Nam Quốc Sơn Hà

Chương 36 : Châu chấu đá xe

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Ngày Mậu-Thìn, 10 tháng mười một năm Ất-Mão (DL. 20-12-1075), niên hiệu Thái-Ninh thứ tư đời vua Lý Nhân-tông của Đại-Việt, bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Thần-tông nhà Tống.



Không gian đế đô Thăng-long, trấn Thanh-hóa, trấn Thiên-trường, trấn Đồn-sơn muốn nổ tung lên vì những cuộc chuyển quân vĩ đại. Dân chúng, gia đình tướng sĩ chen chúc nhau ở bến thủy-quân để tiễn thân nhân lên đường vào giúp Chiêm-quốc chống với Chân-lạp.



Tại Thanh-hóa, hạm đội Âu-Cơ cập bến. Cờ xí phất phới, những cánh buồm lớn mầu nâu kéo lên, nổi bật trên nền trời xanh lơ. Trên bờ hai hiệu Thiên-tử binh Hùng-lược, Vạn-tiệp dàn ra; cờ xí bay rợp trời, gươm đao sáng ngời, trống thúc vang dội. Trong cái khí thế nghiêng trời lệch đất đó, Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân ruổi ngựa duyệt qua hàng binh. Đi cạnh vương là hai đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy với hai phu nhân Phương-Dược, Phương-Quế. Phía sau các hàng quân là vợ con, gia đình bình tướng đi tiễn đưa.



Binh tướng cũng như gia đình đều được thông báo rằng quân trẩy đi lần này để tham chiến tại Pandurango giúp Chiêm-thành chống Chân-lạp.



Sau khi duyệt binh rồi, Trung-Thành vương trao cho đô-đốc Trần Phúc, đô-thống Ngô Ức, Tạ Duy một bức thư niêm phong kín và dặn nhỏ:



- Đây là mật chỉ của hoàng-thượng. Khi hạm đội ra khơi, thì cả ba vị cùng hội nhau lại, mở phong thư này và thi hành.



Một chiếc chiếc pháo lệnh bắn vọt lên trên trời. Chiếc pháo nổ tung ra bốn phía. Đoàn hùng sư hướng các cầu tầu, lên chiến hạm. Thoáng một cái, hơn hai vạn người ngưa đã rời khỏi bờ. Sau ba hồi trống, hạm đội nhổ neo hướng ra khơi, phút chốc đã biến mất vào chân trời mờ mịt.



Đô-đốc Trần Phúc thấy hạm đội đã rời bờ khá xa, trông vào đất liền chỉ còn thấy một mầu xanh lơ của nước biển, dưới chân mây; những con hải-âu đang đo cánh trên nền trời... ông mới nói với Ngô Ức, Tạ Duy:



- Xin mời hai đô-thống, hai phu nhân vào khoang cùng mở mật chỉ để thi hành.



Năm người vào trong khoang lớn, Trần Phúc mở bao thưa ra. Nhìn tờ giấy in hình chim ưng, mỗi chân cặp một thanh kiếm, thì cả năm đều biết là lệnh của Khu-mật viện. Trong lệnh vỏn vẹn có mấy giòng:



« Lệnh nói rằng tham chiến ở Pandurango là hư kế để lừa địch. Hãy quay thuyền lên phía Bắc, rồi giảng giải cho quân sĩ biết rõ những âm mưu xâm chiếm Đại-Việt của Tống; vì vậy ta phải đánh Tống trước để tự vệ. Khi tới ngoài khơi Thiên-trường, sẽ gặp hạm đội Bạch-đằng chở hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng. Khi tới cửa sông Hồng, sẽ gặp hạm đội Động-đình chở hiệu Thần-điện. Ba hạm đội đi theo hàng một. Hạm đội Âu-Cơ đi đầu, thứ đến Bạch-đằng. Hạm đội Động-đình đi thứ ba. Tới Đồn-sơn, sẽ gặp hạm đội Thần-phù chở hai hiệu Vũ-thắng, Long-dực đi thứ tư. Bấy giờ sẽ có lệnh chi tiết sau ».



Năm người chia nhau đến từng chiến hạm giảng giải cho binh sĩ. Nghe các chúa tướng kể chi tiết về vụ Tống chuẩn bị đánh Đại-Việt, nên mình phải ra tay trước, binh sĩ hoan hô nhiệt liệt.



Phu-nhân của đô-thống Tạ Duy là Phương-Quế, đứng trên đỉnh một chiến thuyền khích lệ tướng sĩ:



- Chư quân đã nghe, đã hiểu mục đích việc ra quân của chúng ta rồi phải không?



- Nghe, hiểu.



