Nam Quốc Sơn Hà

Chương 33 : Linh-nhân Hoàng Thái Hậu

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Niên hiệu Thái-Ninh thứ nhì (1073), mùa Xuân, tháng Giêng, vua bà Bắc-biên Thiên-Thành, phò mã Thân Cảnh-Long từ Lạng-châu về Thăng-long xin thiết Tinh-triều để tường trình về tình hình Tống.



Thái-sư Lý Đạo-Thành cho triệu tập thân-vương, đại-tư-mã, lục bộ thượng thư, quản Khu-mật viện, đô-đốc thủy-quân, tổng-trấn Thăng-long, tổng quản ngự-lâm quân, tổng-quản thị-vệ, các tướng chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh, đạo kị-binh Phù-đổng. Vì cuộc thiết triều có liên hệ tới tình hình an-ninh nên Long-thành ẩn-sĩ cùng phu nhân được mời tham dự.



Linh-Nhân hoàng thái-hậu, Thái-Ninh hoàng đế từ trong điện Càn-nguyên đi ra. Nhạc tấu bản Long-thọ. Nhạc dứt, thái-sư Lý Đạo-Thành cung tay:



– Tâu Thái-hậu, tâu Bệ-hạ. Vì bên Tống thay đổi rất nhiều, nhất là những thay đổi đó có liên quan đến Đại-Việt, nên thần cho thiết Tinh-triều để nghe vua bà Bắc-biên tâu trình tình hình an-ninh biên giới Tống-Việt.



Thái-Ninh đế tuy mới tám tuổi, nhưng đã quen với lễ nghi. Nhà vua tuyên chỉ:



– Xin Thái-sư an tọa.



Nhà vua dùng ngôn ngữ bình dân với vua bà Bắc-biên:



– Chị Thiên-Thành. Hồi Phụ-hoàng tại thế đã trao quyền trấn ngự biên cương cho chị. Bấy lâu nay biên cương vô sự. Nay hẳn có điều gì khẩn cấp lắm, mới khiến đại giá chị hồi triều.



Công-chúa Thiên-Thành tâu:



– Cách đây bốn năm, khi Đại-Việt chuẩn bị bình Chiêm, triều đình có ban chỉ dụ cho Bắc-biên phải làm ba điều. Một là hết sức hòa hoãn, nhường nhịn với Tống, để được yên mặt Bắc. Hai là lực lượng Bắc-biên phải ứng trực, phòng Tống thừa cơ đánh úp. Ba là gửi tế-tác theo dõi mọi hoạt động của Tống. Vì quốc kế bị gian tế báo cho Chiêm, nên mới có vụ quân Chiêm đóng đồn Tà-lầm chặn đường Trung-Thành vương. Cũng gian tế báo cho Tống, nên trong suốt thời gian ấy Tống hết sức lấn át ta ở biên cương.



Công chúa đem ra một cái giá treo tấm bản đồ Hoa-Nam lớn hơn cái chiếu, trên đó ghi chằng chịt những chỗ đóng quân, đường di chuyển quân, kho chứ lương thảo của Tống.



Linh-Nhân hoàng thái hậu ngắt lời công chúa:



– Để triều đình hiểu rõ mọi việc ở Bắc-cương. Xin Công-chúa tường trình tỷ mỉ những gì Tống đã làm ở Nam-thùy trong mấy năm qua.



– Vào thời Thuận-Thiên, giữa Khai-Quốc vương với Yên-vương; rồi Kinh-Nam vương với vua Nhân-tông kết nghĩa huynh đệ. Hai cuộc kết thân này đưa đến Tống rút hết binh sĩ ở Nam-thùy (1027). Ngược lại các nước Nam-thùy cũng rút quân khỏi biên giới Tống. Tống phong cho phò-mã Trần Tự-Mai tước Ngô-quốc quận vương, cùng công chúa Huệ-Nhu tổng trấn Nam thùy. Minh ước trải qua hai mươi sáu năm tốt đẹp. Dân chúng tộc Hoa, tộc Việt sống trong thanh bình, sung sướng chưa từng có. Sau Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu rời Nam-thùy Tống lên trấn phương Bắc, Yên-vương hoăng. Bọn hiếu-chiến trong triều xui vua Tống Nhân-tông chuẩn bị đánh Đại-Việt. Bọn biên thần Nam-thùy Tống nhân đó lấn chiếm mấy trang động của ta. Chúng lại gây ra vụ án giết cha con Nùng Tồn-Phúc, Nùng Trí-Thông để chia rẽ tộc Nùng với Đại-Việt. Trong triều chúng dùng Dương Đức-Thành làm gian tế. Trước tình trạng chẳng đặng thì đừng, Khai-Quốc vương cùng tám vùng tộc Việt giúp Nùng Trí-Cao chiếm Lưỡng-Quảng, lập ra nước Đại-Nam (1053).



