Nam Quốc Sơn Hà

Chương 37 : Đường về đất tổ

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Niên hiệu Thái-Ninh thứ tư, đời vua Lý Nhân-tông của nước bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ tám đời vua Tống Thần-tông bên Trung-nguyên, tháng chạp, ngày Đinh-Dậu (10 tháng chạp Ất-Mão, DL. 10-01-1076).



Trong đại bản doanh của quân Đại-Việt, đóng cách thành Ung-châu hai trăm dặm về phía Nam. Chư tướng cánh quân thứ nhất của Đại-Việt, phạt Tống đều tề tựu. Trên trướng, ngồi giữa là Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản với phu nhân Ngô Cẩm-Thi, bên trái là công-chúa Thiên-Ninh, bên phải là Vũ-kị đại tướng quân Hà Mai-Việt. Tiếp theo các tướng, theo thứ tự ngồi gồm Long-biên ngũ hùng cùng năm vị phu nhân, Tuyết-sơn thập anh, tám tướng Bắc-biên chỉ huy tám đội binh Long, Phong, Hầu, Ưng, Ngao, Tượng, Hổ, Báo, các tướng chỉ huy Thạch-xa, Thần-nỏ.



Long-thành ẩn-sĩ Tôn-Đản xoa tay vào nhau, hỏi chư tướng:



– Kể từ khi khai chiến đánh Cổ-vạn ngày 15 tháng chín, cho đến nay, xấp xỉ đã ba tháng. Trong ba tháng đó, chúng ta cho quân nghỉ ngơi, thao luyện, cùng nghiên cứu tình hình trước khi tiến xa hơn. Bây giờ chúng ta chuẩn bị đánh Ung-châu. Chư tướng có ý kiến gì không?



Đô-thống Vũ Quang hỏi:



– Thưa sư thúc, đệ tử được sư phụ (ghi chú: chỉ Khai-Quốc vương) dạy rằng: Binh qúy hồ tốc. Phàm phép dụng binh, ai ra tay trước thì nắm được tiên cơ thắng lợi. Thế sao sau khi ta chiếm được các thành Nam phòng của Tống, lại không thừa thế chẻ tre tiến lên đánh Ung-châu ngay, mà để cho đến nay mới khởi sự? Vì ta chậm chạp, mà nảy sinh ra ba điều khó khăn vô cùng tận.



Nhìn qua sắc diện chư tướng, thấy dường như họ đều đồng ý với Vũ Quang; Tôn Đản hỏi:



– Theo đô-thống, năm khó khăn của ta là gì?



– Thưa sư thúc, khó khăn thứ nhất là tướng trấn chủ. Tướng trấn thủ Ung-châu tên Tô Giàm, vốn xuất thân tiến sĩ, võ công bình thường, nhưng là người văn mô vũ lược, can đảm khó ai bằng. Giàm từng trấn thủ Nam thùy Tống hơn ba mươi năm qua, nên y nắm rất vũng tình hình Đại-Việt ta. Thời vua Thái-tông, khi Nùng Trí-Cao khởi binh, tài trí như Quảng-Đông ngũ cái, cũng bại về tay y. Thế mà nay ta đánh biên giới rồi dùng quân lại, tất y củng cố đề phòng rất nghiêm mật. Đó có phải là điều tự ta tạo lấy khó khăn không?



– Đúng thế!



Tôn Đản hỏi: Còn điều khó khăn thứ hai?



– Thành Ung là bản doanh chỉ huy tất cả lực lượng Nam-thùy Tống, trong thành có hai đạo binh triều 29, 30, một sư kị binh 40. Các đạo binh này do Kinh-Nam vương huấn luyện, từng tham dự các trận đánh với Tây-hạ nến rất thiện chiến, thếm vào đó ba vạn bảo-binh, cộng sáu vạn người. Trong binh pháp, cứ một thủ thành thì phải mưởi mới đánh nổi. Đối diện với sáu vạn binh thủ, ta lấy đâu ra sáu mươi vạn mà đánh? Đã vậy, còn chậm chạp, giúp Tô có thêm thời gian chuyển một số quân ở trấn xung quanh về. Y lại tùng quyền bắt tất cả trai tráng xung quân; bởi thế số người trấn trong thành Ung nay lên tới hơn mười vạn. Đó có phải là ta chậm chạp mà nảy sinh ra khó khăn này không?



Ghi chú,



Về quân số thủ thành Ung, các sách chép bất nhất. Có sách chép 2.800 người. Có sách chép năm vạn, có sách chép sáu vạn. Nhưng cuối cùng tất cả đều chép giống nhau rằng, quân Lý vào thành giết sáu vạn người.



– Tống-sử quyển 446 ghi rõ: Quân Việt xếp đầu ngưởi thành đống, mỗi đống một trăm đầu, cộng 580 đống.



– Quách-thị Nam-chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, Tống-triều công thần bi ký chép giống nhau: Quân trong thành Ung có sáu vạn người gồm đạo binh 29, 30 đạo kị-binh 40, ba vạn bảo-binh, và bốn vạn dân binh. Tổng-cộng mười vạn người thủ thành.



Vì vậy, tôi chép là mười vạn.



– Được lắm! Nhận xét như vậy thực đáng tài đại tướng. Còn khó khăn thứ ba?