- Chư quân từng học, từng nghe, từng quỳ gối lễ đền miếu thờ các anh hùng đời trước chết cho Đại-Việt. Con người ta, ai sinh ra cũng phải chết, không chết trước thì chết sau. Nếu như được chết cho Đại-Việt, sẽ thành thần, đời đời trăm họ tôn thờ mới là cái chết xứng đáng. Có phải vậy không?



- Đu...úng!



- Vậy đây là dịp duy nhất để chư quân được chết cho Đại-Việt, được thành thần.



- Nghe!



Thuyền tiếp tục đi về hướng Bắc. Sau một ngày thì gặp hạm đội Bạch-đằng. Sang ngày thứ ba lại gặp hạm đội Động-đình. Đến ngày thứ tư, thì chu-sư tới Đồn-sơn. Đây là căn cứ thủy quân chính của Đại-Việt. Bốn hạm đội dàn ra thành một hành dài. Chim ưng mang lệnh của đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tới, mời các đô-đốc chỉ huy hạm đội, bẩy đô-thống cùng phu nhân chỉ huy bẩy hiệu Thiên-tử binh đến soái hạm họp.



Chư tướng có mặt đầy đủ. Trên bàn chủ-toạ, nguyên-soái Thường-Kiệt ngồi chính giữa. Bên phải là đại đô đốc Lý Kế-Nguyên, bên trái là Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn.



Tín-nghĩa vương mỉm cười:



- Chắc chư tướng ngạc nhiên vì sự hiện diện của cô-gia ở đây phải không? Bởi trước đây trong cuộc nghị kế Bắc phạt, Linh-nhân hoàng thái hậu ban chỉ cho cô gia giữ nhiệm vụ tổng trấn từ Hải-vân tới Thanh-hóa, mà sao nay cô gia lại hiện diện phải không? Thưa đó là hư kế để lừa giặc mà thôi.



Nguyên-soái Thường-Kiệt để kiếm lệnh lên bàn:



- Trước hết bản soái loan báo cho các vị biết tình hình mặt trận trên bộ. Đầu tiên là trận Cổ-vạn. Bề ngoài là Tô-mậu hầu Vi Thủ-An chỉ huy, nhưng trên thực tế là Côi-sơn công chúa với Tôn phò mã. Như kế đã định trước: Ngày 15 tháng 9 lợi dụng địch mang quân sang đánh ta. Ta chia quân làm hai. Một mặt đi đường tắt đánh úp Cổ-vạn; một mặt chặn đánh địch ở đèo Vong-thiên. Toàn bộ năm nghìn quân Quảng, bốn nghìn Bảo-binh vừa bị bắt, vừa đầu hàng, vừa bị giết. Tả-lãnh vệ đại tướng quân Chu Am bị bắt. Bát tác sứ Toàn Hưng, thủ-lĩnh trại Cổ-vạn Nùng Hiệp-Thành bị giết. Sau khi lên tận nơi kiểm kê chiến lợi phẩm, thái-hậu phải rùng mình, vì số lương thảo tích trữ tại đây có thể nuôi mười vạn quân trong một năm, số vũ khí có thể trang bị cho năm vạn quân. Đó là một bằng chắng Tống định dùng lương thảo đó nuôi quân đánh ta, và d;ung vũ khí đó, bắt dân ta nhập ngũ để đánh Liêu.



Chư tướng vỗ tay.



- Ngày 1 tháng 10, Lưu Di mới được tin Cổ-vạn mất. Y tâu về triều rằng đó là những đụng chạm giữa các khê động. Có lẽ giờ này Tống triều cũng chưa biết rõ cuộc hành quân vĩ đại của ta với chủ đích gì?



Chư tướng lại vỗ tay.



- Ngày 2 tháng 10, cánh quân Quảng-nguyên, Lạng-châu, Tô-mậu đồng loạt tấn công vào các ải Thái-bình, Hoành-sơn, Vình-bình, Tây-bình, Lộc-châu. Trong ba cánh, thì cánh Quảng-nguyên đánh vào Tây-bình, Lộc-châu. Cánh này do phò-mã Thân Cảnh-Phúc với hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh chỉ huy, ba vị phải đối đầu với quân số đông đảo của Tống gồm hai vạn Bảo-giáp, năm nghìn quân Quảng, ba nghìn kị binh. Nhờ ta tập kích bất ngờ, nên chiếm hai châu này dễ dàng. Bọn Nùng Toàn-An, Nùng Tông-Đán chạy thoát. Sau khi kiểm kê lương thảo, Thân phò mã ước tính rằng số lương tiền của Tống chứa tại đây có thể nuôi năm vạn quân trong một năm. Số vũ khí có thể trang bị cho bẩy vạn quân. Đó là hai bằng chứng về âm mưu của Tống. Trong lúc Tây-bình thất thủ, Trấn-viễn đại-tướng quân Lưu Khả của Tống đang dẫn quân Quảng, quân kị đi thao diễn cách đó hơn năm chục dậm. Bọn Nùng thoát thân, khẩn khoản xin Lưu đem quân về chiếm lại Tây-bình. Nhưng Khả là đại tướng trí dũng tuyệt vời. Y biết rằng đem quân chiếm lại Tây-bình rất khó, sao bằng đem quân đi đường tắt vượt biên đánh vào Lạng-châu, như vậy ta phải rút quân về để tự cứu.