Biết rằng ông em mới tám tuổi khó theo kịp những gì mình tâu, công chúa ngừng lại một lát rồi tiếp:



– Sau khi Nùng Trí-Cao thất bại, Tống ra sức củng cố Nam thùy. Họ đem trọng binh xuống đóng ở biên giới Đại-Việt, Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la, cùng cử những văn thần, võ tướng lỗi lạc trấn nhậm. Trong đó có bọn Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú. Bọn này nay lấn động này, mai đe dọa chiếm động khác. Đức Thánh-tông nổi giận, truyền quan Thái-bảo Lý Thường-Kiệt đem mười hiệu Thiên-tử binh lên cùng cô mẫu đánh tràn sang chiếm lại hết các động bị lấn vào niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ nhất (1059). Tưởng như vậy bọn quan Nam-thùy Tống ghê sợ, không ngờ chúng lại tiếp tục đánh chiếm ba động nữa. Cô mẫu (vua bà Bình-Dương, phò mã Thân Thiệu-Thái) đem đại lực lượng đánh chiếm châu Tây-bình, giết Đô-giám tuần-kiểm Tống Sĩ-Nghiêu và các tướng Lý Đức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật, bắt sống Chỉ-huy-sứ Dương Lữ-Tài. Tống xin nghị hòa, cô mẫu đòi ba điều kiện mới chịu rút quân (Xem NQSH



Công chúa chỉ vào tấm bản đồ Hoa-Nam treo trên cái giá lớn:



– Từ đấy, biên giới Tống, Việt trải qua một thời gian mười năm yên ổn. Cho đến niên hiệu Thiên-huống Báu-tượng nguyên niên (1068), Vương An-Thạch dâng Tân-pháp, được Hy-Ninh đế trọng dụng, mà trở thành Tể-tướng. Dù bị chống đối bởi hậu cung, bởi ngoại-thích, bởi đồng liêu, nhưng sau ba năm, Tân-pháp đem lại cho dân Tống ấm no, quốc-sản, quốc-dụng dồi dào. Đến đây, Thạch muốn tuyệt nguồn chống đối. Mà muốn tuyệt nguồn chống đối, thì chỉ có cách gỡ được cái nhục cho triều Tống.



... Nguyên kể từ khi Tống triều lập lên đến giờ, tuy văn-học, tư-tưởng, nông-nghiệp thịnh; tuy có đôi chút chiến công thắng một số nước xung quanh. Nhưng phía Tây bị Tây-hạ, Thổ-phồn đem quân xâm lấn, làm nghiêng ngửa bao phen. Sau phải nhờ đến tài Phò-mã Trần Tự-Mai mới yên được. Phía Bắc bị Bắc-liêu đem quân chiếm mất một phần ba lãnh thổ; nhục nhã hơn nữa Liêu còn bắt tiến cống hàng năm một số vàng, lụa, lương thực rất lớn. Phía Nam bị vua Lê đánh tan đạo quân xâm lăng ở Chi-lăng, Bạch-đằng. Tiếp đến bị Đại-Việt giúp Nùng Trí-Cao, bị vua bà Bình-Dương vượt biên đánh lên. Vì ba cái nhục đó, mà võ-lâm diễu Tống triều bằng câu tục ngữ:



« Bắc vi tước, Tây vi lộc, Nam vi quy ».



Nghĩa là Bắc thì hèn như chim sẻ gặp đại bàng. Tây thì yếu như nai gặp cọp. Nam thì sợ quá như con rùa rút vào mai. Trong lịch sử, Trung-nguyên chưa bao giờ có một triều đại hèn như vậy.



