Nam Quốc Sơn Hà
Chương 34 : Hùng-khí Lưu Thiên Cổ
Ngày đăng: 09:02 19/04/20
Tháng 6, ngày mười bẩy, niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt (Ất-Mão, 1075) bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông nhà Tống.
Trên bến Tiềm-long bên bờ sông Hồng, hoa phượng nở đỏ rực bầu trời. Giòng sông nước đục ngầu chảy siết về hạ lưu, trên mặt nước lềnh bềnh những khúc củi mục nhấp nhô xuôi giòng. Buổi sáng Thăng-long về mùa hè, bầu trời xanh ngắt, không gợn chút mây tơ. Tiếng ve rên rỉ những bản nhạc u sầu dài liên miên bất tuyệt. Mặt trời đã lên cao, vượt khỏi những lũy tre già. Một chiến hạm lớn thuộc hạm đội Động-đình đậu tại đó từ bao giờ. Chiến thuyền có hai cái cầu gỗ bắc từ cửa đến bờ. Mỗi cửa đều có hai thủy binh đứng gác.
Hai chiếc xe song mã bịt kín từ cửa Đại-hưng tiến về phía bến Tiềm-long. Bất cứ ai liếc qua cũng biết đây là hai chiếc xe rất lớn, thuộc loại chở lương thực. Mấy viên thủy thủ có nhiệm vụ tưới hoa trong vườn cảnh bến Tiềm-long ngơ ngác nhìn chiếc xe, rồi nói với nhau:
– Kìa xe chở lương thực xuống chiến thuyền kìa. Chắc chiến thuyền này lại sắp ra khơi hẳn!
Hai chiếc xe tới đầu cầu chiến thuyền thì dừng lại. Cửa xe mở ra, lập tức có rất nhiều người từ trong tung mình ra, rồi vượt cầu vào trong chiến thuyền. Hết hai xe này, lại có hai chiếc khác. Cứ như vậy, khi trời gần trưa thì đã có tới mười chiếc xe đến rồi ra đi.
Bây giờ thuyền mới rút cầu, nhổ neo, xuôi giòng.
Trong khoang lớn nhất của thuyền, đèn nến sáng trưng. Hơn trăm người ngồi im lặng, chia thành bốn hàng hình chữ U. Những người đó, kể từ cao xuống thấp có Linh-Nhân hoàng thái hậu, Thái-Ninh đế, Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt, Thái-úy Hoàng Kiện, Đại-đô-đốc Lý Kế-Nguyên, quản Khu-mật viện kiêm tổng-trấn Thăng-long Trung-Thành vương, Tổng-lĩnh Thiên-tử binh Tín-Nghĩa vương.... thấp nhất là mười hai Đô-thống chỉ huy mười hai hiệu Thiên-tử binh.
Lễ tất.
Linh-Nhân hoàng thái hậu mở đầu:
– Tình hình biên cương cực kỳ khẩn trương. Tống đang chuyển đại binh từ Tây-thùy, Bắc-thùy về Nam-thùy đánh ta, cho nên cô-phụ phải tổ chức buổi hội mật này để đối phó. Hơn lúc nào hết, lúc này là lúc ta phải bỏ hết tỵ hiềm mới mong tồn tại. Chính vì vậy, Hoàng-thượng ban chỉ ân xá cho Thái-sư Lý Đạo-Thành, phục hồi chức tước để người có thể tham dự vào công việc hộ quốc. Nào mời Thái-sư ra.
Thái-sư Lý Đạo-Thành từ trong bước ra chắp tay vái Linh-Nhân hoàng thái hậu với Thái-Ninh đế, sồi ngồi vào ghế.
Thái-hậu tiếp:
– Trong buổi triều hội này, lễ nghi được giản tiện hết sức. Các vó đại thần khi tâu trình không cần xưng tên, cứ ngồi nguyên tại vị không phải quỳ gối hành lễ.
Thái-hậu hướng mắt vào Trung-Thành vương:
– Hoàng-thúc! Hoàng-thúc chưởng quản Khu-mật viện, xin hoàng-thúc cho biết tình hình chuyển quân bên Tống đã.