Đến đó ông ngừng lại uống nước, làm chư tướng nóng ruột muốn lên tiếng hỏi: Rồi ra sao? Nhưng quân chế thời Lý rất nghiêm, nên mọi người cố nín nhịn ngồi chờ. Ông hỏi chư tướng:



- Các vị thử đoán xem, tình hình sẽ như thế nào?



Đô-đốc chỉ-huy hạm đội Thần-phù là Trần Hải đáp:



- Từ mấy chục năm nay, ở Bắc-biên dù thời chiến hay thời loạn, lúc nào trên thời cũng có Thần-ưng, dưới đất có Thần-ngao canh phòng; còn quân sĩ, thì cứ ba đội, một đội ứng trực. Chỉ cần ba hồi tù và là có thể lâm chiến. Vì vậy chắc Lưu Khả thất bại.



Phu-nhân đô-thống Trần Di là Phương-Lý lắc đầu:



- Thưa đô-đốc không hẳn như thế. Bởi trong đêm, hai bên cùng có cuộc chuyển quân lớn, Thần-ưng, Thần-ngao khó có thể phân biệt. Mà dù có phân biệt, báo động kịp thời, thì ta cũng không thể ứng chiến được ngay, vì kị kinh phi như bay! Có thể như thế này: Quân Tống tràn vào đánh mấy trang ấp sát biên. Mồi trang ấp đều có lũy tre kiên cố bảo vệ, cổng có hoàng-nam, Thần-ngao canh phòng. Vì vậy Tống phải khó khăn lắm mới chiếm được vài trang ấp. Bấy giờ lực lượng Bắc-biên mới tiếp cứu.



Thường-Kiệt hài lòng:



- Quả đúng như Phương-Lý ước tính. Câu hỏi khác được đặt ra: Nếu các vị là vua bà Thiên-Thành, hay phò-mã Thân, các vị phản ứng ra sao?



Đô-đốc Trần Phúc chỉ huy hạm đội Âu-Cơ, đô-đốc Trần Lâm chỉ huy hạm đội Động-đình cùng đáp:



- Thưa sư huynh, đệ tạm ngừng tiến quân, cho quân của Thân phò mã đánh quặt trở về, quân phòng thủ Bắc-biên cố thủ trong trang ấp. Như vậy chỉ hai ngày quân Lưu Khả hết lương, ắt tan vỡ. Tuy nhiên sẽ có trận đánh quyết tử của Tống với ta, mà số tổn thất của ta cũng không nhỏ.



Ghi chú,



Thường-Kiệt là con Ngô An-Ngữ. Mà Ngô là đệ tử của Trần Tự-An. Còn Trần Phúc là cháu nội Trần Kiệt; Trần Lâm là con Trần Phụ-Quốc. Vì vậy so vai vế Thường-Kiệt thuộc vai sư đệ Trần Lâm, và vai sư huynh Trần Phúc.



Đô-thống Quách Y đáp:



- Giặc cùng chớ đuổi. Nếu trường hợp đó xẩy ra, ắt Thân phò mã sai hai đô-thống Lý Đoan, Trần Ninh đem quân về cứu Lạng-châu. Hai trự Đoan, Ninh sẽ không ngại ngùng gì mà bắt hết vợ con tướng sĩ Tống chở ra mặt trận cho đi trước, rồi đội cung thủ núp sau, để đe dọa: Ai hàng thì tha cho cả bản thân và gia đình. Ai chống thì cứ tiến lên, bắn ra để vợ con chết trước!



Cả năm đô-đốc Lý Kế-Nguyên, Trần Phúc, Trần An, Trần-Hải, Trần-Lâm đều lắc đầu, phì cười:



- Hành sự như vậy thì thành công đấy, nhưng thiếu tinh thần võ-đạo! Giặc nó cười mình rằng hèn, rằng chơi cùi! Thiếu anh hùng tính.



