Nam Quốc Sơn Hà

Chương 19 : Bà Chúa Kho Đại-việt

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Hôm ấy là ngày mười bốn, trăng thu sáng vằng vặc như ban ngày. Dân chúng Thăng-long đổ xô về chùa Thánh-chúa, làng Dịch-vọng, để được thấy dung nhan Ỷ-Lan phu nhân. Người ta bàn tán ồn ào: Xưa đức vua mộng thấy Ngọc-Hoàng thượng đế truyền cho Hằng-Nga giáng thế để làm vợ ngài; lại cho Thanh-y đồng tử đầu thai làm con của Hằng-Nga. Nay đức vua đã tìm thấy Hằng-Nga là Ỷ-Lan phu nhân rồi. Vì vậy đức vua tổ chức cầu tự ở chùa Thánh-chúa, mong chư vị Bồ-tát giúp Thanh-y đồng tử đầu thai dễ dàng. Lễ cầu tự do đại thần là Chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông, tước Trường-yên hầu đích thân điều khiển. Thời gian cầu tự kéo dài 49 ngày. Hôm nay là ngày cuối cùng. Đức vua cùng với Ỷ-Lan phu nhân thân tới chùa lễ tạ. Tháp tùng nhà vua, còn có Yên-vương vương phi Lê Thiếu-Mai, công chúa Thiên-Ninh, quan tổng-lĩnh thị-vệ Đỗ Oanh.



Từ hôm trở về cung, Ỷ-Lan đã tâu xin cho trương tuần xã Siêu-loại là Lê Huy làm chức vũ-vệ hiệu úy cung Ỷ-Lan. Nàng cũng cắt mười lăm thang thuốc mà Mộc-tồn hòa thượng cho nàng để trị bệnh. Mỗi thang chia làm hai phần. Phần uống buổi sáng để trục độc khỏi người. Phần uống buổi chiều để tư bổ can, thân, Xung, Nhâm mạch. Chứng huyết trắng đã được trị dứt. Nhưng người nàng lúc nào cũng bứt rứt, da căng lên, mà mồi hôi thì không chưa thoát ra được. Ngự-y không tìm thấy lý, thành ra không đưa ra pháp, phương. Ỷ-Lan cho rằng nàng lại bị đầu độc nữa.



Nhà vua vội sai sứ giả mời Yên-vương phi tức Thiếu-Mai tiên nương vào cung. Nhưng sứ giả nói thác rằng để dạy nàng về những lễ nghi, tổ chức, luật lệ của Tống triều, mà thực ra để vương phi kiểm soát việc ăn uống cho nàng, tránh khỏi bị đầu độc nữa. Chiều nay, tiên-nương về tới, thì đúng lúc nhà vua với nàng phải ra lễ tạ ở chùa Thánh-chúa, nên nàng mời tiên-nương cùng đi.



Trước khi khởi hành, Ỷ-Lan cho gọi Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng cùng đi. Chúng cỡi ngựa, chia làm hai hàng, đi hai bên xe Ỷ-Lan.



Tăng chúng trong chùa xếp hàng ra đón đức vua cùng Ỷ-Lan phu nhân. Đức vua thân ban thưởng chư tăng, rồi ngài cùng phu nhân phát chẩn cho kẻ khó. Chi-hậu Nguyễn Bông tâu rằng chỉ người nghèo mới được lĩnh chẩn mà thôi. Nhưng Ỷ-Lan phu nhân ban chỉ rằng: người có mà cũng đến xin lĩnh chẩn, đâu phải họ nghèo đói? Chẳng qua họ hiếu kính với đức vua, nên muốn được thấy long nhan. Vậy chẳng nên phân biệt kẻ giầu người nghèo.



Vì thế cuộc phát chẩn trở thành lễ ban lộc cho dân. Mỗi phần lộc gồm có oản, chuối, bánh, và mười đồng tiền. Đây là loại tiền mới đúc, trên mặt có chữ Chương-thánh thông bảo. Thời bấy giờ giá mỗi đấu gạo là một đồng. (Mỗi đấu tương đương với ngày nay là 1,1kg). Đa số dân chúng được tiền vua ban đều xỏ vào dây, rồi đeo lên cổ.



Cuộc phát chẩn đến gần khuya thì xong. Nhà vua với Ỷ-Lan phu nhân lên xe bốn ngựa về Hoàng-thành. Công chúa Thiên-Ninh ngồi đánh xe. Hai bên đường, dân chúng chen chúc, cúi đầu chắp tay lễ đức vua. Đi trước xe là một toán ngự-lâm quân dẹp đường. Thị vệ mặc giáp bạc, gươm đao sáng ngời ruổi ngựa song song làm hai. Trước và sau xe là ngựa của Long-biên ngũ-gùng, Tây-hồ thất kiệt.



Chợt phiá trước thị-vệ ùn lại, có nhiều tiếng cãi vã, làm quan tổng-lĩnh thị vệ Đỗ Oanh phải vọt ngựa lên trước xem xét. Công chúa Thiên-Ninh ghì cương cho xe chậm lại.



Nhà vua hỏi:



– Cái gì vậy?