Nguyên tuổi của Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương tương đương với tuổi của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Hậu lấy nghĩa: vua Thánh-tông là con nuôi của Khai-Quốc vương, thì hai vương là chú của Thái-Ninh hoàng đế, nên bà gọi hai vương bằng hoàng-thúc, và ban chỉ cho hai vương vào triều được đeo kiếm, khi tâu không phải xưng tên.
Trung-Thành vương tâu:
– Tống đã chuẩn bị để tiến đánh Đại-Việt suốt mấy năm qua. Gần đây, họ chuyển một số quân rất lớn từ vùng Trường-sa, Kinh-châu về Quảng-đông, Quảng-tây. Trong khi đó, các biên thần Nam-phương ra sức tuyển mộ tân binh, tổ chức thổ binh thành bảo-giáp. Dọc bờ biển họ đóng chiến thuyền, thao diễn thủy quân. Mấy chục năm qua các châu Nam-thùy Tống phải thu góp lương thảo, vàng bạc chuyển lện cho mặt trận Tây, Bắc. Nhưng năm năm gần đây, họ được chỉ dụ không những giữ lương tiền lại, mà còn nhận được lương tiền của vùng Kinh-hồ. Thần thấy rõ ràng họ đang chuẩn bị đánh Đại-Việt.
Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt hỏi:
– Xin vương gia cho biết tổ chức lực-lượng Tống tại Nam thùy ra sao?
Trung-Thành vương đem cuốn trực lớn, trên vẽ bản đồ Hoa-nam treo trước cử tọa, rồi trình bầy:
– Phiá Bắc Trường-giang là Kinh-châu. Trước kia Tống có hai mươi vạn quân. Sau khi Địch Thanh đem xuống đánh nhau với quân tám vùng tộc Việt trong cuộc khởi binh của Nùng Trí-Cao, các đạo quân này bị diệt. Địch Thanh bị công-chúa Bảo-Hòa đánh bại, y tổ chức lại các đạo quân này, rồi đem thêm quân ở Tây-thùy về đánh Nùng Trí-Cao. Thành công rồi, y lại mang các đạo quân ấy trở về chỗ cũ. Tại phía Nam sông Trường-giang, hiện có quân của Đàm-châu, Quý-châu, Quảng-đông, Quảng-tây. Nhưng quân ở Đàm, Quý không nhiều, vả khi hữu sự họ cũng không thể điều đi nơi khác, vì phải phòng Đại-lý.
Nhà vua đưa mắt nhìn Côi-sơn tam anh:
– Tam vị sư phụ! Bây giờ trẫm mới hiểu tại sao U-bon vương Lê Văn cứ luôn thao luyện quân sĩ ở Bắc-thái. Thì ra người « hù » Tống hẳn?
Trung-Thành vương cúi đầu:
– Đúng như bệ-hạ phán! Rút lại chỉ có quân lưỡng Quảng là đáng để cho ta phải quan tâm. Trước kia lưỡng Quảng chưa có quân triều. Gần đây họ điều tám đạo rất thiện chiến ở vùng Tây-biên. Mỗi đạo một vạn người. Trong năm đạo đó, một đạo đóng ở Quảng-châu, hai đạo đóng ở Ung-châu, một đạo đóng ở Liêm-châu, một đạo đóng ở Khâm-châu, ba đạo đóng ở Quế-châu. Kị binh trước kia không có, nay họ điều về hai đạo, đó là đạo Thiểm-tây và đạo Ký-bắc. Đạo Thiểm-tây chia ra, một lữ (ghi chú: 3 nghìn) đóng ở Liêm-châu, một lữ đóng ở Khâm-châu, một lữ đóng ở Ung-châu. Đạo Ký-bắc đóng ở Quế-châu. Thủy quân có một hạm đội đóng ở Quảng-châu. Quân của lưỡng Quảng thì có đạo đệ nhất chia ra nửa đóng ở Hoành-sơn, nửa đóng ở Thái-bình. Đạo đệ nhị một nửa đóng ở Vĩnh-bình, một nửa đóng ở Tây-bình. Đạo đệ tam một nửa đóng ở Lộc-châu, một nửa đóng ở Cổ-vạn. Ngoài ra còn quân bảo-giáp, quân khê-động nhiều ít khác nhau.