Đô-thống Tạ Duy cãi:



- Trường hợp này mới đúng võ đạo. Đúng đứt đuôi con nòong nọoc đi chứ lị. Các vị có biết không, khi còn sinh thời, sư-phụ dạy: « Trong việc hộ quốc, nếu phải làm bất cứ việc gì, dù dơ bẩn, dù ác độc, cũng làm. Vả phép dụng binh, làm sao đổ máu càng ít, thì dù phải có hành vi bần tiện đến đâu cũng làm ». Vì vậy bọn đệ đã hẹn nhau, khi chơi với Tống, nếu cần thì bóp dế, xài cẩu quyền cũng xài, nếu phải chơi cùi cũng chơi!



Uy tín Khai-Quốc vương cực kỳ lớn trong thời Lý, vì vậy khi nghe Tạ Duy nhắc đến ngài, tự nhiên mọi người ngồi ngay ngắn lại. Thường-Kiệt gật đầu:



- Quả đúng như lời Tạ đô-thống nói. Khi được tin Lưu Khải đem quân tràn vào biên giới ta, Thân phò mã sai hai đô-thống Lý, Trần đem thú-binh, kị-binh, cùng Thần-nỏ trở về tiếp cứu. Còn vua bà Thiên-Thành thì đem hai hiệu binh Hồng-châu, Kinh-Bắc ứng chiến. Trong khi hai bên đối trận, Đô-thống Trần Ninh đem năm mươi xe, trên chở bố mẹ, vợ con các tướng Tống ra, rồi cho đội Thần-nỏ, Thần-tiễn Long-biên đi sau. Tới trước trận, đô-thống gọi các tướng sĩ Tống: « Phía trước, các người tiến lên đánh các trang ấp, thì trang ấp kiên cố, đánh không nổi. Các người lùi trở về, thì Tây-bình, Lộc-châu bị chiếm, vợ con, của cải trong tay chúng ta. Này! Các người nên nhớ quân Đại-Việt là quân nhân nghĩa, nếu các người buông vũ khí đầu hàng, thì không những tính mệnh được tha, mà của cải cùng gia thuộc cũng được an toàn ». Binh tướng Tống kinh hoàng, một vài người buông vũ khí đầu hàng, lập tức bị Lưu Khải chém đầu tại chỗ, rồi hô tiến lên. Đô-thống Lý Đoan chụp ngay hai đứa trẻ còn bế ngửa, trong đám con của binh-sĩ Tống xé tét làm hai mảnh. Tướng sĩ Tống kinh hoàng, đồng buông vũ khí đầu hàng.



Tây-hồ thất kiệt cười khoái trá:



- Bọn Long-biên ngũ hùng chơi mánh này hay thực!



Đô-đốc Lý Kế-Nguyên lắc đầu:



- Xé xác trẻ con vô tội như vậy e tổn thương đến đức hiếu sinh của Thượng-Đế. Muôn ngàn lần không nên.



Tây-hồ thất kiệt lại bưng miệng cười.



- Tôi bàn vậy không đúng sao?



Lý Kế-Nguyên cau mày: Không lẽ đây cũng là võ đạo?
Thường-Kiệt ban lệnh:



- Tất cả tù binh, cao nhất là Trần Vĩnh-Thái, thấp nhất là phu đóng chiến thuyền, nhất nhất được nuôi dưỡng đầy đủ, không được đánh, không được giết, cũng chẳng nên làm nhục người ta. Sau khi thanh lọc, kiểm kê, trao cho Động-đình thất kiệt, để tùy theo tội chúng nặng nhẹ mà xử, để làm mát lòng dân.



Trưa ngày Mậu-Dần 20 tháng 11 năm Ất-Mão (DL. 30-12-1075)



Động-đình thất kiệt cho người mang loa đi khắp nơi chiêu dụ những binh tướng ẩn trốn ra trình diện, sẽ được ân xá. Bẩy người họp suốt hai ngày với võ-lâm, với sư huynh sư đệ cũ, với gia đình họ hàng, rồi quyết định đem bọn quan lại Tống, bọn đầu trộm đuôi cướp ra xử. Nguyên tắc của Thất-kiệt là quan lại ở đâu, bọn ác bá ở đâu, thì đem về đó họp dân chúng, để ai có ơn thì ra làm chứng, hầu giảm án hoặc tha tội; kẻ làm ác thì bị hành hình.



Trước đây Trần Vĩnh-Thái, ỷ được Vương An-Thạch tín cẩn, nên y lộng hành quá đáng trong vịệc bắt dân chài, dân buôn cùng thợ thuyền xung quân, khiến gia đình họ đói khổ. Y lại ra sức truy lùng họ hàng, thân thích Thất-kiệt. Thất-kiệt quyết định đem y ra xử lăng trì (xẻo từng miếng thịt). Viên giám-thuế Âu-dương Dẫn tham ô quá độ, bị dân chúng giết cả nhà, còn chính y bị mổ bụng lấy gan ăn sống cho hả giận. Ngược lại bọn Văn Lương, Ngô Phúc, Tưởng Cẩn, Tống Đạo, Đinh Toại chỉ là những tướng chỉ huy quân, bị đầy xuống Lưỡng-Quảng, mà lại liêm khiết, nên được ân xá.



