Nam Quốc Sơn Hà

Chương 20 : Thái-tử Càn-đức

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ bẩy, mùa Xuân tháng giêng ngày 26; bên Tống là niên hiệu Trị-bình năm thứ ba đời vua Anh-tông (1066). Khắp giải đất Đại-Việt đều như rung động lên. Vì pháo nổ, pháo thăng thiên, ngựa phi, trống đánh, chuông khua. Trên đường phố ngựa trạm chạy như bay để đem chỉ dụ đến các trấn, các châu, các quận khẩn cấp. Trong chỉ dụ, nhà vua loan báo cho toàn dân biết, Ỷ-Lan phu nhân sinh hoàng nam. Chiếu chỉ gồm ba điều chính: một là mở rộng nhà tù đại xá thiên hạ, bất kể tội đã thành án hay chưa. Hai là xá thuế một năm, cùng tha thuế cho những người nợ từ những năm trước. Ba là kể từ ngày 25 tháng giêng giờ Hợi, cải nguyên là Long-chương Thiên-tự thứ nhất.



Khắp các đền, chùa, miếu mạo đều tổ chức lễ tạ Trời, Phật, chư Liệt-tổ Đại-Việt, Tiên-hoàng triều Lý đã cho nhà vua một hoàng nam.



Rồi những huyền-thoại về thái-tử Càn-Đức được người người thi nhau kể:



«... Đêm 25 tháng giêng, giờ Hợi, vô tình tôi ra sân nhìn trời, thì thấy hào quang sáng rực, có tiếng nhã nhạc vang lừng, mùi hương thơm ngào ngạt. Rồi từ cõi trời cao thăm thẳm, Thanh-y đồng tử đang cỡi con rồng vàng, có hàng trăm hàng nghìn thiên binh, thiên tướng bay theo phò tá. Rồng vàng đáp xuống cung Ỷ-Lan trong Hoàng-thành. Đúng giờ đó Ỷ-Lan phu nhân sinh hoàng nam. Mô Phật, thì ra Thái-tử giáng sinh đúng như giấc mộng hai mươi năm trước của Hoàng-thượng. Thái-tử là người nhà trời, thì sau này sự nghiệp thực không nhỏ. Nghe đâu người đỡ đẻ cho Ỷ-Lan phu nhân là tiên-nương Lê Thiếu-Mai...”



Ngay ngày hôm sau, nhà vua đặt tên hoàng tử là Càn-Đức, ngài ban chỉ phong cho hoàng tử làm hoàng-thái tử. Ỷ-Lan phu nhân được phong làm Ỷ-Lan thần phi. Thái-tử Càn-Đức trán dô, mặt rồng, tay dài quá gối.



Các sử gia đã phê bình ngài như sau:



Đại-Việt sử ký toàn thư:



«...Vua trán dô, mặt rồng, tay dài quá gối, sáng suốt thần võ, trí huệ hiếu nhân, nước lớn sợ, nước nhỏ mến, thần giúp, người theo, thông âm luật, chế ca nhạc, dân được giàu đông, mình được thái bình, là vua giỏi của triều Lý...»



Nguyên văn:



«... Đế nhật giác, long nhan, thủ thụy quá tất, minh triết thần võ, duệ trí hiếu nhân, đại úy, tiểu hoài, thần trợ nhân ứng, thông âm luật, chế nhạc ca, tục chúng, phú thứ, thân chí thái bình, vi Lý triều chi thịnh chúa...»



(Đại-Việt sử ký toàn thư, Lý kỷ, Trần Kinh-Hòa chú giải, Đông-kinh đại học Đông-dương văn hóa nghiên cứu sở, xuất bản tháng 3 năm 1959, trang 1156).



Việt-giám thông khảo của Lê Tung:



«...Nhân-tông tính trời nhân hiếu, có tiếng đức tốt. Trọng kén chọn danh thần, đặt khoa thi tiến sĩ, có quan hầu kinh diên, xuống chiếu mở đường nói, cầu người hiền, nghe lời can, nhẹ thuế khoá, ít phu dịch, cho nên thân được hưởng thái bình, dân trở lên giầu thịnh, đáng gọi là bậc vua giỏi nối đời thái bình vậy...»



