng. Hai là vải vóc gồm gấm Thăng-long 100 tấm, lụa Nghi-tàm 100 tấm, nhiễu Tam-giang 100 tấm. Ba là trâu bò, gồm mười trâu, mười bò, mười dê. Bốn là gà vịt gồm gà trống 100 cặp, gà mái ghẹ 100 cặp, ngan 100 cặp, ngỗng 100 cặp. Năm là trà, trầu: cau 100 buồng, trầu 100 mớ, vỏ 10 khúc, trà 10 cân. An-vũ kinh-lược-sứ Kinh-Bắc, quan huyện Gia-lâm cũng tháp tùng Khâm-sai. Khâm-sai đại nhân thay nhà vua lễ từ đường họ Lê, rồi dâng lễ vật lên cho quốc-trượng Lê Văn-Thiết và phu-nhân. Cả làng phải cử người đến cho phu nhân sai phái để làm cỗ đãi khâm-sai, cùng tùy tùng.



Trong buổi tiệc, khâm-sai đại nhân hỏi cụ tiên-chỉ về tiền treo của làng. Cụ tiên-chỉ đáp:



– Bẩm khâm-sai đại nhân, con gái tệ hương mà lấy chồng trong làng, thì thu treo rất nhẹ: vài quan tiền, một đôi gà, một thúng gạo. Nhưng nếu lấy chồng khác làng thì tiền treo rất nặng, có khi gấp ba, gấp bốn lần. Nếu lấy chồng có chức tước thì tiền treo cao gấp bội. Nhưng nay... Hoàng-thượng ban ân sủng, thì tiểu-nhân không biết tâu trình ra sao?



Khâm-sai mỉm cười:



– Từ trước đến giờ, triều đình tuyển phi-tần thường chọn con em các đại thần. Mà các đại thần thì ở ngay Thăng-long, nên không có vấn đề treo. Nhưng nay Lê mỹ-nhân lại là người quý hương, bản sứ hỏi vậy, để còn liệu trình lại với ngài Thượng-thư bộ Lễ. Bản sứ xin nhắc để các cụ biết, đẳng trật của cung-nga triều đình gồm 27 bậc. Cao nhất là hoàng-hậu, rồi tới bẩy bậc phi là thần-phi, tuyên-phi, quý-phi, thục-phi, đức-phi, hiền-phi, giai-phi. Sau tới các bậc đại-nghi, quý-nghi... Thấp nhất là quý-nhân. Hiện chưa biết Lê mỹ-nhân sẽ được phong chức gì. Nhưng cứ như lễ vật mà hoàng-thượng ban chỉ cho bản chức đem về hôm nay, thì ít ra Lê mỹ-nhân cũng được phong vào bậc phi. Còn quý hương thì chưa biết sẽ được ban thưởng những gì. Chắc chắn là lớn lắm, vì nghe cung-nga, thị-vệ nói Lê mỹ nhân được sủng ái cùng cực.



Thầy đồ Trần Trọng-San chắp tay:



– Thưa đại nhân, đúng như giấc mộng của hoàng-thượng, thì Lê mỹ-nhân là Hằng-Nga giáng thế, sẽ dâng cho hoàng-thượng hai hoàng tử, mà cả hai hoàng tử đều là người nhà trời, sau này sự nghiệp vĩ-đại vô cùng. Như vậy tệ hương cũng được ghi vào thanh sử.



– Trường hợp đó, lọ là phải bàn, Lê mỹ-nhân sẽ thành hoàng-thái-hậu, địa vị cực cao quý. À, tiên-sinh là Trần Trọng-San phải không? Dường như còn một tiên sinh nữa là Quách Sĩ-An thì phải?



Thầy đồ Trần chỉ thầy đồ Thái:



- Vâng, đây là thầy Quách Sĩ-An. Không ngờ anh em chúng tôi ở nơi cỏ nội hoa hèn, mà đại nhân cũng biết tới?



– Tiên sinh đừng dậy thế. Từ xưa đến giờ, học trò thành danh, thì thầy vinh-hiển. Hai tiên-sinh là thầy của Lê mỹ-nhân thì tiến trình tương lai không tầm thường. Lê mỹ-nhân đã tâu với hoàng-thượng về tài đức hai tiên sinh. Hoàng-thượng đã đưa sang toà Bình-chương cứu xét.



Lời của khâm-sai làm cả làng vui vẻ chi siết kể.



Sau hơn tháng, thì có chiếu chỉ đổi làng Thổ-lội thành làng Siêu-loại, và triều đình ban cho dân làng Siêu-loại được hưởng Tam-ân.(1) Khắp làng đều đốt pháo ăn mừng. Rồi từ đấy, cứ tháng tháng đôi tuần, Ỷ-Lan lại sai sứ phi ngựa đem những sơn hào hải vị về dâng cho song thân.