Trong khi Động-đình thất kiệt xử tội bọn tham quan, bọn ác bá thì nguyên-soái Thường-Kiệt họp chư tướng ở trong soái phủ thành Khâm-châu. Tướng-sĩ hiện diện đầy đủ. Nguyên-soái nói mấy lời ngợi khen tướng-sĩ đã lập được kỳ tích trong thời gian qua.



Ông xoa tay vào nhau:



- Ba vị đại hiệp Phụ-Quốc, Bảo-Dân, Trung-Đạo cunmg cấp tin tức cho ta thực ích lợi vô cùng tận. Ta đánh Cổ-vạn ngày 15 tháng chín, mà mãi đền ngày 11 tháng 11 (DL.21-12-1075) Tống triều mới hay Cổ-vạn thất thủ. Tiếp theo ta đánh Thái-bình, Hoành-sơn, Vĩnh-bình, Tây-bình ngày 2 tháng mười, Lưu Di có gửi lệnh cho quân Khâm-châu tiếp viện từ ngày 15 tháng 11, nhưng cho đến hôm nay là ngày 20 tháng 11, tức 45 ngày sau mà Lưu Di cũng chưa biết các ải kia thất thủ. Thì hỏi sao Tống triều biết được? Lợi dụng tình hình đó, ta tiến về Ung-châu trước khi Tống triều ra tay.



Ông đứng nói với chư tướng:



- Đạo quân bộ của Tôn sư thúc giờ này đang lên đường tiến về Ung-châu theo trục Nam-Bắc. Bây giờ ta cũng tiến về Ung-châu theo đường Đông-Tây. Đạo quân Tôn sư thúc tiến lên, trong khi phía sau có vua bà Thiên-Thành trấn thủ Bắc-cương Đại-Việt; phò-mã Thân Cảnh-Long cùng các tướng Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn, Vi Thủ-An với các hiệu binh Bắc-biến trấn ở Thái-bình, Hoành-sơn, Vĩnh-bình, Tây-bình, Cổ-vạn. Nay ta tiến quân, cũng cần phải có tướng trí dũng song toàn trấn Khâm-châu, cùng cửa biển Nam-hải. Việc trấn thủ này cực kỳ quan trọng. Bởi khi được tin ta tiến về Ngũ-lĩnh, ắt Tống thừa hư trong nước không có trọng binh, họ sẽ đem thủy quân Mân-Triết, thủy quân Kinh-hồ chở đại quan đánh úp Thăng-long. Như vậy ta vừa mất đường về, và mất luôn nước.



Ông đứng dậy nói với Tín-Nghĩa vương, Lý Kế-Nguyên:



- Ta để cho hiền đệ bốn hạm đội trấn Khâm-câu, tuần thám biển Đông. Ta cũng để đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên làm phó cho hiền đệ. Liệu hiền đệ có đảm đương nổi không?



Tín-Nghĩa vương khẳng khái:



- Đại huynh đừng lo, em với Lý đại đô đốc có thể chu toàn nhiệm vụ. Em thấy Khâm-châu đã chiếm, đại huynh tiến về Tây, mà bên hông phải còn các châu Liêm, Dung, Bạch, Nghi. Vậy em xin lĩnh nhiệm vụ đánh các châu này, bảo vệ hông phải cho đại ca, cùng cản viện quân từ Quảng-châu xuống.



- Hiền đệ thực là người tinh-minh mẫn cán, lại trí dũng có thừa. Như vậy ta mới yên tâm. Nhưng hiền đệ chỉ có thủy quân, thì lấy đâu ra quân đánh các châu kia?



- Liêm-châu nằm sát bờ biển, thì thủy quân có thể đổ lên bờ đánh được. Còn các châu kia ư? Đệ dùng bảo-binh bắt được, hoặc đầu hàng ở các ải biên giới, hợp với tù hàng binh của Khâm-châu, thiết lập thành đội binh mới. Tuy quân này ô hợp, nhưng dùng để đánh các châu Liêm, Dung, Bạch, Nghi cũng được.



- Dùng quân người đánh người có nguy hiểm lắm không?