Nguyên văn:



«...Nhân-tông thiên tư nhân hiếu, xưng vi thịnh đức. Trọng danh thần chi tuyển, trí tiến sĩ chi khoa, thị kinh diên chi hữu kỳ quan, khai ngôn lộ chi hữu kỳ chiếu, cầu hiền nạp gián, bạc phú khinh dao, cố năng thân chí thái bình, tục trần đọan phú, túc vi thừa bình chi lệnh linh chúa dã...»



(Lê-Tung, Việt-giám thông khảo, mùa Thu năm Giáp-Tuất, niên hiệu Hồng-Thuận thứ 6 (1514), Trần-kinh-Hòa chú giải, sách đã dẫn trên trang 88).



Xin mời độc giả hãy cùng thuật giả xét số Tử-vi của thái-tử Càn-Đức, sau là vua Lý Nhân-tông, một vị vua thông thái, có máu nghệ sĩ; trong cai trị làm cho dân giầu, hạnh phúc; ngoài ngài đánh Tống, bình Chiêm, lập chiến công huy-hoàng nhất trong lịch-sử Đại-Việt.



Mệnh lập tại Mão, vô chính diệu, Đào-hoa, Thiên-hỉ thủ mệnh, ngộ Tuần. Đào-hoa thì nước da trắng, Thiên-hỉ thì nước da hơi hồng. Như vậy da trắng hồng, tươi thắm, đẹp trai. Đào, Hỉ thì vui vẻ, dễ tính; nếu không là họa sĩ, thì cũng là thi sĩ, nhạc sĩ. Sử chép ngài rất giỏi âm nhạc, đã sáng tác nhiều ca khúc. Tiếc rằng thất truyền.



Cung quan Thiên-đồng, Cự-môn ngộ Hóa-lộc. Cung tài Thiên-cơ, ngộ Văn-xương, Hóa-quyền, Hóa-khoa. Quyền ở cung tài chủ tiêu tiền rất rộng rãi. Khoa, Xương ở tài chủ dễ kiếm tiền, và cho tiền người dễ dàng. Như thế thời ngài cai trị, nước Việt giầu có súc tích cũng phải. Ngài lại dễ dàng trong việc ban thưởng cho công thần. Cung Thiên-di, Thiên-hình miếu địa, ngộ Thái-dương, Thiên-lương. Tử-vi kinh nói: ”Thiên-hình Dần, Thân, Dậu, Tuất thủ mệnh hoặc cư di, đắc cách anh hùng cái thế, tính trầm ngâm, mưu trí tuyệt vời”. Tuy nhiên Thái-dương tượng trưng cho cha, Hình tượng trưng sát phạt, thương đau. Tuần, Triệt ở mệnh chủ thời thơ ấu khổ sở; trong số của ngài Hình ngộ Thái-dương ở Di, thêm mệnh ngộ Tuần nên phụ hoàng sớm quy tiên. Tất cả việc giáo huấn của ngài do Ỷ-Lan thần phi cả. Có thể nói, Ỷ-Lan thần phi là người tạo ra xác và hồn của vua Nhân-tông.



Theo cổ lệ của tộc Việt, khi đứa trẻ đầy năm, được cha mẹ tổ chức cho một lễ mừng, để cúng ”mụ”. Mụ là một bà thần dạy dỗ đứa trẻ từ ăn, uống, ngủ, cười, đi, đứng. Sau lễ, đứa trẻ được thử xem lớn lên sẽ có năng khiếu gì. Lễ này rất quan trọng.



Thời gian trôi mau như ngựa câu qua cửa sổ. Thoáng một cái, Càn-Đức đã đầy năm. Bấy giờ đã sang năm Long-chương Thiên-tự thứ nhì (1067).