Đúng là điếc hay hóng, ngọng hay nói. Dương Minh tức Minh ngọng trong Tây-hồ thất kiệt tâu:



– Có... có... có người người người... ăn... ăn mày tàn tật ngồi cản đường. Y nói, vì chân bị què, không thể đến chùa lĩnh lộc, nên y nằm giữa đường chờ xa giá bệ hạ để xin ân ban.



Ỷ-Lan tung mình lên cao, thân pháp nàng uốn lượn dưới bóng trăng trông đẹp không thể tưởng tượng nổi. Nàng ban chỉ:



– Không được đuổi người ta.



Nói rồi nàng xẹt tới chỗ người ăn mày. Trước mắt Ỷ-Lan là một người đàn ông, đầu quấn khăn nâu, áo cánh rách mấy chỗ, quần cũng vá năm sáu miếng, lưng đeo cái bị cũ. Y nói:



– Đường này là đường của vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng để lại, đâu phải đường của riêng nhà vua, mà các chú đuổi tôi? Vả, tôi bị tật, không chen vào xin lộc vua được, nên tôi nhất định ngồi đây đợi đức vua đi qua thỉnh chứ!



Thị-vệ định hè nhau nhắc người ăn mày đem vào lề đường thì Ỷ-Lan tới. Nàng vẫy tay cho thị-vệ:



– Các người lui ra, để đấy cho ta giải quyết.



Nàng cất giọng ôn nhu nói với người ăn mày:



– Này anh, năm nay anh bao nhiêu tuổi, tại sao lại bị tật?



Người ăn mày ngước mắt lên nhìn Ỷ-Lan rồi hỏi lại:



– Cô là vợ vua đấy hả?



Ỷ-Lan phì cười:



– Tôi là nàng hầu của vua mà thôi.



– Nàng hầu! Nàng hầu hay vợ thì chỉ khác nhau cái tên. Nhưng thực tế ra thì cũng là vợ cả. Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả. Tôi đói quá, cô có gì cho tôi ăn không?



Ỷ-Lan xòe hai tay:



– Bao nhiêu lộc đã phát hết rồi, tôi không còn gì cả.



Người ăn mày bưng mặt khóc hu hu:



– Hỡi ơi! Ngay tại kinh thành, chính vua với vợ vua mà cũng không giữ được công bằng, kẻ nhanh chân thì được, người tàn tật thì không. Hỏi như vậy ở các trấn, ở thôn trang nhỏ thì làm sao có lẽ công bằng?



Câu cãi vã với thị-vệ cùng lời than này, làm Ỷ-Lan tỉnh ngộ: đây là một kỳ nhân dị sĩ. Y đón đường với mục đích gì chứ không phải là ăn mày bình thường. Nàng cũng nhận ra tiếng nói của y hơi khàn khàn, rất quen thuộc, rất thân ái, nhưng trong nhất thời nàng không nhớ ra đã gặp ở đâu? Nàng nhìn sang bên cạnh: trong khi Long-biên ngũ hùng ngẩn người ra nhìn gã ăn mày; còn Tây-hồ thất kiệt mặt hiện ra vẻ uy nghi trang trọng, hai tay chắp lại. Dường như chúng đã nhận ra được chân tướng người ăn mày.



Chợt Ỷ-Lan nghĩ lại: ban nãy, khi rời chùa, Nguyễn Bông có dành một mâm lộc Phật sai cung nữ cất vào quả mang về cung cho nhà vua với Ỷ-Lan thụ lộc. Nàng bảo Nguyễn Bông:



– Hầu đem quả đựng lộc cho ta.



Nguyễn Bông lưỡng lự:



– Tâu phu nhân, lộc đó dành dâng hoàng thượng với phu nhân, không thể bố thí được.



Ỷ-Lan lạnh lùng:



– Của hoàng thượng lại càng nên bố thí. Hầu đưa quả đó đến đây ngay.



Cung nữ bưng quả đựng lộc tới. Ỷ-Lan mở nắp, lấy bánh, oản, chuối đưa cho người ăn mày. Rồi an ủi:



– Đây, lộc đây đem về mà ăn. Thế nhà anh ở đâu, để tôi sai người đưa về?



Một tay người ăn mày cầm oản ăn, một tay xoè ra:



– Ai cũng được mười đồng tiền, tại sao tôi lại không? Tôi nghĩ dường như ông vua với vợ... trong túi không có một đồng tiền thì phải?



Ỷ-Lan phì cười, vì lời người ăn mày quả không sai. Nàng thấy công chúa Thiên-Ninh đã xuống xe, đến cạnh nàng từ bao giờ. Nàng hỏi:



– Công chúa có tiền không?



– Có chứ, cháu có mang theo đây.