Tín-Nghĩa vương ghé miệng vào tai Thường-Kiệt:



- Không khó. Hiện cha mẹ, vợ con, gia sản của chúng, đệ đã đem về giữ ở trong thành Khâm-châu. Bây giờ đệ ra lệnh: Kẻ nào phản trắc, hèn nhát, thì không những bản thân khó toàn, mà gia thuộc cũng bị giết. Đệ giao các hiệu binh này cho Động-đình thất kiệt, để họ chỉ huy chúng. Thế của Động-đình thất kiệt bây giờ như ngồi trên lưng cọp, không thể bước xuống được nữa. Họ chỉ có thể tới, mà không thể lui! Vậy huynh phải gửi tấu chương về triều, xin phong chức tước cho Động-đình thất kiệt, để đào thêm hố căm thù của Tống với họ, và cột chặt họ với ta.



Nguyên-soái Thường-Kiệt vội sai chim ưng mang biểu về triều. Hai hôm sau có chiếu chỉ ban ra: Phong cho tất cả Động-đình thất kiệt đều lĩnh ấn thiên-tướng, tước hầu. Từ Bá-Tường tước Vạn-sơn hầu, Lý Tân tước Thiên-long hầu, Hà Quan tước Đông-hưng hầu, Vũ An tước Như-tích hầu, Mao Cang tước Liêm-Đông hầu, Đạo Vi tước Khâm-Nam hầu, Phúc Chi tước Dung-Nghi hầu.



Nguyên-soái Thường-Kiệt truyền quân sĩ nghỉ ngơi mấy ngày cho lại sức. Trong khi Tín-Nghĩa vương Lý Chiêu-Văn, đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên cho kiểm kê lọc những bảo-binh, Quảng-binh, binh triều ẩn náu trong dân. Tổng số hàng binh, tù binh lên tới ba vạn người. Vương lập thành ba hiệu binh, mang tên Đông-Việt, Nam-Việt và Tây-Việt. Thăng giám áp Văn Lương, Ngô Phu lên làm thiên-tướng chỉ huy hiệu Đông-Việt; thăng chỉ-huy-sứ Tống Đạo, Đinh Toại lên làm thần-tướng chỉ huy hiệu Nam-Việt; thăng tuần kiểm Tưởng Cẩn lên làm vũ-tướng chỉ huy hiệu Tây-Việt. Ba hiệu binh này mang tên Lĩnh-Nam binh, được trao cho Động-đình thất kiệt chỉ huy. Lại cử Từ Bá-Tường cùng với Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đi các nơi an dân, cắt đặt quan tước cai trị.



Ngay ngày hôm sau, vương truyền ba hiệu binh Đông-Việt, Nam-Việt, Tây-Việt tiến đánh các cửa Bắc, Nam, Tây thành Liêm-châu. Đô-đốc Trần Lâm với thủy quân hạm đội Động-đình đánh cửa Đông. Đại đô đốc Lý Kế-Nguyên tổng chỉ huy công thành.



Vì thành Khâm-châu bị chiếm, nên thành Liêm-châu tổ chức phòng vệ cực kỳ chu đáo. Trong thành Liêm có đạo quân triều thứ 35 giám-áp Chu Tông-Thích chỉ-huy, lữ kị thứ 45 do chỉ-huy-sứ Ngô Tông-Lập em ruột Tông-Thích chỉ huy. Ngoài ra còn hai vạn bảo-binh do tri huyện Hợp-phố Lương Sở chỉ huy. Tướng trấn thủ là chiêu-thảo-sứ Lỗ Khánh-Tôn, tuổi già, trí dũng tuyệt vời. Vì vậy ba hiệu binh Đông, Nam, Tây-Việt được Thần-nỏ, Thần-hổ, Thần-báo cùng hạm đội Động-đình trợ chiến, mà đánh suốt hai ngày, hai đêm vẫn không hạ được thành. Hai thiên-tướng Ngô Phu, Văn Lương bị trúng tên chết. Trong khi tướng trấn thủ cửa Tây là Chu Tông-Thích, cửa Nam là Ngô Tông-Lập cũng bị đán bắ chết. Trận chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt.



Tin đưa về Khâm-châu, Tín-Nghĩa vương phải thân tới đốc chiến. Vương thân cầm dùi đánh trống thúc quân. Thủy-quân thuộc hạm đội Động-đình dùng máy bắn đá, phá cửa Đông thành, tướng trấn thủ là Lương Sở bị đá trúng sọ chết. Quân trấn thủ rối loạn, nhờ vậy quân Đại-Việt xua Thần-hổ, Thần-báo xung vào trước, thủy quân vào sau. Bấy giờ trong thành hỗn loạn, quân vây các cửa kia mới vào được. Quân Việt làm chủ hoàn toàn thành Liêm vào giờ Dậu ngày Tân-Tỵ 23 tháng 11 năm Ất-Mão (DL. 2-1-1076). Chiêu-thảo sứ Lỗ Khánh-Tôn cùng hơn trăm đệ tử phá vỡ vòng vây phía Bắc chạy thoát. Khi y rời khỏi thành hơn mười dặm, thì gặp Vạn-sơn hầu Từ Bá-Tường cùng đô-thống Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh đi an dân về tới. Cho rằng Bá-Tường phục binh đánh mình, Tôn không nói không rằng xung vào đánh liền. Y đấu với Bá-Tường được hơn trăm hiệp thì mất mạng.