Lễ mừng thái-tử Càn-Đức đầy năm được tổ chức cực kỳ long trọng tại điện Càn-Nguyên. Chính nhà vua, hoàng-hậu, Ỷ-Lan đứng ra làm lễ. Hoàng thân, quốc thích, công chúa, phò mã đều phải tới tham dự. Còn các quan, bao gồm tất cả đại thần. Thành ra số người dự tới trên năm trăm.



Sau khi nhà vua lễ tạ liệt tổ Đại-Việt như vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng... tiên đế Lý triều. Ỷ-Lan thần-phi bế thái-tử Càn-Đức đặt lên chiếc sập chạm rồng, xung quanh sập chỉ nhà vua, hoàng hậu, các bà phi, công chúa mới được đứng gần. Thường-Kiệt là nghĩa tử của nhà vua, nên cũng được đứng vòng trong sát sập. Trên sập để sách của Nho-gia, kinh Phật; bút nghiên, kiếm cung, đàn sáo, nông cụ, vàng bạc, sỏi đá v.v. Tùy theo thái-tử chọn thứ nào, người ta suy ra tương lai của Càn-Đức. Việc chọn lựa này cực kỳ quan trọng. Trăm quan, dân chúng căn cứ vào đó mà biết tương lai đất nước.



Giây phút quyết định, liên hệ đến vận mạng Đại-Việt đang chờ đợi. Hàng nghìn con mắt đều hướng vào Càn-Đức. Trong điện có hơn năm trăm người, mà không một tiếng động.



Tục ngữ Việt tộc có câu nói sau đây trong khoa dạy các bà mẹ nuôi con: « Ba tháng biết lẫy, bẩy tháng biết bò, chín tháng lò dò chạy chơi ». Càn-Đức tuy mới một năm, nhưng nhờ di sản cơ thể Ỷ-Lan còn trẻ, lại luyện tập nhiều, nên chín tháng đã biết đi, đầy năm thì chạy chơi rất vững, chạy nhảy, chơi đùa rất nhanh.



Vừa được mẹ để ngồi xuống, là Càn-Đức bò tới đám vật dụng, tay cầm đất, sỏi, đá lên xem, làm Ỷ-Lan phát run. Vì nếu Thái-tử chọn đá đất thì e sau này tài không quá anh thợ cầy, thợ cấy. Nhưng Càn-Đức quan sát ba cục sỏi, đất, đá một lúc rồi lại bỏ vào đúng chỗ cũ. Ỷ-Lan thở phào nhẹ nhõm.



Càn-Đức lại cầm lấy thỏi vàng, thỏi bạc đưa lên ngắm nghía một lát, rồi đứng dậy chạy thẳng tới chỗ chị là công chúa Thiên-Ninh, trao cho công chúa. Thiên-Ninh cầm vàng bạc bỏ vào túi. Càn-Đức ôm lấy cổ công chúa, cười như nắc nẻ. Không ai hiểu ra sao?



Như vậy Càn-Đức vẫn chưa chọn vật gì, tay buông cổ chị bước lại đám vật dụng, từ từ ngồi xuống, bò rất khoan thai lại chỗ để kinh Phật, cầm lấy quyển kinh Kim-cương rồi đứng dậy chạy đến bên Ỷ-Lan, trao cho nàng. Ỷ-Lan vừa tiếp sách, thì Càn-Đức cười khanh khách, rồi cầm lấy thanh kiếm nhỏ đưa lên ngắm nghía, tay chống kiếm đứng nhìn một lượt những người quanh sập, khi thấy Lý-thường-Kiệt thì trở cán trao cho ông. Thường-Kiệt cung kính đỡ kiếm, cúi đầu vái tạ.



Càn-Đức lại đưa mắt nhìn phụ hoàng, các quan, bò đến cầm bộ Luận-ngữ, tay mở ra nhìn, miệng cười khúc khích, cuối cùng cặp sách vào nách rồi chạy lại ôm chầm lấy phụ hoàng.



Nhà vua bế bổng thái-tử lên mà hôn. Thái-sư Lý Đạo-Thành hỏi tiên nương Bảo-Hòa:



– Tiên-nương. Từ xưa đến giờ, đứa trẻ chỉ chọn một thứ trong những dụng cụ bầy ra. Nay thái-tử lại chọn, rồi trao cho người khác. Tiên-nương là người nhà trời, tiên-nương biết rộng, xin tiên-nương ban chỉ dụ.