Thấy chư tướng chưa hơi có vẻ ngơ ngác, vương trình bầy rất khoan thai:
– Tóm lại, tại Quảng-Tây lộ có tám vạn bộ, hai vạn kỵ, chia ra như sau: Đồn trú giữ thủ phủ Ung-châu có hai vạn quân triều, một vạn kỵ binh. Đồn trú tại Quế-châu có ba vạn bộ, một vạn kỵ. Các ải thống thuộc Ung-châu, còn có ba đạo quân Quảng, chia ra đóng ở Hoành-sơn, Thái-bình, Vĩnh-bình, Tây-bình, Lộc-châu, Cổ-vạn. Tổng cộng chín vạn người. Còn quân bảo-giáp của khê-động thì nhiều ít thất thường, khi khởi sự các động chủ trấn thủ của ta sẽ trình sau.
Vương chỉ vào vùng Quảng-đông lộ:
– Tại đây có ba vạn quân triều, một vạn thủy binh, một vạn kị, chia ra như sau: Quảng-châu hai vạn bộ, một vạn thủy binh, ba nghìn kị; tại Liêm-châu, có một vạn bộ, ba nghìn kị binh. Tại Khâm-châu có một vạn quân triều, ba nghìn. Tổng cộng thủy bộ sáu vạn. Còn quân bảo-giáp, khê-động rất ít.
Vương kết luận:
– Như vậy tổng quân Tống ở lưỡng Quảng có mười sáu vạn, không kể quân bảo-giáp, khê động. Trong tương lai, khi đánh ta, họ sẽ đem hai mươi đạo quân triều thiện chiến, với năm đạo kị binh từ biên giới Tây-hạ về. Hai hạm đội từ Mân-Triết xuống. Ngay từ bây giờ ta phải chuẩn bị đối đầu với năm mươi vạn quân bộ thủy bộ, với khoảng mười vạn quân bảo-giáp, khê động và năm mươi vạn dân phu. Tổng cộng một trăm vạn người ngựa.
Ghi chú,
Thời Tống giờ chưa phân chia ra Quảng-đông, Quảng-tây như bây giờ, mà gọi chung là Quảng-nam lộ, mà thủ phủ là Quế-châu. Đôi khi chia ra Quảng-đông Nam-lộ và Quảng-Tây Nam lộ. Về quân số của Tống, tôi theo QTNC và TTCTGCK, TTCTBK, chứ không theo TS, VSL, ĐVSKTT, TTTTGTB.
Nghe vương tâu trình, người người nhìn nhau tỏ vẻ lo lắng.
Đại-tư mã Thường-Kiệt đứng dậy nói lớn:
– Binh-pháp nói: « Quân quý hồ tinh, bất quý hồ đa » nghĩa là quân quý ở chỗ tinh-luyện, chứ không quý ở đông. Các vị hãy nhớ thời vua Lê, Đại-Việt chỉ có mười vạn, mà thắng ba mươi vạn quân Tống ở Chi-lăng, Bạch-đằng. Hồi tiên-nương Bảo-Hòa, Đại-Việt chỉ có mười lăm vạn, mà thắng năm mươi vạn quân Tống. Mới đây, vua bà Bình-Dương chỉ có năm vạn binh mà thắng mười vạn quân của bọn Lý Sư-Trung, Tiêu Cố, Tiêu Chú.
Ông chỉ vào Tây-hồ thất kiệt, Long-biên ngũ hùng:
– Từ bẩy năm nay, Thiên-tử binh được trao cho các Đô-thống này, hầu như đã thay đổi hoàn toàn. Bây giờ tôi để cho Đô-thống Phạm Dật, phu nhân Lê Kim-Loan trình bầy về phương cách huấn luyện binh để các vị thấy tại sao người Tống nghe đến Thiên-tử binh đều tỏ vẻ kinh sợ.