Thiên-Ninh đưa cái túi bên mình cho Ỷ-Lan. Ỷ-Lan mở túi ra, thì bên trong chỉ có vàng, bạc với ngọc, mà không thấy tiền. Thiên-Ninh cầm lấy túi dốc ra, được mười tám đồng tiền. Ỷ-Lan cầm tiền trao cho người ăn mày. Hai tay y tiếp tiền. Khi bàn tay y chạm bàn tay Ỷ-Lan, nàng cảm thấy một nguồn nội lực chính đại quang minh giống hệt Vô-ngã tướng thiền công của nàng... từ người y truyền vào người nàng. Kinh hãi, nàng vội vận công chống lại, nhưng không kịp nữa, Thiền-công của người ăn mày chạy khắp cơ thể. Nàng cảm thấy khoan khoái kỳ lạ. Biết người ăn mày không có ác ý, Ỷ-Lan buông lỏng kình lực. Chỉ trong vòng năm tiếng đập tim, y thu công lại, bỏ tiền vào túi.



Người ăn mày móc trong bị ra hai con rồng bằng sứ, lớn bằng bắp chân, hai tay dâng lên cho Ỷ-Lan:



– Biếu cô đấy! Rồng bố với rồng con cùng bay xuống Đại-Việt. Rồng bố bay trước, rồng con bay sau. Chẳng may rồng bố bị mãng xà phun khói độc che mất, nên rồng con bị lạc. Tôi thấy chúng bơ vơ, bắt bỏ bị bấy lâu. Nay mây mù mãng xà được Hằng-Nga quét đi, tôi trả rồng con lại để phụ tử đoàn tụ.



Mỗi lời nói của người ăn mày đều bao hàm ý tứ sâu sa. Nhà vua hiểu rằng: đúng số mệnh, ngài đã có hoàng nam, nhưng vì Hoàng-hậu cùng kẻ gian đầu độc các phi tần nên Thanh-y đồng tử chưa đầu thai được. Nay có Ỷ-Lan, thì chắc chắn ngài sẽ sinh hoàng nam.



Ỷ-Lan đưa tay tiếp hai con rồng. Dưới ánh trăng, nàng nhìn rõ: hai con rồng làm bằng sứ Bát-tràng cực kỳ tinh vi.



Người ăn mày nói với công chúa Thiên-Ninh:



– Bà là người giữ kho của vua đấy à? Này bà chúa kho, đồng rụng, đồng rơi của bà, nhưng là tài sản lớn vô cùng của kẻ khó đấy.



Câu nói của người ăn mày làm nhà vua với Ỷ-Lan đã nhận ra chân tướng của y: y chính là Khất hòa thượng, tức thiền sư Minh-Không tái thế, từng ngăn đường trêu ghẹo cháu tể tướng Dương Đạo-Gia, lần khác coi số Tử-vi cho Ỷ-Lan, và hôm ở chùa Tiêu-sơn đã dùng Thiền-công trị độc cho nhà vua.



Ghi chú,



Phải. Người ăn mày đó chính là Minh-Không Bồ-tát tái đấu thai, sau này ngài trị bệnh cho vua Lý Thần-tông, được phong là Quốc-sư. Lời nói đùa của một vị Bồ-tát, nên trở thành linh ứng kỳ lạ. Trong cuộc đánh sang Tống, cùng chống Tống xâm lăng, công chúa Thiên-Ninh phụ trách toàn bộ việc thu góp lương thảo, tổ chức kho đụn. Binh tướng gọi bà là bà chúa kho. Sau khi tuẫn quốc ở trận Như-Nguyệt, công chúa rất thiêng. Ai thành tâm đến đền thờ công chúa cầu tài đều được.



Ỷ-Lan vội cung tay:



– A-di-đà Phật, thì ra Khất đại sư. Đệ tử là Yến-Loan xin ra mắt đại sư phụ.



Nhà vua cũng tiến lên hành lễ. Trong khi xung quanh, nào cung nga, nào thái giám, nào thị vệ cùng quỳ gối đỉnh lễ ngài. Khất hoà thượng đứng lên lột cái khăn trên đầu, lập tức hiện ra một khuôn mặt từ ái, miệng như cười mà không phải cười.



Bây giờ Ỷ-Lan mới hiểu tại sao Tây-hồ thất kiệt thoáng thấy Minh-Không bồ tát đã cung cung, kính kính chắp tay đứng xung quanh ngài. Thì ra chúng gần ngài lâu ngày, biết ngài hay giả ăn mày, nên chỉ thoáng một cái chúng nhận ra ngài, mà không dám nói thực chân tướng ngài cho nàng.



Khất đại sư thuyết pháp. Tiếng của ngài trong, cao, rất rõ ràng. Ngài giảng về cái nghiệp quả của nhà Phật. Sau khi giảng xong, ngài nhìn vào mặt Nguyễn Bông mà kết luận:



– Xung quanh ta đây thiếu gì những trái chủ đòi nợ lẫn nhau. Người này gây quả, người khác đòi. Thù oán chồng chất biết bao giờ hết? Sao bằng xóa bỏ đi là hơn!



Nói xong, ngài nhấp nhô mấy cái, đã biến mất trong đám đông. Nhà vua cùng Ỷ-Lan hướng theo ngài lễ ba lễ.



Xa giá nhà vua đã về tới cung Ỷ-Lan. Yên-vương phi Thiếu-Mai hỏi Ỷ-Lan:



– Thế nào? Minh-Không bồ-tát dồn Thiền-công trị bệnh cho phu nhân, phu nhân thấy sao?