Rồi quả đúng như khâm-sai báo trước, có sứ giả về triệu hồi hai thầy đồ Quách Sĩ-An, Trần Trọng-San lai kinh. Ít lâu sau có tin cả hai thầy đều được phong làm tham-tri, tức lên tới tột đỉnh công danh. Cho đến hôm rồi, quan huyện Gia-lâm đạt giấy yêu cầu tất cả chức dịch tổng Dương-quang phải có mặt tại đình làng Siêu-loại, để quan huyện về truyền lệnh. Cả tổng bàn tán xôn xao, không biết triều đình lại ban ân điển gì nữa đây? Khi vào buổi họp, quan mới loan báo cho biết cả huyện phải giúp tổng Dương-quang chuẩn bị đón Ỷ-Lan phu nhân vinh-quy. Trong chuyến đi này, còn có sứ giả của nhà vua gả bốn thiếu nữ khác của Siêu-loại cho hai hoàng-tử và hai đại công tử. Sứ giả cũng chuyển cho làng một bức thư của Quốc-phụ Khai-quốc vương loan báo: năm thiếu niên làng Thổ-lội, được Quốc-phụ dạy dỗ mấy năm qua, nay người cũng cho họ trở về cố lý để thăm cha mẹ, họ hàng.



Lập tức trong làng ồn ồn lên bàn tán rằng không biết còn bốn cô nào mà lại phúc đức như vậy? Có người đoán già rằng nhất định một trong bốn cô đó là Minh-Can. Người ta lại kéo đến chúc mừng bà Thiết. Bà nói oang oang cả ngày:



– Nhất định là thế rồi. Cái con Minh-Đệ nhà tôi, nhan sắc thua xa con Minh-Can, lại ăn không lên đọi, nói không lên lời, mà còn được đức vua tuyển làm phi, trong khi con Minh-Can nhan sắc như chim sa cá lặn, tề gia nội chợ giỏi thì nó phải làm hoàng-hậu mới đúng. Đây nhà vua gả cho hoàng-tử thì cũng thiệt thòi cho nó lắm đấy.



Người ta lại đoán xem hai hoàng tử đó là ai? Chắc chắn không phải là con của Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế rồi, vì ngài chưa có hoàng nam. Hay là em của ngài? Con nuôi của ngài?



Còn năm thiếu niên học với Quốc-phụ, thành tài trở về cố lý là những ai, thì cả làng đoán không ra. Người ta cứ thức mắc về hai hoàng tử mà thôi. Mãi mấy hôm sau, mới có tin từ kinh đô Thăng-long đưa về rằng hai hoàng tử đó có tên là Hoằng-Chân, Chiêu-Văn. Cả làng lại chấn động lên, vì hai hoàng tử này văn-võ song toàn, nổi tiếng là đệ nhất mỹ-nam tử Thăng-long, con trai của Quốc-phụ. Còn hai công-tử đều là con quan thượng-thư, cũng văn võ song toàn. Một người là Chiêu-vũ hiệu-úy, một người là Định-viễn tướng quân. Cả bốn người được Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế đứng ra gả cho bốn thiếu nữ trong làng. Nhưng người ta không biết bốn thiếu nữ đó là cô nào?



Quan huyện phân chia công việc cho các xã trong tổng phải làm những gì giúp Siêu-loại đón đại quý khách.



Suốt năm ngày qua, toàn thể tổng Dương-quang nhộn nhịp hẳn lên. Trai gái thì lo đắp đường, làm cỏ, chặt cây, bắc lại cầu cho con đường đi tới làng Siêu-loại. Lý-dịch thì lo hội họp phân chia việc cho từng loại người. Như các cụ ông phải làm gì? Các cụ bà phải làm gì? Mỗi lần họp hàng tổng như thế, thì lý-dịch làng Siêu-loại được mời sang nghe để biết.



Rồi cái ngày chờ đợi đã tới.



Từ mờ sáng, dân chúng khắp nơi đổ dồn về đứng dọc hai bên đường dẫn tới làng Siêu-loại, để chờ đón xem mặt Hằng-Nga với hai hoàng-tử cùng hai đại tướng quân. Lý-dịch áo-xanh, quần trắng, dây lưng đỏ, lưng đeo loa lăng xăng chạy lui, chạy tới ra lệnh.



Khi mặt trời vừa lên khỏi lũy tre, thì có hai thị-vệ, giáp trụ sáng ngời, lưng đeo trường kiếm từ xa xa phi ngựa tới. Lý-trưởng vội đứng giữa cổng làng cung tay:



– Xin kính chào hai ngài thị-vệ đại nhân.



– Thưa cụ lý. Anh em chúng tôi xin kính chào cụ. Chúng tôi tới trước để kiểm soát an-ninh đôi chút mà thôi.



Viên thị-vệ khác nói nhỏ:



– Hằng-Nga tiên tử về thăm quê, người trần như bọn cháu phải hết sức phục thị cho phải đạo.



Hai thị-vệ đáp lễ, rồi kiểm soát cổng chào, kiểm soát cây cầu gỗ, kiểm soát cả con đường. Công việc xong, hai người đứng ra hai bên cổng làng. Một người đốt cái pháo thăng thiên tung lên trời. Cái pháo nổ đánh đùng một cái, rồi tỏa ra mầu tím hoa cà. Mọi người đều hướng mắt về phía trước con đường cái quan chờ đợi. Khoảng một khắc sau, từ đầu đường, một đoàn thị-vệ giáp trụ sáng ngời, cỡi ngựa, xếp hàng bốn từ từ tiến tới. Phía sau đoàn thị-vệ, là hai người lính cầm hai lá soái kỳ, một lá thêu con rồng vàng bay giữa đám mây với con ưng mầu trắng, cạnh có chữ « Quảng-thánh, Chiêu-vũ hiệu-úy Bùi ». Một lá cũng thêu con rồng vàng, nhưng con ưng thì mầu đen, cạnh có chữ « Quảng-vũ, Trấn-viễn tướng quân Nguyễn ».