Tín-Nghĩa vương vào thành Liêm-châu, yết bảng yên dân, truy thăng phủ tuất cho gia đình tử sĩ. Vương truyền tha thuế cho dân, tha tất cả thuế thiếu những năm trước. Năm nay không phải nộp bất cứ thứ thuế gì. Lại tha hết tù, bất kể nặng nhẹ, thành án hay chưa. Vương cho hủy bỏ tất cả Tân-pháp của Vương An-Thạch như Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-giáp, Thủy-lợi v.v. lấy của trong khi phát cho dân nghèo. Dân chúng sung sướng vô cùng. Họ gọi quân Lý là quân của cha mẹ dân (Dân chi phụ mẫu). Vương tự tay soạn một bài hịch gọi là « Điếu dân, khử bạo hịch », rồi sai khắc mộc bản, in ra gửi đi niêm yết khắp nơi:



« Đạo trị dân tự cổ đến nay, trải Tam-hoàng, Ngũ-đế, đều lấy an dân làm gốc. Á-thánh Mạnh-tử nói rằng: Dân vi quý, xã tắc thứ chi. Phép giữ Xã-tắc lấy toàn cương thổ để nêu chính thống. Điều này, không những sĩ thiên hạ biết, mà cho đến ngu dân cũng thuộc nằm lòng.



Nay Hy-Ninh đế lòng dạ u mê, hôn ám, trọng dụng tên khuyển nho Vương An-Thạch, phá bỏ tất cảđạo trị dân của thánh nhân, coi khinh cương kỷ của các tiên đế Tống triều; rồi đặt ra những gì là Thanh-miêu, Trợ-dịch, Bảo-giáp, Bảo-mã làm cho dân sống không nổi, mà chết cũng không xong. Trời sầu đất thảm, núi khóc, sông rên, khắp các triều đại Hoa-hạ, chưa bao giờ có một hôn quân như vậy, chưa bao giờ có một tên quan ngông cuồng, ác độc như vậy.



Thời đức Thái-tông, Chân-tông, Nhân-tông, trong dụng các bậc đại nho, ngoài dùng chính sách vỗ về, mà bốn phương được phẳng lặng, dân chúng được ấm no. Từ ngày Hy-Ninh lên làm vua, trọng dụng yêu pháp của Vương An-Thạch, rồi gây chiến với Tây-hạ, đến nỗi hao binh tổn tướng, trong khi đó cúi đầu khuất phục đem vàng lụa cống Liêu; nay cắt dất, mai cắt đất dâng cho chúng... để được yên thân. Hỡi ôi, từ Tam-hoàng, Ngũ-đế đến nay, có bao giờ Trung-nguyên nhục nhã như vậy đâu?



Mấy năm qua, Hy-Ninh nghe lời Vương An-Thạch, bắt dân vùng Kinh-Nam, vùng Nam Ngũ-lĩnh luyện tập binh bị, khiến cho việc nông tang bị bỏ phế, học phong bị suy đồi; lại tích trữ lương thảo dọc Nam-thùy, chuẩn bị sang đánh Đại-Việt ta. Dù ta có nínnhịn đến đâu cũng không chịu được. Nay ta ra quân, không có ý chiếm đất Trung-nguyên, cũng chẳng có lòng muốn diệt bỏ Tống triều, mà trước là phá hết những chuẩn bị đánh sang Đại-Việt ta, sau là điếu dân khử bạo.



Ta đã nghiêm cấm quân, không được phạm đến dân chúng, kẻ nào không tuân thì bị giết ngay. Ta đã ban chỉ cho tướng sĩ rằng: Trước thả hết tù, dù thànhán hay chưa thành án; tha thuế trong một năm, tha cả thuế đã thiếu những năm trước; kho lẫm của Hy-Ninh, Vương An-Thạcvh vơ vét của dân bấy lâu, được phát cho dân nghèo; hủy bỏ hoàn toàn Tân-pháp, mà trở lại với đạo lý thánh hiền đời vua Thái-tông, Chân-tông, Nhân-tông. Dân chúng bị bắt xung quân, bị bắt làm bảo-binh, được cho về nhà.



Vậy ta ban bố tờ hịch này đến nhân-sĩ, dân chúng để yên lòng ».