Nhà vua hỏi:


– Đa tạ sư thúc. Trong lúc đấu kiếm, mồ hôi cháu thoát ra còn hơn tắm nữa.



Thường-Kiệt ban lệnh cho thị vệ, cung nga, thái giám, ai về cung người ấy. Còn Đinh Hiền, ông truyền mang trao cho Khu-mật viện lấy khẩu cung.



Không thấy Thượng-Dương hoàng hậu, nhà vua hỏi công chúa Thiên-Ninh:



– Mẫu hậu đâu rồi?



– Tâu phụ-hoàng, người sang cung Thiên-Cảm vấn an Thái-hậu.



Nhà vua đầy vẻ lo lắng nói với Thiếu-Mai:



– Sư thúc! Cháu dám cản gan thỉnh sư thúc sang cung Thiên-Cảm chẩn mạch cho hoàng-hậu. Cháu nghĩ lại, tự cảm thấy mình có điều không nên không phải với hậu. Cháu hối hận, vì suốt mười mấy năm sống với hậu, mà cháu không hiểu hậu tý nào cả. Nguyên do bởi ông, bác của hậu làm càn, nên cháu luôn nghi ngờ hậu. Người xưa nói: khi nhà có sự mới biết con hiếu, khi nước có biến mới biết tôi trung. Hôm nay gian tế lộng hành, dù biết rằng võ công mình thua đối thủ xa, hậu cũng dám rút kiếm ra bắt nó. Đến khi bị cầm tù, cái chết cầm chắc trong tay, hậu vẫn khảng khái chịu tuẫn quốc. Hỡi ơi! Cháu thực có lỗi với hậu.



Thiếu-Mai nhìn Ỷ-Lan, Thiên-Ninh, rồi bà lắc đầu thở dài. Nhà vua kinh ngạc hỏi:



– Sư thúc có gì lo lắng vậy?



– Không phải tôi lo lắng, mà sợ hãi nữa. Than ôi! Bệ hạ đã đến tuổi bốn mươi, cai trị thiên hạ cả chục năm qua, mà sao lại thiếu tinh tế như vậy nhỉ? Nếu đúng như bệ hạ luận ban nãy, thì sao bệ hạ có thể phân được kẻ trung người nịnh, giữ vững sự nghiệp tổ tiên?



Nhà vua giật mình, vì từ trước đến nay Thiếu-Mai luôn thanh thản, ôn nhu, chưa bao giờ phiền trách ai. Thế mà nay bà đưa ra lời cảm thán chỉ vì mình. Ngài hỏi lại:



– Xin sư thúc dạy rõ hơn một chút cho cháu hiểu ra lẽ.



– Tôi đã nghe nói nhiều về việc Dương hậu vô tình, bạc nghĩa với bệ hạ. Từ trước đến giờ những việc xẩy ra tại Hoàng-thành bà thường ôm gối lãnh đạm. Thế mà hôm nay, gian tế đang bị chó, thị-vệ bao vây. Bà muốn bắt y, thì chỉ cần hô một tiếng. Tại sao bà lại mạo hiểm vô lý như thế? Đó là một điều đáng ngờ. Võ công bà bình thường nhưng cũng thừa biết võ công gian tế cực kỳ cao thâm, vậy mà bà lại xông vào trận. Đó là hai điều đáng ngờ. Từ xưa đến giờ có bao giờ hậu mặc võ phục, đeo hộ tâm kính đâu? Có bao giờ hậu luyện võ trong đêm đâu? Thế mà sau tiếng báo động, hậu xuất hiện đầu tiên, ngay tức thời với võ phục, lưng đeo kiếm, nai nịt cẩn thận. Chứng tỏ hậu mặc võ phục từ trước, tức là biết trước có gian tế. Đó là ba điều đáng ngờ. Lại đến khi gian tế ra chiêu Tuyết-lạc sơn lĩnh, đánh thẳng về trước, đáng lẽ hậu phải xỉa kiếm vào giữa chưởng của y, thì lại vòng kiếm xuống dưới. Gian tế ra chiêu Tuyết-ủng sơn đầu, để hở bên hông trái, thì hậu lại nhảy sang phải, để cho y chụp. Như vậy rõ ràng Hậu cố ý để cho y bắt làm con tin. Đó là bốn điều đáng ngờ. Nếu bệ hạ đặt câu hỏi: tại sao hậu làm thế??? Tại sao??? Thì biết ngay.



Nghe Thiếu-Mai phân giải, không những mồ hôi nhà vua vã ra như tắm, mà chính Thường-Kiệt cũng rùng mình. Ông than thầm:



– Nghe tiên-nương nói, dường như hoàng-hậu có dính vào việc ám toán Ỷ-Lan. Nay tuy cơ thể ta không toàn vẹn, nhưng dù sao, giữa ta và hậu như ngó ý tuy lìa, nhưng tơ vương đâu đã dứt? Ta phải làm sao cứu hậu bây giờ?