Công-chúa Bảo-Hòa mỉm cười:



– Từ trước đến giờ, những buổi lễ như thế này thường linh ứng kỳ lạ. Như hồi vua bà Bình-Dương đầy năm, người đã chọn thanh kiếm với viên đất. Nay ứng vào việc người giỏi kiếm thuật, dùng kiếm bảo vệ Bắc-biên. Hồi Thường-Kiệt đầy năm, đã chọn thanh kiếm với cây cung, nay ứng vào việc Kiệt là võ quan bậc nhất của triều đình. Đến Thiên-Ninh, thì Ninh nhi chọn thanh kiếm với thỏi vàng. Nay Ninh nhi võ công cao, lại có tài tổ chức thuế má, canh nông, quản trị quốc sản, tức là ứng vào kiếm với vàng vậy.



Công chúa bồng Càn-Đức lên hôn vào hai má, rồi nói:



– Càn-Đức cầm đất trước tiên, lại bỏ về đúng chỗ cũ, sẽ ứng vào việc trọn đời nhất quyết lấy việc bảo vệ đất tổ làm đầu. Thứ đến trao vàng bạc cho Ninh nhi, có nghĩa sau này Ninh nhi sẽ là bà chúa kho của Đại-Việt như Khất hoà thượng dạy. Càn-Đức trao cuốn kinh Kim-cương cho thần-phi thì ai cũng hiểu rồi, bởi thần-phi luyện Vô-ngã tướng Thiền-công, là yếu chỉ rút trong kinh Kim-cương.



Bà nhìn Thường-Kiệt:



– Hồi Thường-Kiệt mới đầy năm đã ứng việc chọn võ nghiệp. Nay Càn-Đức cầm gươm trao cho Kiệt, thì ứng vào việc sau này khi lên ngôi, Càn-Đức sẽ trao cho Kiệt làm tổng đốc binh mã. Cuối cùng Càn-Đức cầm lấy bộ Luận-ngữ mở ra xem như người biết chữ, chắc chắn sau này Càn-Đức sẽ dùng Nho trị dân.



Mọi người đều vỗ tay. Nhà vua ban yến cho tất cả thân vương, triều đình cùng dự, để gọi là ăn mừng. Ỷ-Lan bế Càn-Đức trên tay, lại cỗ dành cho nàng. Tuy Dương hậu phạm nhiều tội, không được nhà vua đoái tới, nhưng bà vẫn là hoàng-hậu, là đích mẫu của Càn-Đức. Nên trong mọi cuộc yến tiệc bà ngồi bên trái nhà vua. Còn Ỷ-Lan thì ngồi bên phải. Ỷ-Lan bế Càn-Đức đến chỗ ngồi của Dương hậu, khi qua chỗ công chúa Động-Thiên đứng, Càn-Đức ôm lấy cổ chị, không chịu buông ra. Công-chúa Động-Thiên bế em, ngồi vào tiệc.



Nhã nhạc cử bản Thiên-diên (Yến tiệc nhà trời), một trăm nữ ca vũ, vừa múa vừa hát theo dàn nhạc bẩy mươi hai nhạc công:



Thiên húc lệ thiên xương,



Tề vu tự, túc uyên hàng.



Kim lô niểu niểu bích vân hương,
– Tâu bệ hạ, thần thấy giữa hai phe cầm quyền trong triều tuy bề ngoài thăng bằng, nhưng thực ra phe chủ chiến giữ nhiều quyền hơn. Bây giờ thêm các đại thần biên cương, đa số là võ tướng vốn hiếu chiến nữa, thì e rằng phe chủ hòa sẽ bị loại trong sớm tối. Ngược lại phe chủ hòa gồm toàn những danh sĩ, văn gia nổi tiếng, rất được lòng học giới, hương đảng, quần chúng. Thần ước tính, thế nào phe chủ chiến sẽ tìm cách triệt vây cánh phe chủ hòa. Khi họ triệt, dĩ nhiên họ triệt người nào nổi tiếng nhất, để đám kia chùn nhụt. Trong đám đại thần phe này, thì Văn Ngạn-Bác, Âu-Dương-Tu nức tiếng thiên hạ về văn chương, chắc chắn hai người này sẽ bị hại đầu tiên. Trước tình trạng đó, ta phải làm gì?