Lý-trưởng hỏi viên thị-vệ:



– Ỷ-Lan phu nhân vinh quy kỳ này, có bao nhiêu người theo hầu? Do ai chỉ huy?



– Tổng số người theo hầu khá đông. Một trăm thị-vệ do chiêu-vũ hiệu-úy Bùi Hòang-Quan chỉ-huy. Năm mươi thái-giám, năm mươi cung nữ do chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông chỉ-huy. Còn người tổng chỉ huy là Định-viễn tướng-quân Nguyễn Căn.



Trương-tuần Huy hỏi:



– Tại sao giữa hai lá cờ lại có con ưng khác mầu? Hai vị tướng quân đó là ai vậy?



– À, hiện trong nước có mười hai đạo Thiên-tử binh. Trong mười hai đạo đó thì đạo Ngự-long, Quảng-thánh, Quảng-vũ, Bổng-nhật, Đằng-hải đóng ở Thăng-long làm Ngự-lâm quân, vì vậy quân kỳ của các đạo này đều thêu con rồng vàng. Để phân biệt, đạo Ngự-long thêu thêm con ưng vàng, đạo Quảng-thánh con ưng trắng, đạo Quảng-vũ con ưng đen, đạo Bổng-nhật con ưng xanh, đạo Đằng-hải con ưng đỏ. Vị tướng đi dưới cờ đạo Quảng-thánh là chiêu-vũ hiệu-úy Bùi Hòang-Quan. Vị đi dưới cờ đạo Quảng-vũ là trấn-viễn tướng quân Nguyễn Căn.



– Còn phía sau hai vị tướng giáp bạc là ai mà trang phục như con trai nhà quê thế kia?



– Ấy! Không phải trai quê đâu, mà là hai hoàng tử Hoằng-Chân và Chiêu-Văn đấy.



– Lạ nhỉ? Tại sao hai ông hoàng mà lại mặc quần áo nâu, dây lưng nâu, đầu quấn khăn như mấy anh thợ cấy vậy?



– Nguyên hai vị là anh em sinh đôi, con trai của Quốc-phụ Khai-quốc vương với vương phi Thanh-Mai. Hồi thơ ấu hai ông được gửi cho quốc-trượng Trần Tự-An nuôi dạy ở Thiên-trường, nên tính tình ảnh hưởng của phái Đông-a, ăn uống giản dị, nói năng ôn tồn, mà võ công cao siêu không biết đâu mà lường.



– Sao sau hoàng tử Hoằng-Chân lại có năm thiếu niên cỡi ngựa hồng, rồi sau hoàng-tử Chiêu-Văn lại có bẩy thiếu niên cỡi ngựa trắng? Họ là ai vậy?



– À, năm thiếu niên cỡi ngựa hồng vốn người Thổ-lội, được Quốc-phụ thu làm đệ tử, rồi được hoàng thượng ban cho mỹ danh là Long-biên ngũ hùng. Nay nhân Hằng-Nga hồi cố lý, năm cậu cũng được theo về. Ông không biết năm cậu ấy à?



– Khổ quá, đây là vinh dự lớn lao của làng, mà chúng tôi không biết mấy cậu ấy là ai mới khổ? Còn bẩy cậu cỡi ngựa trắng?



– Cũng là đệ tử của Quốc-phụ, em nuôi của Ỷ-Lan phu nhân đấy. Bẩy cậu được hoàng thượng ban cho mỹ danh là Tây-hồ thất kiệt.



Đoàn người ngựa từ từ tiến tới. Phía sau ngựa của hai hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn là ban nhã nhạc 120 người, rồi tới kiệu của Ỷ-Lan phu nhân. Kiệu do mười sáu cung nữ khiêng. Các cung nữ trang phục áo gấm mầu hồng nhạt, quần đen, dây lưng vàng. Hai bên kiệu có bốn thái-giám theo hầu. Phía sau kiệu Ỷ-Lan phu nhân, có bốn cái kiệu, mỗi kiệu do tám người lính khiêng. Người ta đoán đó là kiệu đón bốn thiếu nữ làng Siêu-loại cho bốn chàng rể đại tài. Sau bốn chiếc kiệu còn có mười tám xe song mã, trên chở đầy phẩm vật của nhà vua ban cho gia đình họ Lê, gia đình bốn cô gái tốt phúc và dân làng Siêu-loại.



Cuối cùng là một đoàn thiết-kị gươm đao sáng ngời, hàng ba. Khi kiệu tới đâu, là tiếng loa xướng đến đó:



– Phu nhân truyền miễn lễ cho dân làng.



Không ai được thấy dung nhan phu nhân. Họ cùng mở to mắt nhìn hai vị tướng quân giáp bạc oai phong lẫm liệt. Họ lại trầm trồ khen hai hoàng tử đẹp trai. Các cô gái cùng nhìn bốn người rể tương lai của làng, trong lòng ước mơ được làm vợ của một trong bốn người.



Khi đoàn người vào trong làng Siêu-loại, thì kiệu của Ỷ-Lan phu nhân cùng bốn kiệu « rước dâu » được đưa vào trong hành doanh. Hành doanh được cất bằng tre, lá, ngay trong khu vườn của ông bà Thiết. Trong khu hành doanh, một nhà rạp cực lớn mới cất lên trước ngôi nhà ông bà Lê Văn-Thiết. Long-biên ngũ-hùng, Tây-hồ thất kiệt cũng theo kiệu Ỷ-Lan vào nhà rạp.