Còn nhà vua, ngài than thầm:



– Đúng rồi! Thì ra Dương hậu sai Nguyễn Bông đem thuốc đi ám hại Ỷ-Lan. Có lẽ bà cũng đích thân tham dự vào phần đầu độc, nên mới mặc võ phục. Hoặc bà định vượt Hoàng-thành ra ngoài hội họp sau khi Nguyễn Bông đầu độc thành công. Rồi khi thấy Nguyễn Bông bị bắt, bà giả xông vào bắt y, nhưng thực ra lấy thân mình làm con tin, đế cứu y. Bà thực là xảo quyệt, khi đã biết chắc ta phải tha gian tế để cứu bà, bà còn lên tiếng tỏ ra khẳng khải!



Năm hôm sau, Thái-bảo Lý Thường-Kiệt vào cung Ỷ-Lan diện tấu với Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế, cùng Ỷ-Lan những điều tối cơ mật do Đinh Hiền khai. Nhà vua cực kỳ sủng ái công chúa Thiên-Ninh, nên cuộc diện tấu này có cả công chúa tham dự.



Nội dung như sau:



« Trong cuộc khởi loạn của chư vương, Đinh Hiền giết một đệ tử, bằm mặt nát ra, rồi lấy quần áo của y mặc vào. Cho nên khi quan quân kiểm tra xácgiặc, tưởng y đã chết rồi. Sau đó y cải danh là Nguyễn Bông cùng với ba trưởng lão sống sót Vũ Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Đinh Kiếm-Thương uống máu ăn thề sống chết có nhau. Cả bốn người đều nhận thấy rằng dân chúng Hoa-Việt đã bị giết, bị khốn khổ biết bao năm vì Hồng-thiết giáo; bất cứ ai trong võ lâm Hoa-Việt khi nghe đến tên Hồng-thiết giáo đều kinh tởm, nên không thể nào tái lập giáo được nữa. Vả muốn tái lập giáo thì phải dùng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng khống chế võ lâm. Nhưng phái Đông-a đã chế ra phép phản Chu-sa, nhược bằng còn đem Chu-sa chưởng ra dùng thì có khác gì bưng tính mệnh dâng cho kẻ thù. Lại nữa phái Sài-sơn biết dùng nội lực trị vĩnh viễn Chu-sa độc chưởng cùng thuốc cấp thời để bệnh không phát trong một năm. Thuốc này bán tại khắp các dược phòng.



Nhưng phàm những người học Hồng-thiết kinh rồi, đều tham quyền cố vị, muốn áp đảo chúng nhân, muốn làm cho người người đều kinh sợ mình, nên bốn người sang Trung-nguyên tìm đến phái Trường-bạch để trao đổi võ công. Phái này cũng đang bị võ lâm Trung-quốc săn đuổi khốn khổ vô cùng. Thế là đôi bên họp nhau hợp hai thứ võ công làm một. Phái Trường-bạch lập tức tái xuất giang hồ gây rung động võ lâm Trung-nguyên. Bốn ma đầu trở về Đại-Việt với ý định sao đoạt được quyền, cai trị dân. Giữa lúc đó tể tướng Đương Đức-Thành đang âm mưu khuynh đảo Lý triều. Cũng đúng vào thời điểm này bọn hiếu chiến trong triều Tống muốn mở rộng Nam biên, đánh Đại Việt.



Thế là ba âm mưu lớn gặp nhau.



Về phía Tống, họ âm thầm dùng kế sách Ngũ-lôi để chiếm Đại-Việt. Họ biết rất rõ tham vọng của Dương gia, của bọn dư đảng Hồng-thiết giáo. Nhưng họ vờ như không biết, để lợi dụng.