Phạm Dật đứng lên cung tay:
– Quân mạnh hay không là do uy, lực, thế, trang. Uy tức kỷ luật phải nghiêm. Kỷ luật nghiêm thì khi lệnh ban ra người người đều răm rắp thi hành, lúc đối diện với giặc khi tiến, lúc lùi, nhất nhất vạn người như một. Vì vậy mỗi đội quân, khi đối diện với địch thì phía sau đều có ba võ sĩ đao phủ; một lệnh tiến ban ra, mà binh nào chần chờ, lui lại, hay quay đầu lại thì chém tại chỗ. Cho nên chúng tôi tự hào là Thiên-tử binh chỉ biết chết, chứ không biết lùi. Thứ hai là lực. Lực là sức manh, cho nên tất cả tướng sĩ, mỗi ngày đều phải luyện tập bốn giờ (8 giờ ngày nay),chia ra: Một giờ luyện tập võ nghệ, một giờ bắn cung, một giờ xung phong hãm trận, một giờ học tập binh pháp. Vì vậy, một Thiên-tử binh, sau một năm tại ngũ, về võ nghệ đã có thể tay không đánh thắng bốn năm người, hoặc khi đối địch với kẻ dùng cùng một thứ vũ khí, có thể thắng ba đến mười người. Hóa cho nên sau bẩy năm, những Thiên-tử binh của ta đã có trình độ võ công như một võ sĩ. Về hành binh, thì cứ một ngày tập trận giả đánh trong đồng cỏ, một ngày tập đánh trong rừng, một ngày tập đánh ở đồng lầy, một ngày tập công thành.
Các quan cùng gật đầu tỏ ý tin tưởng.
– Thứ ba là thế. Thế tức là sự phối hợp giữa các đội quân bộ, như khi nào thì dùng Thần-nỏ, khi nào thì dùng Thạch-xa, khi nào thì phóng lao, khi nào thì bắn tên, khi nào thì xung sát chém giết. Lại huấn luyện khối hợp giữa bộ binh, kị binh, thủy binh, Thần-nỏ, Thạch-xa, thú binh. Tỷ như hiệu Ngự-long đối trận với một đạo kị binh Tống, tôi chỉ việc ra lệnh cho lữ nào đánh mặt phải, lữ nào đánh mặt trái, lữ nào đánh trực diện, lữ nào trừ bị. Các lữ trưởng thấy binh địch còn ở xa, thì ra lệnh cho Thạch-xa bắn ngay vào hàng đầu của địch. Khi địch lại gần, thì cho Thần-nỏ bắn. Khi hai bên giáp nhau rồi, thì đội đao thủ xung lên chém chân ngựa, đội cung thủ thì bắn kị mã.
Phạm Dật ngừng lại, đưa mắt cho Lê Kim-Loan. Kim-Loan biết ý chồng, nàng trình bầy:
– Thứ tư là trang. Như các vị thấy, Thiên-tử binh được trang bị giầy bằng vải thực dai, thực dầy, đế bằng da, để khi dẵm phải đá, phải sỏi thì không đau. Ngực, lưng được che bởi miếng hộ tâm kính bằng thép, đầu đội chiếc mũ bằng thép mỏng. Về vũ khí, thì mỗi Thiên-tử binh đều được phát cho hai thứ; một là vũ khí chính như đao, giáo; hai là vũ khí phụ như cung tên, mũi lao, dao ngắn.
Vũ Quang chỉ vào Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương:
– Từ sau cuộc bình Chiêm trở về, Trung-Thành vương, Tín-Nghĩa vương nghiệm thấy rằng trong cuộc Nam chinh, những trận thắng dễ dàng là nhờ chư tướng kết thân với nhau, một lần suýt thất bại vì tên Trần Thanh-Nhiên ghen tỵ với Long-biên ngũ hùng. Cho nên nhị vương đã ban lệnh đi các trấn, các hạm đội, bắt bược một tháng, chư tướng từ cấp lữ phải hội họp ba ngày với nhau để có dịp học tập binh pháp, ăn ở cùng nhau, vui đùa có nhau, thắt thêm tình bạn.