Đến đây công chúa đưa mắt nhìn các thân-vương, đại-thần một lượt. Hy-Ninh đế vẫy tay ra hiệu cho cung nữ chầu hầu:



– Người mang chén sâm thang này dâng Công-chúa cho trẫm.



Vua bà Thiên-Thành cảm động về thịnh ý của ông em, tuy còn nhỏ tuổi, mà đã tỏ ra biết trọng công lao của biên thần.



– Đa tạ bệ hạ.



Công-chúa bưng bát sâm thang lên uống. Nhà vua nói với quần thần:



– Nếu trẫm là Hy-Ninh đế, khi lên ngôi, bằng mọi giá trẫm quyết gỡ cái nhục cho tổ tiên, cho đất nước. Chắc vì vậy, Hy-Ninh mới trọng dụng Vương An-Thạch, ra lệnh cách chức, đầy hết chư đại thần chống đối Tân-pháp.



Nghe nhà vua nói câu đó, triều-thần cùng giật mình nghĩ như nhau:



– Ông vua con này tiếp thụ cái tự hào về tộc Việt anh-hùng của Linh-Nhân hoàng thái hậu, lại thụ hưởng cái huy-hoàng đời vua Thái-tổ, Thái-tông, Thánh-tông... thì e trong tương lai nhất định người sẽ không lùi trước Tống, trước Chiêm; dù chỉ nửa bước.



Vua bà tiếp:



– Từ khi bản triều lập lên, Đại-Việt chưa từng bị nhục, mà bệ hạ còn nghĩ như vậy; huống hồ Hy-Ninh đã từng thấy ông, cha bị khinh khi, bị quốc dân đàm tiếu!



Nhà vua quay lại nói với công-chúa Thiên-Ninh bằng ngôn từ bình dân:



– Chị Thiên-Ninh ơi! Hôm trước chị có đọc cho em nghe bài thơ của Vương An-Thạch tả cái nhục bị Hạ, Liêu bắt tiến-cống. Em không chú ý nên chẳng thuộc. Vậy chị hãy đọc cho triều đình cùng nghe đi.



Trong ba bà chị Thiên-Thành, Động-Thiên, Thiên-Ninh, nhà vua sủng ái nhất Thiên-Ninh. Vì khi nhà vua sinh ra, thì hai bà chị Thiên-Thành, Động-Thiên đã hạ-giá (ghi chú: khi công-chúa lấy chồng thì gọi là hạ-giá. Hạ là xuống thấp. Giá là lấy chồng. Nghĩa là tự hạ thấp thân thế cao quý để kết hôn). Còn công chúa Thiên-Ninh thì vẫn ở trong cung. Công chúa luôn bế bồng, dạy dỗ nhà vua. Vì vậy thâm tình chị em không bờ bến.



Nghe nhà vua hỏi, công-chúa Thiên-Ninh đứng dậy:



– Tâu bệ hạ, bài thơ đó tên là Hà-Bắc dân, tả nỗi thống khổ của dân phía Bắc sông Hoàng-hà phải nộp thuế cho nhà vua để cống Liêu, Hạ. Nguyên văn bài thơ như sau:



Ghi chú,



Trung-quốc có hai con sông lớn. Một là Trường-giang, hai là Hoàng-hà. Hoàng-hà ở phía Bắc, Trường-giang ở phiá Nam. Trường-giang phân chia lãnh thổ cổ của tộc Hán và tộc Việt. Hán ở phía Bắc, Việt ở phía Nam. Ngày nay con sông này phân chia Trung-quốc làm hai, gọi là Giang-bắc, Giang-nam hay còn gọi là Hoa-bắc, Hoa-nam. Sông Hoàng-hà ở phía Bắc. Các tỉnh ở phía Bắc sông Hoàng-hà gọi là Hà-bắc, Nam thì gọi là Hà-nam. Thời Tống, vùng Hà-bắc bị Liêu chiếm.



Hà-bắc dân



Sinh cận nhị biên trường khổ tân,



Gia gia dưỡng tử học canh chức,



Thâu dữ quan gia sự di địch.



Kim niên đại hạn thiên lý xích,



Châu huyện nhưng thôi cấp hà dịch.



Lão tiểu tương y lai tự Nam,



Nam nhân phong niên tự vô thực.



Bi sầu thiên địa bạch nhật hôn,



Lộ bàng quá giả vô nhan sắc.