Ông bà đã quần áo chỉnh tề cùng các con đón Ỷ-Lan. Nàng xuống kiệu lạy cha mẹ, thăm hỏi các em. Liếc mắt qua, thấy vắng mặt Minh-Can, nhưng vì có nhiều người ngoài, nàng không tiện hỏi xem ả ở đâu? Trước kia ông bà Thiết ở trong căn nhà năm gian, lợp tranh, tường gạch. Khi Ỷ-Lan tiến cung, với lễ vật từ hoàng cung gửi về, ông bà được dân làng giúp đỡ xây một dinh cơ lớn để ở. Nhưng Ỷ-Lan đã cho người về nói với làng là xây dinh mới thì cứ xây, nhưng phải giữ nguyên căn nhà cũ. Trong căn nhà, chỉ được sửa chữa những chỗ dột nát mà thôi. Cái giường của nàng nằm, cùng cái chuồng lợn mà nàng phải nằm ngủ mấy năm, phải giữ nguyên.



Ỷ-Lan thấy nhà rạp nối liền với căn nhà cũ của nàng, thì vui vẻ vô cùng. Tần ngần, xuống chuồng lợn, Ỷ-Lan nhìn bầy lợn năm con, hồi nàng sắp tiến cung chúng còn đỏ hỏn, mà bây giờ không thấy con nào nữa, chuồng bỏ không. Thì ra vắng nàng, thiếu người nấu cám, dã bèo, nên bà Thiết không nuôi lợn nữa. Mụ Sửu thấy nàng, vội quỳ mọp xuống đất, rập đầu binh binh. Nhưng vốn dốt nát, mụ không nói lên lời chúc tụng. Ỷ-Lan phất tay, chi-hậu Nguyễn Bông nói:



– Phu nhân truyền cho mụ bình thân.



Ỷ-Lan chỉ cho cung-nga, thái-giám, với các quan tháp tùng:



– Kia, cái giường tre kia tôi đã ngủ trên đó từ khi đẻ ra đến lúc vào cung.



Nàng chỉ vào căn buồng nhỏ hẹp, tối tăm:



– Trước tôi ở trong này. Sau bị đuổi ra ngủ trước chuồng lợn, những ngày lạnh thì chui đầu vào đống rơm, bằng không thì chết cóng.



Tùy tùng kinh ngạc đến không thể ngờ được. Hoàng-Nghi thêm:



– Các vị kinh ngạc hả? Thời thơ ấu của chị tôi khốn khổ đến không ai có thể tưởng tượng nổi kiếp người sao mà lại có thảm cảnh như thế!



Nghe Nghi nói, bà Thiết ứa gan muốn mắng chửi nó, nhưng bà thấy nó đeo kiếm, quần áo sang trọng, bà lại im lặng. Nàng vòng ra sau nhà, cái chuồng hôi cũ tuy đã được trồng hoa xung quanh, nhưng rộng hẹp vẫn không đổi. Nàng nói:



– Hồi xưa, tôi bị đánh bằng đũa cả cho đến khi mê man, rồi bị ném xuống dưới chuồng hôi, dòi bọ đầy người, sau đó đang đêm phải lần mò sang chùa Từ-quang xin cứu trị, giữa đường bị ngất, được y-sư Xuân-Hòa chữa cho.



Trần Ninh thêm:



– Bấy giờ chị đâu có ngờ, ngày nay lại thành bông «lan» thơm nhất thiên hạ. Em cho rằng cái lần bị ném xuống cầu tiêu, giống như chị xuống Âm-phủ, rồi tái đầu thai vậy.



Mặt bà Thiết cau lại, rất khó coi. Đi một vòng quanh nhà, nhìn lại kỷ niệm cũ, rồi nàng trở về rạp. Trong rạp chỉ có An-vũ-sứ, quan huyện, song thân của nàng mới được có mặt, để đón con gái. Giữa rạp, một hương án, đỉnh hương bốc khói lên nghi ngút. Hai hoàng-tử và hai vị tướng quân đóng quân ở sân đình. Thị-vệ vây kín xung quanh rạp. Ỷ-Lan phu-nhân được đưa ngồi trên một cái ngai chạm hai con phượng. Lễ quan bắc ghế cạnh phu nhân cho song thân nàng ngồi. An-vũ-sứ, tri huyện cũng được ngồi ghế đặt lui lại sau nửa bước. Bốn cái kiệu đón dâu mở ra, Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Ngọc-Nam, Thanh-Thảo bước xuống. Bốn cô hành lễ với ông bà Thiết, rồi ngồi vào bốn cái ghế phía sau Ỷ-Lan phu nhân. Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đứng thành hai hàng phía trước. Lễ quan cho dàn ra bên trái phu nhân hai chục cung-nga, bên phải hai chục thái giám. Lại có hai đội thị vệ giáp sắt, cầm đao đứng hầu.



Lễ quan cung tay:



– Theo nghi lễ triều đình, hôm nay là ngày vinh quy của phu nhân. Hoàng-thượng gửi theo lễ vật về dâng cho song thân phu nhân.



Thái-giám cung nga đem lễ vật ra: nào ngọc, nào vàng, nào lụa, nào gấm. Ông bà Thiết phải đứng dậy tiếp lễ vật, rồi hướng vào hương án lễ tạ.