Về phía dư đảng Hồng-thiết giáo, Đinh Kiếm-Thương, Vũ-Chương-Hào, Lê Phúc-Huynh, Đinh Hiền cũng biết rõ âm mưu Tống cùng gian ý của họ Dương. Họ quyết định trà trộn vào Dương phủ, nắm võ sĩ, nắm cận vệ, nắm gia tướng; với Tống, họ cho đệ tử ứng tuyển vào làm tướng trong các đạo quân Nam thùy; với Chiêm, họ lộng hành hơn. Họ đem những kiến thức về kinh-tế, canh-nông, giáo-dục, tổ chức binh bị của Tống của Đại-Việt ra giúp Chiêm, xúi Chiêm bỏ Đại-Việt theo Tống. Hay đâu, họ vào Chiêm mới biết con trai, con gái của giáo chủ Nhật-Hồ là Trần Đông-Thiên, Trần Quỳnh-Giao, tiềm ẩn ở đây từ lâu. Hai người thu đệ tử, tái lập Hồng-giáo, gây cơ sở rất vững chắc. Anh em Đông-Thiên đã phong cho năm đệ tử làm ngũ-sứ, mười đệ tử làm kỳ chủ. Hồng-thiết giáo cho người khống chế các trang trưởng, động trưởng người Việt, tổ chức Việt kiều trong mỗi trang thành một Hồng-hương. Bốnngười thấy nếu mình chỉ được triều đình Chiêm tín nhiệmmà không nắm được khối một phần ba dân Việt ở đây thì cũng vô ích. Chúng hội nhau với Đông-Thiên bàn chuyện thống nhất. Thế là Hồng-thiết giáo tộc Việt được tái lập. Đông-Thiên vẫn làm giáo chủ, Quỳnh-Hoa làm phó giáo chủ. Vũ Chương-Hào làm tả hộ giáo, Đinh Kiếm-Thương làm hữu hộ giáo. Lê Phúc-Huynh làm giáo chủ Đại-Việt, Đinh Hiền làm giáo chủ Quảng-Đông. Chủ trương của Hồng-thiết giáo là tìm cách đoạt ngôi vua Chiêm, vua Việt. Tại Chiêm, họ xui Chiêm vương gây hấn với Đại-Việt. Đinh Kiếm-Thương làm Đại-tư mã, y sẽ tìm cách xua hết binh tướng ưu tú của Chiêm ra trận cho Đại-Việt giết. Sau khi hủy lăng tẩm, đốt phá kinh đô Chiêm như thời vua Thái-tông đã làm, tất quân Đại-Việt rút. Bấy giờ Hồng-thiết giáo tung người ra lãnh đạo dân Chiêm « phục thù», tái lập quốc. Họ biến nước Chiêm thành một nước Hồng-thiết giáo. Đối với Đại-Việt họ chờ đợi: khi họ Dương cướp ngôi họ Lý rồi, quân Tống trở mặt kéo sang với ngọn cờ « Hưng diệt, kế tuyệt » hay « phù Lý diệt Dương ». Bấy giờ chúng mới đảo chính hạ họ Dương, kéo cờ đánh xâm lăng giống như Lê Hoàn hồi trước. Dĩ nhiên đứng trước cái họa ngoại xâm, võ-lâm, dân chúng Việt cùng nổi dậy, chịu dưới quyền lãnh đạo họ. Sau khi thắng Tống, họ đương nhiên thành anh hùng, hỏi ai dám chống đối? ại-Việt sẽ thành một nước Hồng-thiết nữa.



Còn về phiá Dương gia, họ mưu đồ cướp ngôi nhà Lý như sau: nội bộ, nhờ Thiên-Cảm hoàng hậu nắm thị-vệ, cung nga phía trong, Dương Đức-Thành làm tể tướng bên ngoài kết nạp văn vũ làm phe cánh. Họ âm thầm làm gian tế cho Tống, với ước vọng: sau khi cướp ngôi, Tống phong cho Dương Đức-Thành làm Nam-bình vương. Để thực hiện, Dương phủ tuyển mộ võ sĩ làm gia tướng. Đinh Kiếm-Thương, Đinh Hiền đổi tên ứng thí. Dĩ nhiên với bản lĩnh những bọn mãi võ giang hồ thì địch sao lại hai người này? Thế là hai người trở thành gia-sư của Dương Đức-Thành. Khi con gái Dương Đức-Thành được tấn phong hoàng-hậu, bà lấy quyền đem Đinh Hiền tức Nguyễn Bông giả làm thái-giám vào hầu hạ trong cung Thiên-Cảm, để làm chân tay. Đinh Kiếm-Thương thì âm thầm huấn luyện võ sĩ phủ tể tướng.



Vì vụ án Bắc-ngạn xẩy ra (xin xem Anh linh thần võ tộc Việt của Yên-tử cư-sĩ), âm mưu họ Dương bị bại lộ. Đinh Kiếm-Thương được họ Dương gửi sang Chiêm, giúp vua Chiêm luyện quân. Thương thành công. Y giúp Chế Củ đoạt ngôi vua, tổ chức cho Củ một đạo quân hùng mạnh, về kinh tế thì quốc sản súc tích.Chế Củ tôn y làm quốc-phụ, tước Cửu-chân vương. Tại Thăng-long chỉ còn Đinh-Hiền với cái tên Nguyễn Bông. Nhờ có kiến thức, cùng võ công, Đinh Hiền trải hai mươi mấy năm qua, dần dần y lên tới nhập-nội đô-tri rồi Bắc-ban chỉ-hậu rồi chi-hậu nội-nhân, tước tới hầu.



Sau khi Dương Đức-Thành bị cách chức, họ Dương tuy có mất quền, nhưng Thiên-Cảm hoàng hậu trở thành Thiên-Cảm thái hậu. Cháu của bà thành Thượng-Dương hoàng hậu. Phe Dương lại hưng thịnh lên, lại kết hợp với Tống, với Chiêm, định cướp ngôi. Rồi Dương-đạo-Gia leo lên tới chức tể tướng.



Đám Hồng-thiết giáo quyết định đổi kế hoạch: trong lúc họ Dương làm gian tế cho Tống để mưu cướp ngôi vua, thì Nguyễn Bông chờ đợi khi nhà vua đemquân Nam-chinh, y báo hết quân tình cho Chiêm, cuộc chiến sẽ kéo dài, quân trong nước gửi hết ra mặt trận. Nguyễn Bông cùng hoàng-hậu tổ chức binh biến, chiếm Hoàng-thành. Thái-hậu sẽ họp quần thần, truất phế nhà vua, lập một ấu quân lên thay. Bà đương nhiên buông rèm thính chính, bấy giờ bà sẽ loại hết những quan lại trung thành với triều Lý, bước cuối cùng là các quan sẽ truất phế ấu quân, tôn Dương Đạo-Gia lên thay.