Nhữ sinh bất cập Trinh-quán trung,



Đẩu túc sổ tiền vô binh nhung.



Dịch:



Dân Hà-Bắc



Sống gần hai biên luôn đắng cay,



Nhà nhà nuôi con học dệt cày.



Để đóng cho quan thờ Di-địch.



Năm nay hạn đỏ ngàn dặm đồng,



Châu huyện còn dục đi phòng sông.



Già trẻ dìu nhau xuống Nam lánh,



Người Nam được mùa vẫn rỗng lòng.



Ngày tối, trời buồn, đất xót xa,



Bên đường nhợt nhạt mặt người qua.



Người sinh chẳng gặp thời Trinh-quán,



Thóc gạo rẻ mạt, không binh qua.
Công-chúa Thiên-Ninh bật cười:



– Dạ, hơn thế nữa!



Cả mười hai tướng trẻ đều gật đầu, hưởng ứng lời Thiên-Ninh. Công chúa Huệ-Nhu nắm tay công chúa Thiên-Ninh kéo lại bên cạnh, bà vòng tay ôm lấy ngang lưng nàng, rồi cười:



– Từ xưa đến giờ, ta với vương tuy mang tên Ưng-sơn song hiệp thực; nhưng những vụ án lớn, đều không do chúng ta xử, mà những người khác « bắt nạt » chúng ta, mạo danh chúnng ta mà xử. Cứ mỗi khi gặp kẻ có tội, họ xử bừa, rồi đổ lên đầu chúng ta.



Nghe công-chúa kể « bị người ta bắt nạt » bất giác mọi người đều bật cười. Công-chúa Thiên-Ninh lắc đầu:



– Cháu tưởng trên đời này đến Ngọc-Hoàng đại đế, Diêm-La lão tử thấy vương gia với điện hạ cũng phải run rẩy, thì hỏi rằng ai mà dám bắt nạt Ưng-sơn song hiệp?



Vương chỉ vào Tôn Đản, Cẩm-Thi:



– Thì ông bà này chứ ai? Lại còn bà La-sát Thanh-Mai, bà Chằng-lửa Bảo-Hòa, bà Chằng-tinh Thiếu-Mai nữa.



Công-chúa Huệ-Nhu chỉ vào Côi-sơn tam anh:



– Ba ông kẹ này còn khiếp đảm hơn ai hết. Những vụ án kinh hồn táng đởm trên đất Tống là do ba ông xử cả. Còn những vụ án ở trên đất Việt là do Quốc-mẫu Thanh-Mai, ông bà Long-thành ẩn sĩ xử. Trong Thuận-Thiên thập hùng thì duy bà Bình-Dương là không xử ai. Còn bất cứ ông nào, bà nào cũng có thể xưng là Ưng-sơn song hiệp, mà chúng ta đành chịu thua, có dám nói gì đâu?



Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi:



– Khải đại vương, thế vụ án Trịnh Quang-Thạch do ai xử? Vụ này có tác dụng làm bọn gian thần tặc tử sợ hãi đến không biết chúng là ai nữa!



Công-chúa Huệ-Nhu cười rất tươi:



– Thái-hậu thử đoán xem là ai?



– Cháu thực không đoán ra.



– Thái-hậu không đoán ra là phải. Người xử vụ ấy là Yên-vương vương phi tức tiên-nương Thiếu-Mai.



Tất cả mọi người đều bậy lên tiếng ồ:



Nhà vua hỏi:



– Khải đại-vương, cháu sinh sau, đẻ muộn, từ hồi có trí nhớ đã nghe danh Mộc-tồn vọng thê bồ-tát. Mỗi hành xử của ngài đều khiến bọn đầu trộm đuôi cướp, bọn sâu dân mọt nước kinh tâm động phách. Vậy ngài là ai?



– Tôi thực không giám nói. Tôi chỉ xin hé lộ để bệ-hạ biết, hoà thượng là người đã dành cả cuộc đời để bảo vệ tộc Việt. Vợ chồng chúng tôi thấy người, là bỏ trốn biệt.



Thấy đến Ưng-sơn song hiệp mà còn kinh sợ Mộc-tồn hòa thượng, thì mọi người đều nghĩ thầm rằng, có thể ông là Hồng-Sơn đại phu, Thiên-trường ngũ kiệt. Nhưng không ai đoán ra được cả.