Ỷ-Lan hướng Khai-Quốc vương vái ba vái:



– Tâu Quốc-phụ, thần nhi nghĩ Đại-Việt ta nên hỏi ý kiến Kinh-Nam vương trước đã. Vì dù sao, vương cũng là viên gạch nối giữa tộc Hoa với tộc Việt. Vương lại nắm vững tình hình Tống hơn ta.



Vua bà Bình-Dương đứng lên, bà lắc đầu:



– Hôm qua, tôi nhận được thư Kinh-Nam vương do thần-ưng mang đến. Vương cũng nhờ tôi thỉnh ý kiến triều đình Đại-Việt.



Khai-Quốc vương gõ ngón tay lên bàn, rồi nói:



– Tôi sợ dưới triều đại Hy-Ninh, Kinh-Nam vương sẽ bị mất hết thế lực. Bởi mặt trận Tây-hạ không còn nữa. Chúa Tây-hạ đã chịu sắc phong, tuế cống triều Tống. Còn mặt trận Liêu, thì Tống chịu khuất phục chúng, giữ nguyên biên giới hiện tại. Tống muốn mở mặt trận phía Nam, thì đời nào dùng vương? Kinh-Nam vương là một đại tướng, khi một đại tướng không cầm quân, thì trở thành thừa thãi, giá trị không bằng bọn văn quan. Với lại bọn văn-quan, võ-tướng muốn gây chiến, đa số chức tước nhỏ, chúng muốn có binh sự để lập công rồi leo lên cao. Nhưng chúng ớn vương, nên phải bới lông tìm vết mà hại vương. Triều đình Hy-Ninh thấy Kinh-Nam vương quá nhiều công lao, họ cũng muốn hạ vương, để dễ gây chiến Nam phương. Hà, không biết vương đối phó ra sao đây?



Ỷ-Lan bàn:



– Có hai điều mà ta nên làm. Một là sao cho Tây-hạ với Tống có chiến tranh, tự nhiên Kinh-Nam vương được trọng dụng. Mặt trận Tây-hạ sẽ hút hết tài nguyên,binh lực Tống. Đại-Việt ta được yên. Hai là, ta làm cách nào để phe chủ chiến hại một trong hai danh sĩ phe chủ hòa thì tự nhiên cái hố chia rẽ sẽ nứt lớn ra ngay. Trong đám này Âu-dương-Tu có danh nhất. Thần đã đọc bài « Thanh thu phú » của ông. Thực là trong văn có nhạc, trong nhạc có văn. Âu bị hạ, tất toàn thể dân Tống bất mãn. Họ sẽ đổ tội lên đầu phe chủ chiến.



Nhà vua hỏi Thường-Kiệt:



– Thái-bảo, Khu-mật viện có ghi chú nhiều về Âu Dương-Tu không?



Thường-Kiệt lúng túng:



– Tâu, từ trước đến giờ Tế-tác của ta chỉ chú ý đến chính sự, binh bị của Tống, mà không mấy chú ý đến các văn gia. Bệ hạ muốn biết về văn nghiệp của Âu, thần sẽ cho Tế-tác sưu tầm. Thần nghe, công chúa Động-Thiên với Thần-phi thường ngâm thi, từ của Âu Dương-Tu, chắc hai vị biết rõ về văn nghiệp của y.



Nhà vua hỏi Động-Thiên:



– Thiên nhi! Văn nghiệp của Âu ra sao?