Hoàng-Nghi tiếp lời Vũ Quang:
– Trung-Thành vương đã nghiên cứu phương thức huấn luyện binh lính của Tống, rồi soạn một tập binh pháp mới để phá binh pháp Tống. Nếu nay mai khi giao chiến với Tống, chỉ thoáng thấy đội hình của họ, là chúng tôi đã biết họ định làm gì, ta muốn phá họ thì phải làm gì.
Thường-Kiệt vào công chúa Thiên-Ninh:
– Thêm vào đó, Bà-chúa-kho cho tổ chức nhiều ao nuôi cá, nhiều cánh đồng nuôi gà vịt, nhiều nhà nuôi lợn, có lương thực cho binh tướng ăn thêm trong những ngày luyện tập để lấy sức. Cho nên binh tướng đều vui lòng vì được hậu đãi. Hiện lương bổng của quân ta cao gấp ba quân Chiêm, gấp đôi quân Tống, lại được đối đãi như chân tay, nên giữ binh với tướng có mối thâm tình như cha con, anh em.
Thái-úy Hoàng Kiện hỏi Trung-Thành vương:
– Theo ước tính của vương gia, thì bao giờ họ đánh mình?
– Trong năm tới.
Trung-Thành vương khẳng định: Ba sứ đoàn mật của ta cử sang Tống, Liêu, Hạ thành công mỹ-mãn. Nhưng dù Hạ, Liêu đòi điều kiện gì Hy-Ninh đế với Vương An-Thạch cũng chịu. Tống mới cắt dâng cho Liêu 700 dặm ở vùng Liêu-đông, dù phe thân mình ra sức công kích. Nguyên trong triều Tống, phe chủ đánh Bắc hòa Nam đa số là các tướng do Kinh-Nam vương đào tạo. Nhưng mấy năm trước, Kinh-Nam vương, công chúa Huệ-Nhu không đồng chính kiến với Hy-Ninh đế và Vương An-Thạch, hai vị cáo quan về triều, rồi ngao du sơn thủy. Vì vậy phe chủ đánh Nam phương mạnh lên.
Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
Triều đình cùng nghị luận phân vân. Đô-thống Đinh Hoàng-Nghi xin phát biểu:
– Tâu thái-hậu, việc đem quân Tống từ Bắc, Đông xuống Tây-Nam thực không khó.
Linh-Nhân hỏi:
– Đinh đô-thống nổi tiếng mưu thần, chước thánh, ắt có diệu kề.
– Tâu thái hậu.
Hoàng-Nghi phân giải: Ta phải thực hiện hai điều. Một là mặt bộ phải hành sự sao cho Tống tưởng là xung đột giữa các động chủ của ta với khê-động Tống, để họ không cứu ứng kịp thời. Hai là khi ta tấn công toàn diện mặt bộ, thì mặt thủy vẫn ém quân. Chúng tưởng ta tấn công như hồi vua bà Bình-Dương đã làm. Nghĩa là chỉ có mặt bộ, mà không có mặt thủy; ắt chúng đem quân Khâm, Liêm, Ung về Tây-Nam cứu viện. Bấy giờ ta mới cho quân mặt thủy đổ bộ lên đánh Khâm, Liêm.
Triều đình cùng tán thành đề nghị của Hoàng-Nghi. Tín-Nghĩa vương hỏi:
– Theo ý hiền đệ, bây giờ ta phải làm thế nào khi mặt bộ khởi sự tấn công, mà Tống lại tưởng là xung đột giữa các khê-động với nhau?
Hoàng-Nghi đưa mắt nhìn Thân Cảnh-Long:
– Không khó! Khi các trang động Tống-Việt giáp nhau có sự, các trang động thường đem quân đánh lẫn nhau. Vậy trước khi ta khởi sự, thì phò-mã Thân Cảnh-Long ra lệnh cho một trang động nào đó, nhân có hiềm khích với một khê động bên Tống, để Tống đem quân đánh sang, nhân đó ta phản công. Tin này đưa tới Quế-châu, Lưu Di cho rằng đây là sự hiềm khích giữa man dân. Y tâu về triều. Trong triều triều, Hy-Ninh, An-Thạch coi là loại man-dân trộm cướp vặt. Sau đó ta tiến đại binh sang. Tin đưa về triều, lúc đầu Hy-Ninh với An-Thạch cũng tưởng chuyện cướp bóc diễn ra mà thôi, chưa có phản ứng.