Dĩ nhiên Dương lên thì Tống cũng sẽ kéo quân sang « Phù Lý, diệt Dương », bấy giờ đám Hồng-thiết giáo nắm quyền quân sự, hạ Dương xuống, phất caongọn cờ chống ngoại xâm... Âm mưu của họ tưởng đâu sắp thành, thì bị Ưng-sơn song hiệp, bị Mộc-tồn hòa thượng, bị Ỷ-Lan khám phá, phe Dương kẻ bị giết, người bị tù. Cuối cùng chân tướng y với Dương hậu bị lộ. Hy vọng cuối cùng của họ Dương với y là mong sao cho nhà vua không con, chờ khi nhà vua Nam chinh, là y với Thái-hậu tổ chức chính biến, truất phế ngài về tội không con, lập ấu quân lên thay. Chính vì lẽ đó, y với Dương hậu tìm đủ cách đánh thuốc độc Ỷ-Lan cùng các phi tần được nhà vua sủng ái. Hôm rồi y định bỏ thuốc vào nước tắm Ỷ-Lan thì bị bắt ».



Nghe Thường-Kiệt tâu xong, nhà vua suy nghĩ một lúc rồi phán:



– Ở đây có Ỷ-Lan, tiếng là phu-nhân, nhưng thực ra là một đại-học sĩ của trẫn. Thường-Kiệt với trẫm có nghiã vua tôi, có tình bạn học thời thơ ấu thì là gan là ruột của trẫm. Thiên-Ninh là người con trẫm kỳ vọng nhất, sủng ái nhất. Vậy trẫm hỏi thực: trẫm phải đối phó sao với Thái-hậu, Hoàng-hậu?



Ỷ-Lan tâu ngay:



– Bệ hạ miễn cho thiếp phải đưa ý kiến về vụ này. Vì từ khi chưa tiến cung, thiếp đã bị Dương gia hãm hại, lấn áp biết bao phen. Bây giờ chính Thái-hậu, Hoàng-hậu hại thiếp. Bất biết thiếp phát biểu gì, quần thần sẽ dị nghị phân vân.



Nàng chỉ vào Thường-Kiệt, Thiên-Ninh:



– Sơ bất gián thân. Sư huynh tuy có thâm tình với bệ hạ, nhưng đây là việc trong hoàng tộc, người cũng chẳng có thể phát biểu ý kiến. Còn Thiên-Ninh, lại không thể bàn luận vào vụ này. Bởi dù gì Thái-hậu cũng là tổ-mẫu, hoàng-hậu là đích mẫu. Luật bản triều không cho phép con, cháu kết tội người trên. Vậy bệ hạ nên hỏi Quốc-phụ là hơn.



Ỷ-Lan nhìn Thường-Kiệt, rồi mỉm cười một mình. Thường-Kiệt kinh ngạc hỏi:



– Phu nhân, thần có điều gì cổ quái chăng?



– Sư huynh ơi! Muội làm gì dám cười sư huynh. Muội thấy bao nhiêu tội trạng trong vụ này, sư huynh đổ lên đầu bọn Tống, bọn Hồng-thiết hết. Còn Dương hậu thì... vô tội.



Thường-Kiệt kinh hoảng, đưa mắt nhìn nhà vua:



– Phu nhân... phu nhân nghĩ thế thôi, chứ thần đâu có thiên lệch.



Quả tình Thường-Kiệt biết rõ chính phạm là Thượng-Dương hoàng hậu, nhưng nghĩ lại mối tình xa xưa với bà, cũng như những lần trước, ông cố tình lướt qua tội trạng của cố nhân. Ông nghĩ thầm:



– Không lẽ mối tình của mình với Hồng-Hạc xẩy ra khi Ỷ-Lan chưa ra đời, mà sao nàng biết được?



Đến đó, có thái-giám vào tâu:



– Quốc-phụ, Quốc-mẫu giá lâm.



Cả bốn người vội chỉnh đốn y phục, ra khỏi cung Ỷ-Lan, đã thấy Khai-Quốc vương với vương-phi Thanh-Mai vừa xuống kiệu.



Lễ-nghi tất. Trà nước bầy ra.



Trong khi vương phi Thanh-Mai nắm tay Ỷ-Lan, Thiên-Ninh để ngồi bên cạnh bà. Bà vuốt tóc Ỷ-Lan:



– Trời đem Ỷ-Lan cho dân Việt. Ỷ-Lan là học trò của bồ-tát Viên-Chiếu, của vua bà Bình-Dương có khác. Những kế sách cải tổ chế độ tá điền, chủ điền, giảm tô, cấm giết trâu, khai hoang, giảm chi nội cung... lúc đầu thân-vương, quan lại, chủ điền nghị luận, chỉ trích tưởng không thi hành được. Nhưng tá điền, dân nghèo thích lắm. Cái nạn tá điền bị ức hiếp nổi lên giết chủ điền đã tuyệt hẳn. Trên toàn quốc không còn ăn mày nữa.