Công chúa Động-Thiên cung kính tâu:



– Âu Dương-Tu, tự là Vĩnh-Thúc, hiệu là Lục-nhất cư-sĩ, người đất Lư-lăng. Ông sinh vào niên hiệu Cảnh-đức thứ tư đời vua Chân-tông, so với Đại-Việt là niên hiệu thứ 14 (1007) đời vua Lê Ngọa-triều, năm nay sáu mươi mốt tuổi. Mồ côi cha từ năm lên bốn tuổi, học khai tâm với mẹ. Thế truyền, nhà nghèo, ông phải dùng cây sậy viết chữ trên đất mà học. Nổi danh về văn tài ngay từ hồi còn niên thiếu. Đậu tiến sĩ đệ nhất danh niên hiệu Thiên-thánh thứ 8 (1030) đời vua Nhân-tông, so với Đại-Việt là niên hiệu Thiên-thành thứ 3 đời vua Thái-tông. Ông thường kết bạn xướng họa với các danh sĩ như Mai Nghiêu-Thuần, Doãn Thù. Về quan trường, ông không nổi danh bằng văn nghiệp. Nguyên Tống triều lập lên đã trên trăm năm, mà các văn gia vẫn còn chuộng lối ủy mị, yếm thế, than mây khóc gió của đời Lục-triều. Ông cực lực bài bác lối văn này, đưa ra lối văn thực tiễn. Nếu nói Triệu Khuông-Duẫn lập ra nhà Tống, thì có thể nói ông là người tạo ra văn phong, văn khí cho Tống triều. Ông là người cương trực, tiết tháo, chuộng hòa bình, không thích binh sự. Đối với các nước lân bang, ông chủ trương đem văn chương, đạo đức truyền sang để cảm hóa. Các nước nhỏ quy phục, triều cống thì tốt. Nhược bằng họ không chịu, thì để yên. Một lần Phạm Trọng-Yêm bị dèm xiểm, bị biếm. Chư đại thần đều can gián vua. Riêng quan tư gián Cao Nhược-Nặc lại hài tội Yêm, cho rằng phải giáng. Ông viết thư cho Nặc, có câu: « Trên đời sao lại có việc đáng hổ thẹn như thế nhỉ? ». Nặc đem thư ấy tâu lên vua, ông bị biếm ra làm chức huyện lệnh Di-lăng. Sau vì Tần-vương Tự-Mai đem quân đại chiến với Liêu, mà biên sự với Tây-hạ trầm trọng, vương tiến cử Phạm Trọng-Yêm trấn phía Tây. Yêm có ý mời ông theo để cùng lo việc. Ông nói: « Việc tôi làm trước kia đâu có phải mưu lợi cho bản thân mình? Lui thì cùng lui, tiến thì không cùng tiến, thế mới là phải ». Thời bấy giờ sư thúc Trần Tự-Mai đang lĩnh chức Trấn Bắc đại nguyên soái, kiểm-hiệu thái-úy, tước Tần-vương, sau khi thắng Liêu, uy quyền nghiêng nước. Vương hồi triều, vua Nhân-tông đãi yến. Trong yến tiệc, nhà vua hỏi: « Trong tiệc này, ngự đệ thấy điều gì vui nhất ». Vương nói: « Điều thần vui nhất là thấy trong các quan lại có một danh sĩ, nói về trung thì ngang với Vũ hầu đời Tam-quốc; nói về văn thì quá Khuất Nguyên nước Sở; nói về trực ngôn, khí tiết thì Đổng Hồ nước Tấn còn thua xa. Người đó là Vĩnh-Thúc tiên sinh ». Sau đó, sư thúc với công chúa thân tới nhà ông thăm đến ba lần, lại mời ông đến dinh Tần-vương giảng về lịch sử cổ kim. Thời bấy giờ vua dùng bốn đại thần danh tiếng là Đỗ Diễn, Phú Bật, Hàn Kỳ, Phạm-Trọng-Yêm. Ông làm gián quan, mỗi sự ông tâu lên, trung thần danh sĩ đều hài lòng, bọn gian thần thì kinh hồn táng đởm. Bởi khi ông hặc tội kẻ gian nào, mà vua không trị, thì y như bị Ưng-sơn song hiệp trị. Đây là giai đoạn cực thịnh của triều Nhân-tông. Niên hiệu Chí-hòa nguyên niên (1054) ông giữ chức Hàn-lâm đại học sĩ, phụ trách soạn bộ sử Tân Đường-thư đến niên hiệu Gia-hựu thứ năm đời vua Nhân-tông (1060) bộ Tân Đường thư xong, ông được phong Lễ-bộ thị-lang, Hàn-lâm thị-độc học sĩ. Nay ông lên tới Tham-tri chính sự (phó tể tướng) mà triều đình phân làm hai phe, lại chủ gây chiến Nam phương, trong khi ông chủ hòa, thân với Kinh-Nam vương, thì e sự nghiệp của ông không bền.