Tín-Nghĩa vương khen:
– Mưu của Đinh đệ hay thực. Nhưng nếu như giữa các trang động không có hiềm khích gì, thì sao ta có cớ mà đem quân sang?
Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt đều nhìn nhau cười tủm tỉm. Tín-Nghĩa vương hỏi:
– Anh hỏi vậy không đúng sao mà các chú cười?
Ngô Ức lắc đầu:
– Anh hai ơi! Anh là một thân vương, lại sống trong đạo đức đã quen nên anh tìm không ra cớ. Chứ mười hai đứa chúng em từng ăn mày, từng móc túi, từng ăn cắp vặt, dư thừa thói lưu manh dân dã. Việc kiếm cách gây sự đâu có khó. Này nhé, ở Bắc-biên có lệ, hễ để trâu ăn lúa của nhà người ta, thì người ta có quyền giữ trâu lại. Có đúng thế không?
Tín-Nghĩa vương lắc đầu không hiểu.
Đến lượt Trần Di cười:
– Anh ơi! Chỉ cần một trang động của ta vờ thả trâu ăn lúa của khê-động Tống. Như vậy ắt họ giữ trâu lại bắt chuộc. Ta không chuộc, còn kéo nhau sang đánh cướp trâu về. Dĩ nhiên bên kia không chịu, thế là đánh nhau to. Khi đánh nhau, họ không dự bị, trong khi ta đã chuẩn bị hết. Ta xua quân đánh tràn sang chiếm khê-động của Tống, nhưng cố ý không bắt bọn thủ lĩnh. Bọn thủ lĩnh chạy đến quan huyện tố cáo. Quan huyện cáo về cho Lưu Di. Lưu Di sẽ tâu về triều chi tiết này. Thế là trong triều Tống cho đến Lưu Di đều tưởng cuộc tiến quân của ta chỉ là đụng chạm giữa man dân. Trong lúc đó ta xua quân đánh tràn sang. Đến khi ta hạ hết các khê-động, đồn trại biên giới, bấy giờ Tống mới phản ứng thì đã trễ.
Trong triều đình, thì văn quan đa số là nho gia, đạo đức có thừa. Võ quan đa số xuất thân từ các danh môn chính phái, nên không ai có thể tưởng tượng ra được cớ gây sự. Nay nghe Trần-Di thiết kế, họ đều bật cười.
Đinh Hoàng-Nghi tiếp:
– Khi biết rõ chủ ý cuộc tiến quân của ta, phản ứng tức thời của Lưu Di, của Tống triều là gì? Cứu binh như cứu lửa, ắt họ dùng quân Khâm, Liêm, Ung cứu vùng Tây-Nam. Thế là họ mắc mưu ta. Khi quân ba nơi kia đổ về Tây-Nam, bấy giờ ta mới cho đạo thủy-quân đổ lên đánh Khâm, Liêm.
Ghi chú,
Hồi này thuật rõ:
– Nguyên do nào, Đại-Việt phải đem quân Bắc phạt?
– Ai là người chủ trương?
– Chủ đích cuộc Bắc-phạt như thế nào?
Như phần tựa đã trình bầy: Người chủ trương, lãnh đạo là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Nhưng tại sao, sau này chính sử Đại-Việt lại cố tình làm mờ nhạt huân công của ngài? Lại nữa, bấy giờ các công chúa Bình-Dương, Bảo-Hòa, Thiên-Thành, Động-Thiên,Thiên-Ninh đã lập không biết bao nhiêu công lao, mà sau sử không nhắc tới? Các bà Trinh-Dung, Ngọc-Huệ, Ngọc-Nam, Thanh-Thảo, với phu nhân Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt... đều là danh tướng, rồi tuẫn quốc. Thế sao ngày nay chỉ thấy bốn bà Dung, Huệ, Nam, Thảo được phối thờ ở đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu; còn mười hai bà là phu nhân của Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt tại sao không thờ? Dù là thờ chung với chồng?