Đến đó quan tổng-lĩnh thị-vệ Hùng Lễ vào tâu:



– Tâu bệ-hạ, cung Thượng-Dương bị người ta tẩm dầu, đặt lưu huỳnh khắp nơi, điểm huyệt Thượng-Dương thái hậu với bẩy mươi sáu cung nữ rồi châm lửa đốt, nên đội cứu hỏa tuy có ra tay, mà không cứu được một người nào. Thần xin chịu tội với bệ-hạ.



Kinh-Nam vương xua tay:



– Sư điệt! Người không có lỗi gì cả. Vụ này chính chúng ta ra tay. Cái con mụ Dương Hồng-Hạc này thực là một con ác quỷ. Chỉ nguyên tội đánh thuốc mê tĩnh thân Thường-Kiệt cũng đủ xử lăng trì rồi. Thị lại dấu Đinh Hiền xưng là Nguyễn Bông trong cung để hành lạc làm ô uế hậu cung. Thị còn trốn ra ngoài họp với Tống mưu cướp ngôi vua nữa. Khi việc phát giác, vua Thánh-tông ân xá cho thị. Tưởng như vậy thị đã hối hận, không ngờ thị âm thầm báo mọi kế hoạch bình Chiêm cho bọn Hồng-thiết giáo. Vì vậy mới có việc Chiêm biết hết kế hoạch của ta. Cuối cùng, thị chuẩn bị kế hoạch cướp ngôi vua khi đức Thánh-tông băng hà, suýt nữa gây ra cuộc tương tàn đổ máu. Nhờ di chiếu của Quốc-phụ, thị được ân xá, nhưng thị vẫn cứ tìm cách hại dân, phản quốc, thị thông báo mọi quốc kế cho Tống. Giả như Mộc-Tồn hòa thượng không khám phá ra, thì quốc kế về Liêu, Hạ đã bị Tống qhá rồi khống? Ba phái đoàn của ta khó bảo toàn tính mệnh.



Công chúa Huệ-Nhu tiếp lời Kinh-Nam vương:



– Biết bao nhiêu kế sách của chúng ta với Đại-Việt mưu cầu cho Hoa-Việt sống thanh bình từ triều vua Nhân-Tông đến giờ, đều bị con quỷ cái báo cho Tống biết hết. Nay vì muốn hạ chúng ta, Hy-Ninh đế mới trao những mật tấu của Hồng-Hạc cho tên Vương An-Thạch. Thạch đem những thứ đó đưa ra triều nghị, kết tội ta cùng vương thông đồng với ngoại quốc. Việc này đưa tới vương với ta không thể cầm đại quân nữa. Chúng ta nghĩ: Việc làm của chúng ta quang minh lỗi lạc, khi thác không phải hổ thẹn với liệt tổ Trung-nguyên, Đại-Việt là được rồi. Cho nên chúng ta cáo quan mà về đây. Thị thực là con rắn độc nằm trong hoàng-cung. Chúng ta cũng biết triều đình Đại-Việt không thể giết thị, nên chúng ta phải ra tay.



Kinh-Nam vương nói với Thái-Ninh đế:



– Chúng tôi xử tử Dương Hồng-Hạc với bẩy mươi sáu cung nữ xuất thân từ Hồng-thiết giáo, rồi đốt cung Thượng-Dương. Nếu như bệ-hạ với triều đình bắt lỗi, thì chúng tôi xin chịu.



Từ khi có trí khôn, nhà vua được chị là công chúa Thiên-Ninh thuật cho không biết bao nhiêu huyền thoại về Ưng-sơn song hiệp, Mộc-tồn vọng thê hòa thượng. Trong tâm tưởng, nhà vua kính trọng ba người này như thần như thánh. Nay nghe vương tự nhận lỗi, nhà vua xua tay:



– Đại vương vì Đại-Việt mà trừ gian, khiến toàn tộc Việt đều thâm cảm, có đâu cháu dám bắt lỗi.