Đến đó Ưng-binh vào trình cho Thường-Kiệt một ống tre. Thường-Kiệt mở ống tre lấy cuộn giấy ra đọc, rồi trao cho Thân Thiệu-Cực:



– Tin từ Biện-Kinh gửi về cho sư thúc. Xin sư thúc đọc.



Thiệu-Cực cầm thư đọc một lượt, rồi mặt tỏ vẻ hớn hở:



– Tâu bệ hạ, đúng như lời ước tính của công chúa Động-Thiên, phe Hàn Kỳ nhân một lỗi nhỏ, dèm xiểm Âu Dương-Tu; bắt bẻ, kết tội Tu, nên ngày Nhâm-Thân, Tu bị cách chức, đổi đi tri Hào-châu. Ngày Qúy-Dậu, Ngô Khuê được thay thế làm Tham-tri chính sự. Sĩ phu trong nước đều công phẫn. Tin tức đó đến tai Thái-hoàng thái-hậu, bà gọi nhà vua vào cật vấn. Nhà vua đổ tội cho Hàn Kỳ. Hàn Kỳ lại đổ tội cho Vương An-Thạch. Nên An-Thạch bị cách chức đổi đi tri phủ Giang-ninh.



Cả triều đình đều vỗ tay. Công chúa Thiên-Thành tâu lớn:



– Cái chí của Hy-Ninh hoàng đế là tạo ra một triều đình chặt chẽ, một lòng, tướng sĩ ngoài biên thương yêu nhau. Nhưng chỉ mới được ba tháng, mà hai phe đã đá nhau hai cước chí tử. Phe chủ chiến đá phe chủ hòa. Ngay trong phe chủ chiến cũng bôi mặt đá nhau, vì Hàn Kỳ hy sinh Vương An-Thạch.



Thiệu-Cực tiếp:



– Tháng tư, ngày Bính-Dần, Ngự-sử trung thừa Vương Đào, Thị-ngự-sử Ngô Thân, Lã Cảnh dâng sớ hạch tội tể tướng Hàn Kỳ chủ mưu đưa Ngô Khuê lên, mà hủy Âu Dương-Tu, lời lẽ nặng nề. Phe Hàn Kỳ dùng số đông áp đảo, cho rằng quan ngự-sử mạ lỵ tể tướng. Kết quả Vương Đào bị đổi đi Trần-châu. Thân, Cảnh bị phạt tiền thực nặng. Còn Ngô Khuê bị bãi chức, đổi đi tri Thanh-châu. Y chưa kịp lên đường, thì phe Hàn Kỳ lại vận động, sáu ngày sau y được phục chức.



Quan Lễ-bộ tham-tri Quách Sĩ-An (thầy đồ Thái) bàn:



– Vương Đào là thầy của Hy-Ninh hoàng đế, còn Ngô Thân, Lã Cảnh là hoạn quan, rất thân tín của Cao thái hậu. Như vậy thì phe Hàn Kỳ hỏng mất rồi, vì đụng tới nhà vua, tới Thái hậu; rồi Vương An-Thạch thù hận, thì e Hàn, Ngô khó ngồi lâu. Bây giờ chúng ta đang ở tháng 8, thần xin bệ hạ chuẩn cho Khu-mật viện làm cách nào đào sâu hố chia rẽ giữa phe hòa, phe chiến; phe chiến với phe chiến; phe hòa với phe hòa; làm chậm kế hoạch Nam xâm. Trong khi đó, ta phải tìm kế hoạch phá Ngũ-lôi của Tống.