Lễ-quan hô:



– Xin phu nhân ban thưởng cho những người có ơn và những người phu nhân thương mến.



Phu nhân gật đầu:



– Cho mời lý-dịch vào.



Tiên-chỉ, thứ-chỉ, lý-trưởng, phó-lý, trương-tuần, thủ-bạ vào rạp quỳ gối hành lễ. Phu nhân phán:



– Xin các vị bình thân.



Ỷ-Lan truyền lệnh cho lý dịch:



– Mời tất cả dân làng vào rạp.



Cửa rạp mở rộng, dân chúng kéo nhau vào trong, đứng thành một vòng trước hương án. Ỷ-Lan hướng lý-dịch:



– Người xưa nói: có ở trong chăn mới biết chăn có rận, thì tôi cũng có thể nói rằng có ở trong chăn, mới biết chăn sạch sẽ. Tôi là đứa con gái sinh ra đã bị bất hạnh, bị chà đạp bị đánh đập đến chết đi sống lại, bị cường hào ác bá khinh khi đủ điều. Nhưng riêng các cụ trong lý-dịch vẫn đối xử với tôi bằng tấm lòng thương xót. Vì vậy, không bao giờ tôi quên cái ân tình đó. Tôi đã tâu lên hoàng-thượng, tưởng thưởng cho tất cả các vị như sau: hai cụ tiên, thứ chỉ được hưởng hàm ngũ-phẩm. Hai cụ chánh, phó lý được hưởng hàm thất phẩm. Anh trương-tuần, thủ-bạ được hưởng hàm bát phẩm.



Lễ quan hô:



– Lý dịch quỳ xuống nghe chiếu chỉ.



Sau khi lý-dịch quỳ gối trước hương án, một thái giám mở trục đọc chiếu chỉ phong hàm. Lý-dịch tạ ơn.



Lễ quan hô:



– Phu-nhân ban thưởng cho lý-dịch.



Ỷ-Lan bước khỏi ghế, trao cho mỗi người một nén vàng, một tấm gấm Thăng-long, một tấm lụa Nghi-tàm. Sau khi trao cho trương-tuần Huy, nàng nói với An-vũ-sứ:



– Này An-vũ-sứ, anh trương tuần xã tôi thực là người lỗi lạc. Anh bị bọn gian Trịnh Quang-Thạch áp chế, nhưng nhất định khăng khăng không chịu theo chúng. Anh lại có tài tổ chức hoàng-nam giữ an-ninh cho xã. Tôi sẽ đưa anh về kinh làm thị-vệ. Vậy An-vũ-sứ có cho đi không?



An-vũ-sứ cúi đầu:



– Tâu phu nhân được chứ ạ. Thần sẽ cử người khác thay anh Huy.
Quá khứ hiện về trong tâm tư Ỷ-Lan: đêm hôm ấy nàng đấu với Lý Hiến, Dư Tĩnh bị thua, rồi Mộc-tồn Vọng-thê hòa thượng ra tay nhét thịt chó vào mồn chúng mà cứu nàng. Vừa rồi chính miệng vị sư bá xưng là thầy chùa ăn thịt chó. Không lẽ sư bá là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng.



Nàng hỏi:



– Bạch sư-bá, sư-bá là Mộc-Tồn Vọng-Thê hòa thượng hay sao?



– Đúng vậy. Trên thế gian này chỉ có mình ta là hòa thượng ăn thịt chó và nhớ vợ mà thôi. Người nghĩ sao?



Nguyễn Bông bật lên tiếng kêu:



– Úi chà.



Viên-Chiếu hỏi:



– Công công cũng nghe danh sư huynh của bần tăng rồi ư?



Nguyễn Bông chối:



– Không! Đệ tử chỉ kinh ngạc về cái tên của đại sư mà thôi. Chứ đệ tử tiến cung từ nhỏ, không ra ngoài, nên nào có nghe đại danh của người.



Ỷ-Lan chắp tay hành ba lễ với Mộc-tồn hòa thượng:



– Sư bá đã đi tu, tại sao còn xơi thịt chó, còn nhớ vợ? Phàm khi vào chốn không môn, thì phải chay tịnh, để lòng trong sáng mới giải thoát được, chứ có đâu ăn mặn, hơn nữa ăn thịt chó?



Mộc-tồn hòa thượng chù mỏ thổi một hơi dài, tiếng sáo kêu to như tiếng tù và. Ông nhăn mũi:



– Con nhỏ này về Nho-học thì mi uyên-thâm thực, nhưng về Phật-pháp thì giỏi lắm mi thuộc bài kinh Bát-nhã, bài kinh A-di-Đà là quá. Có đúng thế không?



– Bạch sư bá đệ tử chưa thuộc bài kinh A-di-Đà.



– Có vậy chứ. Con nhỏ này quả tình là người ngay thẳng. Mi ngồi phò tá cho gã Nhật-Tông thực xứng đáng. Để ta vào cung giết con mẹ nó hết bọn Tể-tướng, Thượng-thư ăn hại đi, rồi bảo tên Nhật-Tông phong mi làm Tể tướng, bốn con bé bạn mi làm thượng thư. Như vậy dân mới sung sướng hơn được. Thôi, hôm nay ta vì mi, mà giảng về Phật-pháp một phen.