Ghi chú,



Các bộ sử Việt như ĐVSKTT, Việt-sử lược, An-nam chí lược, cho đến Tống-sử đều chép mơ hồ về sự kiện này như sau:



« Quý-Sửu, Thái-Ninh năm thứ nhì (1073), bên Tống là niên hiệu Hy-Ninh thứ sáu. Giam Hoàng thái hậu họ Dương, tôn Hoàng thái-phi làm Linh-Nhân hoàng thái hậu. Linh-Nhân có tính hay ghen, cho mình là mẹ mà không được dự chính sự, mới dụ với nhà vua rằng: "Mẹ già khó nhọc mới có ngày nay, mà bây giờ phú quý người khác được hưởng, thế thì sẽ để mẹ già vào đâu?". Vua bèn sai giam Dương thái hậu và 76 cung nữ vào cung Thượng-Dương, rồi bức phải chết theo lăng Thánh-tông ».



Ngô Sĩ-Liên phê bình:



Nhân-tông là người hiếu. Linh-Nhân là người sùng đạo Phật, sao lại đến nỗi giết đích Thái-hậu, hãm hại người vô-tội, tàn nhẫn đến như thế ư? Vì ghen là thường tình của đàn bà, huống chi là mẹ đẻ mà không được dự chính sự? Linh-Nhân dẫu là người hiền cũng không thể nhẫn nại được, cho nên phải dụ với vua. Bấy giờ vua còn trẻ thơ, chỉ biết chiều lòng mẹ là thích, mà không biết là lỗi to. Thái-sư Lý– Đạo-Thành phải ra trấn bên ngoài, biết đâu chẳng vì can gián việc ấy?



Sự kiện này hết sức phi lý. Vì bấy giờ, nhà vua mới bẩy tuổi, làm sao có đủ uy tín, khả năng lật đổ một Thái-hậu đang cầm quyền, với một Thái-sư kinh nghiệm, cao niên như Lý Đạo-Thành? Cho nên khi viết những giòng này, tôi bỏ không theo sử Việt, Tống-sử; mà theo gia-phả của giòng họ Lý tại Bắc-Hàn chép về Linh-Nhân hoàng thái hậu. Còn việc Thượng-Dương thái hậu bị đốt chết với bẩy mươi sáu cung nữ, tôi theo bộ QTNC, TTCTGCK cũng như mộ chí, văn bia các công thần Tống được chép thành sách mang tên TTCTBK. Trong ba tài liệu trên đều chép rằng Tống sai người sang hứa phong cho Dương Đạo-Gia làm Giao-chỉ quận vương. Vậy hãy tổ chức binh biến cướp ngôi họ Lý. Nếu tổ chức binh biến thất bại, quân Tống sẽ vượt biên sang giúp. Dương gia tin thực. Nhưng khi sự thất bại, thì quân Tống không qua như lời hứa. Tống làm việc này chỉ với mục đích làm cho Giao-chỉ có nội chiến.



Về việc Dương thái hậu cùng bẩy mươi sáu cung nữ bị giết, uyên nguyên ra sao, chỉ độc giả Nam-quốc sơn-hà mới biết sự thực mà thôi.



Chợt Kinh-Nam vương liếc nhìn cung nữ đứng hầu sau lưng Linh-Nhân hoàng thái hậu rồi cau mày lại nhìn công chúa Huệ-Nhu như hỏi ý kiến. Công chúa cũng đưa mắt nhìn cung nữ ấy tồi lại lắc đầu. Vương trầm tư một lúc, rồi nói với ba đoàn mật sứ sang Tống, Liêu, Hạ:



– Thôi! Các vị cứ yêm tâm lên đường. Trong bóng tối, người của ta sẽ theo dõi, giúp đỡ các vị. Chuyến đi của các vị không giúp Đại-Việt, cũng chẳng giúp Tống, Liêu, Hạ, mà vì thiên hạ làm mất đi cái mầm binh lửa khiến người chết, nhà tan mà thôi.