Thái-Ninh vạn vạn niên, nay là năm thứ tư mùa Đông, tháng chạp.



Quân nghỉ được một tuần (ghi chú: tuần của Lịch-việt là 10 ngày), nguyên-soái Thường-Kiệt truyền quân kéo cờ tiến về Đông, hợp với đạo binh Tôn Đản, Cẩm-Thi công phá Ung-châu, sau đó kéo lên đất thiêng của tộc Việt là vùng núi Ngũ-lĩnh.



Phụ lục: Chiêu-thiền tự



Kể từ hồi này, hành trạng của hai vị Thánh-tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh trong công cuộc cứu nước rất quan trọng. Vì vậy thuật giả xin chép vào phụ lục một số di tích về hai ngài, nay vẫn còn.



Chiêu-thiền tự còn có tên là chùa Láng. Chùa tọa lạc tại làng Yên-lãng, huyện Từ-liêm, nay thuộc Đống-đa, Hà-nội. Chùa dựng dưới thời vua Lý Thần-tông để ghi lại Bồ-tát Từ Đạo-Hạnh tu đắc đạo. Hồi thơ ấu (1950-1954) thuật giả thường cùng các bạn hẹn nhau tới chùa này chơi vào cuối tuần. Chùa hiện còn cây muỗm trồng từ thời nhà Trần (xem hình).



Ngài Từ Đạo-Hạnh húy Lộ, quê quán tại làng Yên-lãng. Cha là Từ Vinh làm Tăng-quan đô-án. Từ Vinh có hiềm với Diên-thành hầu. Hầu nhờ Pháp-sư Đại-Điên (Đinh Kiếm Thương) dùng Pháp thuật đành chết, vứt thây xuống sông Tô-lịch. Xác ông trôi đến cầu Quyết, trước nhà Diên-thành hầu thì dựng đứng dậy chỉ tay vào nhà Hầu. Hầu lại đi mời Đại-Điên tới. Đại-Điên phải làm phép, xác mới đổ xuống, trôi đi. Từ Đạo-Hạnh muốn trả thù cha, nhưng không đủ phép. Ngài tiếp tục học. Sau khi đủ phép,ngài tìm giết Đại-Điên rồi tu ở chùa Phật-tích trên núi Sài-sơn. Nay là Thiên-phúc tự thường gọi là chùa Thầy. Xin xem



Bấy giờ vua Lý Nhân-tông không có con trai, muốn tìm con của tông thất nối ngôi. Em vua là Sùng-Hiền hầu không con, muốn có con, nhờ ngài Đạo-Hạnh, Minh-Không giúp. Hai ngài hứa giúp. Minh-Không dùng thuốc trị bệnh cho Hầu. Còn Đạo-Hạnh dặn hầu rằng khi phu nhân lâm bồn thì báo cho ngài biết. Đến ngày phu nhân trở dạ, Hầu sai người cáo với ngài. Ngài tắm rửa, thay áo, rồi vào hang núi xuất hồn nhập vào xác thai nhi. Phu nhân sinh một trai đặt tên là Lý Dương-Hoán. Dương-Hoán được vua Lý Nhân-tông nhận làm con nuôi, sau được nối ngôi, tức vua Lý Thần-tông (1128-1138) (Xác này khi Trương Phụ sang đô hộ Đại-Việt đã đem đốt đi).



Khi lên ngôi, vua Thần-tông cho xây chùa để tưởng niệm kiếp trước của mình. Trong chùa thờ ngài Từ Đạo-Hạnh mặc áo vàng, thờ luôn cả vua Lý Thần-tông ngồi trên ngài. Hằng năm vào ngày 7-3 Âm-lịch là ngày kỷ niệm Ngài hóa. Trước hết là nghi lễ tắm tượng, sau đó rước bài vị Ngài sang xã Yên-quyết, Dịch-vọng, rồi diễn lại tích Ngài đánh nhau với Đại-Điên.



Độc giả có thể đọc các sách chữ Hán dưới đây để tìm hiểu thêm về ngôi chùa này:



- Thiền-uyển tập anh.



- Hoàn-long huyện chí.



- An-lang Chiêu-thiền tự.



- Hà-nội địa dư.



- Ngoại truyền kỳ lục.



- Bắc-thành địa dư chí lục.



- Thăng-long cổ tích khảo.



- ĐNNTC.



- Hoàng-Việt địa dư chí.



- La-thành cổ tích vịnh.



- Bắc-kỳ giang sơn cổ tích.



Chùa Láng hay Chiêu-thiền tự



Cổng Tam Quan



Tượng vua Lý Thần Tông tại Chiêu Thiền Tự



Nhà Bát giác trong sân chùa