Ông đưa mắt nhìn mấy cung nữ theo hầu cùng chi-hậu Nguyễn Bông, rồi nói:



– Ta muốn giảng pháp môn đặc biệt cho mình phu nhân nghe. Những người khác ngộ tính không đủ e vô ích, phu nhân nên cho họ ra ngoài.



Ỷ-Lan vẫy tay cho tùy tùng:



– Các người có thể ra ngoài.



Nguyễn Bông, đám cung nữ, mười hai đứa trẻ lui khỏi bảo điện. Nhà sư cau mày:



– Mấy đứa trẻ này dung quang khác thường, nên để cho chúng ở lại nghe ta giảng kinh.



Bọn Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt ở lại.



Mộc-tồn hòa thượng hỏi Ỷ-Lan:



– Phu nhân thấy Nguyễn Bông là người thế nào?



– Y là thái giám bẩm sinh, được tuyển cung từ thời đức Thái-tổ, lên tới chức tổng-quản thái giám thuộc ty Thượng-thiện, chuyên coi việc ăn uống cho ngài. Sang đời đức Thái-tôn được chuyển sang trông coi toàn bộ cung nga, thái giám hầu Thiên-Cảm hoàng-hậu. Khi hoàng-hậu được phong làm Thiên-Cảm thái hậu, thì y được phong làm Bắc-ban chỉ-hậu, tước tới Phong-lĩnh bá, coi việc hầu Thượng-Dương hoàng hậu. Gần đây hoàng-thượng phong y lên làm chi-hậu nội-nhân, tước tới Trường-yên hầu, để coi việc cung Ỷ-Lan. Y rất cần mẫn, ăn uống dè sẻn, lại được lòng Thái-hậu, Hoàng-hậu, nên uy tín y rất lớn.



Viên-Chiếu lắc đầu, nhìn sư-huynh, rồi thở dài:



– Hỡi ơi! Con là người kinh lịch, thế mà không khám phá ra bí mật của Nguyễn Bông, thì cũng hơi lạ.



Ỷ-Lan còn cúi đầu trầm tư suy nghĩ, thì Viên-Chiếu đã nói:



– Con không để ý đến tướng đi của y ư? Một thái-giám bẩm sinh, thì cơ thể phải yếu đuối, thế mà nay tuổi y đã cao, lúc vào đây, bước chân y đi nhẹ như chim. Lúc sư bá đứng bên ngoài, nội công con cao như vậy, cũng không khám phá ra, thế nhưng y đã biết ngay, y cúi đầu nhăn mặt nghe ngóng. Rồi ban nãy y bước ra, lúc quay lưng thực nhẹ nhàng, rõ ràng nội công y cao đến mức thượng thừa.



Mộc-tồn hòa thượng tiếp:



– Phu nhân có chú ý không? Thân hình y gầy gò, cổ cao, thế nhưng mặt y lại bầu, má phính, trán gồ. Khi y nói, thì hai má không rung động, lúc nhăn mặt thì da trán vẫn cứng. Rõ ràng y đắp lớp da giả trên trán, trên má cho đổi khuôn mặt đi. Khi ta vào đây đã khám phá ra điều đó. Cho nên lúc nãy ta vờ vẫy tay đuổi y với đám cung nữ ra, nhưng kỳ thực ta phóng một tia nội lực vào hạ bộ y, thì biết rằng y không phải là thái giám.



Nghe sư bá, sư phụ nói, Ỷ-Lan kinh hoàng, vì một đại hành gia, chưa hề tĩnh thân, ẩn ở Hoàng-cung mấy chục năm nay, ắt phải có mưu đồ lớn lắm. Nàng cúi đầu tạ sư bá, sư phụ:



– Bây giờ đệ tử sai võ sĩ trói y lại giải về triều để quan Hình-bộ thượng thư điều tra, xử tội.



Mộc-tồn hòa thượng vẫy tay:



– Phu nhân cứ lờ đi như không biết. Ngay bây giờ phu nhân có thể viết một bài biểu, sai người thân tín đem về trao tận tay hoàng-thượng, để người biết trước. Còn hành trạng của y, để đó, ta theo dõi cho.



Ỷ-Lan mượn nghiên bút của sư phụ Viên-Chiếu, nàng viết liền năm trang, rồi niêm phong lại. Nàng gọi Trần Di:



– Em cùng Tây-hồ thất kiệt đi mời hoàng tử Hoằng-Chân, Chiêu-Văn cùng phu nhân của hai ngài đến cho chị.



Năm trẻ vội vã ra đi.