Vương nói với Động-đình thất kiệt, Tuyết-sơn thập anh:



– Các vị tuy sinh làm con dân Tống, nhưng tổ tiên gốc ở vùng Kinh-hồ, tức xưa kia là người Việt. Cô gia tước phong Kinh-Nam vương, cai trị vùng này mười năm qua, nên hiểu rất rõ các vị. Các vị là những đại hiệp, học võ với nguyện vọng hành hiệp cứu nguy phò khốn. Thế mà các vị bị tên cẩu Nho Vương An-Thạch trong triều Hy-Ninh coi như bọn đầu trộm đuôi cướp, rồi đẩy các vị vào chỗ chết. Rất may, khi các vị bị cùng đường, Đại-Việt không những không thù oán các vị, mà còn đãi các vị vào bậc quốc sĩ. Nay các vị được trao trọng trách thiêng liêng, là làm tắt ngọn lửa chiến tranh giữa bốn nước, đó là dịp các vị được tỏ rõ chân bản lĩnh vì đời, cho đời. Thôi chúc các vị lên đường may mắn.



Vương đưa mắt nhìn Hoàng-Nghi, nhìn cung nữ đứng sau thái-hậu:



– Hồi bình Chiêm, bọn Long-biên ngũ-hùng các người với bốn cô vợ, do không tinh tế, để đến nỗi gây ra mối hận tình thiên thu, đầy oan khuất cho Nang-Chang-Lan. Vì ân hận, người xin với Linh-Nhân hoàng thái hậu để tìm nàng trong ba năm. Sau ba năm nếu không thấy tin tức Chang-Lan người mới cưới Phương-Quỳnh, có đúng thế không?



– Thưa cậu vâng.



– Tại sao năm ngoái người lại cưới Phương-Quỳnh? Người là con nhà danh gia, học thức uyên bác, mà sao lại thất hứa như thế? Ta phải đánh cho người què chân mới được.



Nghe vương kết tội, Hoàng-Nghi cảm thấy lạnh gáy. Linh-Nhân hoàng thái hậu đỡ lời cho Hoàng-Nghi:



– Khải đại-vương, việc Nghi đệ cưới vợ là do cháu thôi thúc. Nguyên năm trước, cháu thấy Nghi đệ tuổi đã lớn, Phương-Quỳnh cũng vậy; mà cái thời hạn Nghi đệ đi tìm Chang-Lan cũng đã quá ba năm, nên cháu khải với Quốc-mẫu, với sư-huynh Thường-Kiệt, rồi cho làm lễ thành hôn.



– Việc đó tôi biết. Nhưng tôi hỏi tội Hoàng-Nghi, vì y thất hứa. Rõ ràng sau khi biết Nang-Chang-Lan oan, y vào Chiêm tìm nó, và đã gặp lại nó sau ba tháng. Từ đấy y với Chang-Lan như bóng với hình. Cho đến ngày y cưới Phương-Quỳnh, Chang-Lan đâu có xa nó?



Lời kết tội của vương gây ra một súc cảm lớn cho toàn thế triều đình Đại-Việt. Vì ai cũng tưởng Hoàng-Nghi chung tình, tìm Chang-Lan trong ba năm mà không thấy, rồi mới cưới Phương-Quỳnh. Không ngờ bây giờ nảy ra vụ Hoàng-Nghi đã tìm thấy Chang-Lan từ lâu.



Hoàng-Nghi mở miệng định biện luận, thì công chúa Huệ-Nhu vẫy tay, ngụ ý không cho nói:



– Ta cho cháu suy nghĩ một khắc rồi hãy trả lời.



Sau một khắc, công-chúa hỏi:



– Cháu nghĩ ra chưa?



– Thưa mợ cháu không nghĩ ra.



Chợt Phương-Quỳnh bật lên tiếng kêu:



– À, phải rồi! Phải rồi. Anh đã thấy Chang-Lan, nhưng anh không nhận ra nàng!



–???



– Chang-Lan đã giả làm con nữ tỳ Nang-Trúc, sống bên anh hơn ba năm mà anh không biết. Cho đến lúc Dương gia nổi loạn, nàng mới được thái hậu đem vào cung, rồi khi anh cưới em nàng mới bỏ đi.



Tất cả mọi người đều kinh hãi Ưng-sơn song hiệp. Một sự việc với uẩn khúc như vậy, mà hai vị đều biết rất chi tiết, thế thì hỏi rằng bọn bất trung, bất hiếu làm sao qua mắt song hiệp? Bất giác mọi người đều lạnh gáy. Vương tuyên án:



– Ta gia hạn cho cháu trong ba năm phải tìm cho ra Chang-Lan, bằng không ta chặt chân. Nhớ đấy!



Đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, tại xã Dương-xá, huyện Gia-lâm, Hà-nội.