Tôi giải đoán như thế này:
Một là, sau thịnh thời của triều Lý, có tới ba bà thái hậu (vợ vua Thần-tông, Anh-tông, Huệ-tông) nhân con thơ, nhiếp chính như Linh-Nhân hoàng thái hậu rồi làm cho nước loạn, làm những truyện dâm ô. Nên chi sử gia đời sau với quan niệm sử như tấm gương dạy hậu thế, đã bỏ không nói đến huân công của ngài, vì sợ việc cũ tái diễn.
Hai là, có thể thời Lý các bà được thờ chung với các ông. Nhưng đến thời Lê, vua Lê Thái-tổ đánh đuổi ngoại xâm rồi dựng lại kỷ cương. Những cuốn phổ bị Trương Phụ, Mộc Thạch lấy đi được viết lại, tâu lên triều đình xin phong thần. Triều đình nhân đó tước bỏ sắc phong của các bà, tước bỏ việc thờ cúng các bà, vì sợ phụ nữ lại được trọng?. Nên sau này trong đền chỉ thấy thờ các ông mà thôi.
Ba là vào giữa thời Lê, thời Nguyễn, Nho học cực thịnh. Nho học coi các bà nhiếp chính, cầm quân là hiện tượng gà mái gáy. Vì vậy một lần nữa thần tích, sắc phong đã bỏ các bà ra ngoài.
Cũng may, tôi lần mò tìm ở những tập sách nhỏ (sẽ trình bầy ở hồi thứ 34, trong quyển thứ tư này), danh tính, huân nghiệp của các bà. Không biết đến bao giờ đại công của các bà mới được phục hồi? Bao giờ lại đem tượng các bà thờ chung với các ông?
Việc này xin để hậu thế giải quyết.
Thái-úy Lý Thường-Kiệt là nhân vật tài trí bậc nhất thời Thần-vũ (Lý Thánh-tông) và Anh-vũ Chiêu-thắng (Lý Nhân-tông). Ngài là một anh hùng đã lập được huân công vĩ đại cho tộc Việt. Hiện còn nhiều đền thờ ngài. Tôi đã được viếng thăm đền thờ tại xã Ngọ-xá, huyện Vĩnh-lộc, tỉnh Thanh-hóa hai lần. Hiện hầu hết các đền thờ anh hùng dân tộc trong nước đều được dân địa phương trùng tu rất khang trang. Nhưng dân Ngọ-xá quá nghèo, vì vậy đền tiêu điều...
Trên giữa cổng chính là ba chữ Lý Đại Vương (chữ Lý ở giữa. Bên phải là chữ Đại, bên trái là chữ Vương).
Đôi câu đối cổng chính:
Phạt Tống, bình Chiêm vạn cổ danh phương thùy vũ trụ,
Hộ dân bảo quốc thiên thu công đức quán sơn hà.
(Phạt Tống, bình Chiêm tiếng thơm vạn cổ tràn vũ trụ.
Giúp dân, giữ nước, công đức nghìn thu khắp non sông).
Hình dưới là cổng phụ bên trái, đôi câu đối là:
Anh hùng chí khí sinh dũng tướng,
Hào kiệt uy phong hóa phúc thần.
(Chí khí anh hùng sinh tướng mạnh,
Oai phong hào kiệt hóa phúc thần)
Còn cổng bên phải có đôi câu đối:
Hách hách uy phong trừ nội nghịch,
Đường đường kính khí diệt ngoại xâm.
(Uy phong hách hách trừ phản tặc,
Khí cứng đường đường diệt ngoại xâm)
Hình cổng phụ bên phải không còn cánh, tường, vách thủng, nghiêng gần muốn đổ.
Đền thờ chính
Mái ngói lâu ngày đã mục hết.
Các đồ thờ bên trong còn mục hơn nữa.
Dân xã nghèo quá, ăn không đủ, lấy tiền đâu mà cúng, mà trùng tu?