Bây giờ Mộc-tồn hòa thượng mới thuyết pháp: đạo đức Thế-tôn không có chỗ khởi đầu, cũng chẳng có chỗ tận cùng. Đạo có muôn vàn pháp-môn, ai muốn tu theo pháp môn nào cũng được, miễn sao đi đến đích là giải thoát. Thế thôi. Đức Thích-ca Mâu-ni có vợ, có con rồi mới đi tu. Đa số đại đệ tử của người đều đã có vợ, có con rồi mới đi tu. Ông An-Nan em Phật, có nhiều vợ, nhiều con sau mới đi tu. Khi ông đã đắc quả Bồ-tát rồi còn say mê nàng Ma-đăng-Gìa đến điên đảo thần hồn. Vua A-Dục, giết người như chà kiến cỏ, thế rồi cũng đắc pháp. Đấy, mỗi hoàn cảnh tự nó tạo thành một pháp môn. Tại sao lại cứ phải bắt người ta ăn chay, tụng kinh, gõ mõ mới là tu nhỉ? Còn ta. Ta sắp có vợ, thì mất vợ. Ta nhớ thương vô vàn, quên không được, thì ta tưởng tượng ra hình bóng nàng. Mỗi ngày, đúng giờ Dậu, ta ngồi tưởng nhớ nàng, nói chuyện với nàng nên mới có tên vọng thê. Ta nhớ thì ta nhận, trên thế gian này thiếu gì kẻ mặc áo cà sa, xưng là cao tăng, mà lúc vắng lại hú hí với gái. Hừ! Ta nhớ vợ thì ngồi tưởng tượng ra hình bóng nàng mỗi ngày một đôi lần, như thế mới là đắc đạo.



Ỷ-Lan nghĩ thầm:



– Vị sư bá của mình thực là đấng đa tình số một số hai trên thế gian này.



– Còn việc ta giết người. Ta hỏi phu nhân nhé, từ xưa đến giờ, ta đã giết oan một người nào chưa? Người thấy không, nếu như giết một con kiến, một con sâu cũng là giết. Thế thì giết kẻ ác cũng thế thôi. Có điều khi giết kẻ ác, là tạo phúc cho thế gian. Tạo phúc cho người là có hạnh bồ tát vậy.



– Dạ.



– Khi người giết một con kiến, môt con sâu cũng gây nghiệp quả như giết một con voi, giết một người. Còn người ăn một miếng thịt lợn, thịt gà, một con tép hay ăn thịt chó, thì cũng là ăn thịt, có khác gì đâu? Người cho rằng thịt chó dơ bẩn ư? Ta nghĩ trong các thú vật, thì chó là giống sạch sẽ nhất, trung thành nhất. Ăn thịt chó có gì là dơ bẩn đâu? Người nên biết chó có hai loại. Một là chó. Hai là má. Người có biết con chó với con má khác nhau thế nào không?



– Đệ tử chưa từng nghe qua.



– Không ai có thể dùng mắt mà phân biệt được chúng. Cũng như người không thể phân biệt được rằng trong năm sư huynh Viên, thì có bốn người là Phật-tử, còn một gã Viên-Hoa là quỷ trong xác người.



Ông giảng giải: muốn phân biệt chó với má, thì cứ đem thịt chó cho chúng ăn. Con nào ngửi rồi không ăn, thì là con chó. Còn con nào ngửi rồi lại ăn thì là con má. Chó có linh tính, còn má thì không!



Ông quét con mắt nhìn Ỷ-Lan từ đầu đến chân, rồi đưa bàn tay lên ngửi. Ông nhăn mặt:



– Cách đây khoảng ba tháng, phu nhân đã đấu chưởng với một người nội lực cao siêu vô cùng. Y dồn vào người phu nhân một chất độc, không phải với mục đích giết hại phu-nhân, mà với mục đích gì thực khó hiểu. Ai đã dồn chất độc vào người phu nhân?



Ỷ-Lan thấy sư bá hỷ nộ thất thường, khi thì ông gọi nàng là mi. Khi thì ông gọi nàng là phu nhân. Khi thì gọi nàng là người. Nàng biết rằng ông là kỳ nhân dị sĩ, dĩ nhiên sẽ có những điều kỳ quặc. Bây giờ ông hỏi nàng về kẻ dồn chất độc vào người. Nàng lắc đầu:



– Đệ tử cũng không biết nữa. Bạch sư bá, đệ tử bị trúng độc sao?



– Đúng thế. Cách đây mấy tháng người có giao đấu với cường địch, rồi bị dồn độc tố vào cơ thể. Độc tố này vốn chậm phát. Nếu không trị ngay, thì sẽ đưa đến tuyệt đường sinh đẻ. Hừ! Đúng ra người thường trúng độc này thì bị chết rồi. Cũng may phu nhân luyện Vô-ngã tướng thiền công nên bách độc không phạm vào người được. Nhưng người phóng độc này vốn là tay võ lâm cao thủ, lại có biệt tài dùng độc, nên phu nhân mới bị hại.



– Ông bắt mạch Ỷ-Lan rồi lắc đầu:



– Chà, không những phu nhân bị trúng độc, mà còn bị đầu độc nữa.



Ỷ-Lan giật bắn người lên, nàng than thầm:



– Nguy tai! Niên kỷ hoàng thượng đã đi vào tuổi bốn mươi, mà chưa có hoàng nam. Vì tin theo giấc mộng hai mươi năm trước, nên người chưa chịu lập các cháu giòng khác làm thái tử như vua Tống, với hy vọng tìm ra ta, để sinh ra hai hoàng nam. Nay ta bị gian nhân đầu độc, không sinh nở, thì tất cả hy vọng của người, hóa ra một tuồng ảo mộng. Việc ta không sinh con được là cả mối nguy nan cho giòng họ Lý cũng như tính mệnh của ta, của nhiều người khác. Nếu như hoàng thượng băng hà, mà chưa lập Thái-tử, thì Thượng-Dương hoàng hậu sẽ lập một ấu quân lên thay. Bà ta đương nhiên buông rèm thính chính, quyền hành sẽ từ từ chuyển sang họ Dương, rồi họ Dương cướp ngôi giống như Lã thái hậu đời Hán đã làm.