Bà tát yêu Thiên-Ninh:



– Chà! Cháu gái thực giỏi, phụ hoàng trao cho cháu nhiệm vụ theo dõi kiểm soát việc giảm tô cho tá điền, cấm giết trâu, lại khuyến khích phá hoang. Đi đâu cũng thấy người người ca tụng rằng trên từ các quan, cho tới chủ điền, tá điền đều răm rắp tuân hành. Suốt sáu tháng qua toàn quốc chỉ có ba vụ trộm trâu, nhưng bắt được ngay thủ phạm. Mùa vừa rồi trúng lớn. Nhà nhà lúa đầy cót. Giỏi, cháu giỏi.



Nhà vua hỏi Quốc-phụ:



– Không biết Quốc-phụ quang lâm có điều chi dạy dỗ thần nhi.



Khai-Quốc vương thở dài:



– Thần cầu kiến bệ hạ chỉ vì vụ án Đinh Hiền. Thần thấy các quan có ý hướng muốn xử Thái-hậu như Lã hậu đời Hán, Vũ hậu đời Đường. Thần thấy không thể, và không nên. Chúng ta chỉ xử người để cắt đứt mối nguy hiểm phản loạn. Nay thì mối nguy đó đã bị phá rồi, ta nên xử nhẹ tay thôi. Thiên-Cảm thái hậu là đích mẫu của bệ hạ, lại là người tiên-đế sủng ái cùng cực. Thượng-Dương hoàng hậu là người tiên-đế tuyển cho bệ hạ. Vì vậy thần nghĩ: bệ hạ cho gửi bản cung từ của Nguyễn Bông đến cung Thiên-Cảm, Thượng-Dương. Thái-hậu, hoàng-hậu đọc xong, tự hậu sẽ không dám có hành vi gì khác nữa. Còn Đinh Hiền, hãy đem ra cánh đồng trước chùa Thánh-chúa chém đầu răn chúng.



– Thần nhi tuân chỉ của Quốc-phụ.



Ghi chú,



Sau khi đọc bản cung từ của Đinh Hiền, tức Nguyễn Bông, Thiên-Cảm thái hậu uống thuốc độc tự tử. Bà có để lại một chỉ dụ dặn nhà vua: bao nhiêu tội trạng bà chịu hết, xin ân xá cho Thượng-Dương hoàng hậu cùng thân thuộc họ Dương. Sự kiện này không thấy ghi trong ĐVSKTT đã đành, mà ngay bộ VSL cũng không thấy chép, trong khi QTNC và TTCTGCK lại chép rất chi tiết. Có lẽ nhờ vào vị thế làm nguyên soái đánh Đại-Việt, nên Quách Quỳ, Triệu Tiết được đọc tất cả các văn kiện mật của Khu-mật viện Tống, mà biết chi tiết này.



Còn Nguyễn Bông thì VSL không ghi, ĐVSKTT chép như sau:



...Qúy-Mão (Chương-thánh Gia-khánh thứ năm), Tống Gia-hựu năm thứ tám (1063). Bấy giờ nhà vua tuổi đã cao, bốn mươi mà chưa có con trai nối dõi. Ngài sai chi-hậu nội-nhân Nguyễn Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa, sau đó Ỷ-Lan phu nhân có thai, sinh thái tử Càn-Đức tức vua Nhân-tông. Thế truyền... Vua muốn có con trai, sai Bông cầu tự ở chùa Thánh-chúa. Nhà sư dạy cho Bông thuật đầu thai thác hóa. Bông nghe theo. Việc phát giác, đem chém Bông ở trước cửa chùa. Người sau gọi chỗ ấy là đồng Bông. Chùa ở xã Dịch-vọng, huyện Từ-liêm. Đồng Bông ở phía Tây trước cửa chùa, nay hãy còn (hiện thuộc huyện Từ-liêm, Hà-nội)...



Vì sử chép quá vắn tắt, nên người sau thắc mắc rằng: vua Thánh-tông nổi tiếng là một nhân quân, việc Nguyễn Bông thác hóa làm con ngài, thì là việc y tỏ lòng hiếu kính với ngài, mà tại sao ngài lại sai chém y?



Còn thần tích Ỷ-Lan lại chép thêm:



«...Nhà sư Đại-Điên (ghi chú: Đinh Kiếm-Thương đi tu, pháp danh là Đại-Điên) ở chùa Thánh-chúa bảo Bông trở về nấp trong buồng tắm Ỷ-Lan. Một hôm Ỷ-Lan tắm thì bắt được Bông còn ẩn trong buồng. Vua Thánh-tông sai đem Bông đi chém. Khi qua chùa Thánh-chúa, Bông xin vào chùa để trách sư. Sư cười trả lời: Nếu không hủy thân này thì sao đầu thai được. Bông hiểu mưu của sư, và vui vẻ chịu chết...»



Tất cả sự thực vụ này, chỉ độc giả Nam-quốc sơn hà là biết rõ từng chi tiết mà thôi.