Khai-Quốc vương nhìn Sĩ-An gật đầu tán thưởng:



– Quách tham tri luận đúng. Khu-mật viện sẽ làm những điều đó.



Nhà vua hỏi:



– Với kế Ngũ-lôi của Tống, ta phá như thế nào?



Ỷ-Lan hướng vào Thường-Kiệt:



– Xin sư huynh nhắc lại kế hoạch Ngũ-lôi của Tống một lượt.



– Kế hoạch Ngũ-lôi của Tống như sau: một là chia rẽ phe Dương, phe Mai. Chia rẽ phe văn với phe võ. Chia rẽ giữa các môn phái. Chia rẽ giữa triều đình với nội cung. Chia rẽ nội thích với ngoại thích. Hai là gây nội chiến. Ba là dùng người Hoa làm nội ứng. Bốn là giúp gian thần cướp ngôi. Năm là dùng Chiêm đánh phía sau lưng ta. Bấy giờ Tống mới đem quân qua.



Lại-bộ tham-tri Trần Trọng-San, năm trước đi sứ Tống điếu tang vua Nhân-tông, ông làm bài văn tế lời lời thanh tao, được các văn thần Tống khen văn ông không thua Khuất Nguyên, tặng cho ông danh hiệu « Kế tục văn phong Khuất-Nguyên ». Trở về Đại-Việt, ông được tứ quốc tính Lý, vua đồng ý cho gọi ông là Lý Kế-Nguyên. Ông tâu:



– Theo thần, thì nhát búa thứ nhất này trở thành búa giấy mất rồi. Bởi sự chia rẽ giữa Mai với Dương không còn. Giữa văn với võ thì kể từ bản triều kế chính thống đến nay chưa từng có. Trước họ định chia rẽ phái Đông-a với triều đình, với võ lâm, nhưng ta đã khám phá ra, hóa giải xong. Còn giữa triều đình với nội cung, giữa nội thích với ngoại thích, từ sau vụ án Trịnh Quang-Thạch, Dương Đạo-Gia đâu có còn nữa? Ta không sợ nhát búa này.



Triều đình vỗ tay hoan hô.



Kế-Nguyên tiếp:



– Tuy nhiên, âm mưu chiếm nước ta của người Hoa nó như con đỉa cắt làm đôi; không những nó không chết, mà lại biến thành hai con đỉa mới. Điều quan trọng nhất của chúng ta là phải nhớ lời vua Trưng: vua thương yêu dân, coi dân như con. Các quan đối với nhau như ruột thịt. Vua, quan phải nhớ rằng, làm vua, làm quan là được trời trao nhiệm vụ lo cho trăm họ, chứ không phải ngồi trên đầu trên cổ trăm họ mà hưởng thụ. Điều này Đại-Việt ta duy có triều Ngoạ-Triều là không xứng mà thôi. Còn các triều đại khác đều lấy nằm lòng. Cái vũ khí giữ nước của ta là « trăm người như một, trăm nhà như một, trăm làng như một ». Cái hy vọng của Tống, xui một gian thần cướp ngôi, rồi có nội chiến, nay không thể xẩy ra được. Như vậy nhát búa thứ nhì cũng là búa giấy rồi.



Nhà vua nhíu mày lại, rồi hỏi:



– Cái khó khăn của ta nhất là nhát búa thứ ba. Điều này, thời Lĩnh-Nam, Hán đã dùng để đánh mình. Triều đình Lĩnh-Nam không giải quyết được, đó là việc dùng người Hoa làm nội ứng, làm Tế-tác. Từ mấy nghìn năm nay đoàn ngũ người Hoa tuy sống ở đất Việt, được hưởng đủ thứ ưu đãi, họ trở thành giầu có súc tích. Thế mà mỗi khi giữa ta với Trung-nguyên có chuyện, là họ làm nội ứng đánh từ trong đánh ra. Vậy chư khanh có ý kiến gì về việc này?