Nàng cung tay nói với sư phụ, sư bá:



– Xin sư phụ, sư bá cứu chữa cho đệ tử.



Viên-Chiếu hỏi Mộc-tồn:



– Sư huynh, liệu chúng ta có trị được bệnh cho Ỷ-Lan không?



– Trị thì trị được.



Ông nhìn Ỷ-Lan đầy vẻ thương hại: được, ta vì phu nhân mà trị bệnh. Nhưng trị bệnh thì phải trị tận gốc. Ta trị cho phu nhân, rồi phu nhân lại bị đầu độc, thì trị cũng như không. Vấn đề đước mắt là phu nhân phải tìm cho ra kẻ ẩn núp quanh phu nhân đầu độc phu nhân đã.



– Nhưng con không biết kẻ địch là ai!



Mộc-Tồn hòa thượng cầm mạch cho Ỷ-Lan, rồi nói:



– Kẻ đầu độc phu nhân có trình độ y khoa cực kỳ cao thâm. Y biết phu nhân luyện Vô-ngã tướng thiền công, bách độc không thể xâm nhập được bằng đường ngoài da, bằng đường hô hấp. Y dùng một chất độc trộn vào thức ăn, phu nhân ăn vào, không bị phản ứng gì cả. Nhưng độc chất này có tính chất làm cho chân khí không tòng tâm phát ra như ý muốn. Thế rồi ít lâu sau, y tung phấn độc cho phu nhân hít phải. Hai độc chất này hợp với nhau, khiến cho Can, Tỳ, Thận kinh cùng Nhâm-mạch rối loạn. Bây giờ thì Vô-ngã tướng công hết hiệu nghiệm chống độc. Sau đó y xuất hiện, đấu chưởng với phu nhân, bấy giờ y mới dồn được độc chưởng vào người phu nhân. Cả ba loại độc không làm hại gì phu nhân, nhưng trong sáu tháng thì tuyệt đường sinh đẻ.



Ỷ-Lan kinh hãi vô cùng, nàng quỳ gối:



– Xin sư bá vì sự nghiệp của triều Lý, vì giang sơn của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng, ra tay tế độ cứu chữa cho đệ tử một phen.



Viên-Chiếu vẫy tay cho Ỷ-Lan ngồi ngay ngắn lại:



– Con đừng đa lễ. Sư bá đã khám phá ra, thì tất sư bá sẽ trị bệnh cho con. Nhưng... bây giờ con cứ thản nhiên như thường. Trong bóng tối thầy với sư bá sẽ theo dõi, khi tìm ra thủ phạm, ta trừ khử chúng dã, rồi mới trị bệnh sau. Vì khi chưa trừ khử chúng, thì thầy có chữa trị, chúng lại đầu độc tiếp, e cũng vô ích mà thôi. Bây giờ con hãy cho ta biết, con đã đấu chưởng với ai, trong ba tháng gần đây?



Ỷ-Lan lắc đầu:



– Con tiến cung đã hơn năm. Trong hơn năm qua, con không hề xử dụng võ công thì sao...



Chợt nàng nhớ ra một việc: cách đây ba tháng, sư phụ Trần Tự-An đột nhập cung Ỷ-Lan, nàng đã chiết chiêu với ông. Nàng bật lên tiếng kêu:



– Con tìm ra rồi!



– Ai?



– Một vị sư phụ của đệ tử nhập cung thăm đệ tử, rồi chiết chiêu với đệ tử. Người là một đại hiệp lừng danh thiên hạ, không lẽ người lại nỡ hại đệ tử? Vả dù người muốn hại đệ tử, làm sao người có thể sai khiến ngự trù, cung nga, thái giám bỏ thuốc độc vào thức ăn?



Rồi nàng tường thuật tỷ mỉ việc Tự-An nhập cung Ỷ-Lan ra sao không bỏ một chi tiết nào. Nhưng nàng vẫn không nói tên sư phụ ra. Bởi sư phụ thì xưng là Trần Tự-An, trong khi vua bà Bình-Dương lại bảo ông là Đinh Kiếm-Thương.



Mộc-Tồn hòa thượng gật đầu:



– Vậy thì phải rồi, chính sư phụ của phu nhân đã dồn độc công vào người phu nhân. Khi phu nhân tung chung trà vào người y, y hắt trở lại. Trong lúc hắt y phóng theo ít phấn độc, khiến phu nhân và mẹ con Thúy-Hòang, Thúy-Phượng hít phải. Hai người kia ngất xỉu sau đó, còn phu nhân có Vô-ngã tướng thiền công hộ thể nên không sao. Hà! Độc thực.



Ông hỏi Viên-Chiếu:



– Sư đệ! Sư đệ thử kiến giải xem sao?



Viên-Chiếu trầm tư một lúc, rồi lắc đầu:



– Khó hiểu quá. Nếu sư phụ Ỷ-Lan trừng phạt Ỷ-Lan về việc không trộm tâm pháp Cổ-loa thì ông ta đã giết chết Ỷ-Lan, chứ có đâu làm cho tuyệt đường sinh đẻ? Đệ nghĩ vụ này có liên quan đến họ Dương. Nhưng họ Dương đã mất hết vây cánh rồi, thì còn hy vọng gì nữa mà xuống tay? Hoặc giả do Tống chăng? Chúng ta còn thì giờ theo dõi vụ này mà.