– Thành Ung xây bằng đá ong, vừa cao, vừa chắc. Hào vừa rộng, vừa sâu. Với ba tháng nghỉ ngơi, chần chờ của ta khiến cho Tô-Giàm đã đào hào thêm rộng, thêm sâu; đặt bẫy đặt chông thực nhiều. Y lại cho đắp thành thêm cao, đem gỗ đá vào, chế thêm cung nỏ. Bây giờ ta mới tiến đánh, có phải tự ta tạo thêm khó khăn cho ta không? Vậy sư thúc định thế nào, xin dạy cho bọn hậu bối các cháu.



Tôn Đản chậm rãi trả lời:



– Cháu đừng lo. Ta đã hội với thái-hậu, với nguyên-soái Thường-Kiệt, rồi đưa ra ý kiến rằng: Binh-pháp có muôn hình vạn trạng, ta không thể dùng một số phương-pháp nào đó mà áp dụng cho toàn thể. Này cháu! Binh bất yếm trá! Phàm dụng binh phải biết lừa địch. Khi địch cho rằng ta khôn, thì ta phải làm ra dại. Khi địch cho rằng ta dại, ta phải làm ra khôn. Người chỉ huy quân đối đầu với ta là Lưu Di. Từ khi xuống trấn Lưỡng-Quảng đến giờ, Lưu thường khinh ta là man di, mọi rợ, không biết lễ nghi phép tắc, tức y tưởng ta dại. Cho nên ta khôn bằng cách đánh úp hàng rào mười hai ải Nam biên của y, lại chiếm Khâm, Liêm châu. Tin này đưa về triều thì từ Hy-Ninh đế, Vương An-Thạch cho rằng ta quá khôn. Bây giờ ta phải làm ra dại, thì mới thành công. Vì vậy ta mới dừng quân lại, để tỏ ra dại, khiến chúng sinh ra nghi ngờ. Trong phép dụng binh, điều tối kị là trì nghi bất quyết của tướng. Bây giờ chúng đang hoang mang, ta dễ dàng thắng chúng.



Vũ-kị đại-tướng quân Hà Mai-Việt hỏi:



– Xin tiên sinh cho biết mục đích của ta khi giả dại để làm gì?



– Lão-phu xin vì các vị mà nói. Mục đích của cuộc tiến quân này là gì? Ta có cần chiếm đất không? Ta có cần khai chiến với toàn thể Trung-nguyên không? Trước hết chư vị phải hiểu rõ về mục đích cuộc tiến quân. Cuộc tiến quân có hai mục đích, mưc đích gần là phá từ trong trứng nước cuộc chuẩn bị đánh ta của Tống; do vậy phải chiếm các kho tàog chứa lương thảo, thành trì khắp Nam biên, làm cho Tống khó có thể tập kích ta. Mục đích này ta đã thành cống rồi. Bao nhiêu lương thảo bị chiếm, phát cho dân; bao nhiêu vũ khí chở về Đại-Việt hết; bao nhiếu thành trì, cầu cống đường xá bị phá hết rồi. Mục đích thứ nhì là phá bỏ Tân-pháp. Việc này thì đâu có thể làm ào ào một lúc, mà phải làm từ từ. Khắp vùng ta chiếm được, phải cử người về từng trang, từng ấp chứ? Phải nghiên cứu, chia lại ruộng đất cho đều, bằng bất công thì có khác gì lấy bạo tàn thay bạo tàn không?



Ông mỉm cười:



– Nhưng giờ này, từ Hy-Ninh đế, Vương An-Thạch cho đến Khu-mật viện Tống đều tưởng chúng ta tiến quân chiếm lại cố-thổ như thời vua Trưng, như Nùng Trí-Cao. Họ đang nghĩ rằng, ta sẽ tiến quân lên chiếm Quảng-châu, Ung-châu, rồi vượt Ngũ-lĩnh chiếm Trường-sa. Do đó họ không giám đem quân từ Kinh-châu về cứu Khâm-châu, Liêm-châu như đã cho Địch-Thanh làm hồi trước. Họ cũng không dám đem quân Trường-sa vượt Ngũ-lĩnh cứu Ung-châu. Thế nhưng ta để ba tháng không tiến quân, họ cho rằng ta ngu, nên họ mới dùng cái thành Ung kiên cố để nhử ta đâm đầu vào vách đá, đợi cho ta hao binh, tổn tướng rồi mới phản công. Trong tâm, họ quyết ta không đủ quân số đánh thành này. Vì chủ quan, họ quên mất địa thế thành Ung ở vào vùng đất quá cao, trong thành nhiều quân, đông dân. Ta chỉ việc khơi lạch cho nước chảy đi hết, thì quân dân trong thành sẽ chết khát.



Chư tướng vỗ tay hoan hô.



Ngô Cẩm-Thi tiếp lời:



– Các vị có thấy không? Ta có năm hiệu Thiên-tử binh, với hiệu kị-binh, quân số chưa quá sáu vạn người, lại đi đường xa mệt mỏi, mà đến đây hơn ngày rồi Tô Giàm cũng không dám đem quân ngưng chiến, thì rõ ràng y nhử ta đánh thành, để ta mua lấy cái thất bại. Ta biết rõ ý đồ của Tô là không xuất khỏi thành đánh ta, thì ta cũng không cần đánh thành vội. Hiện tại Quế-châu có ba đạo binh triều mang số 1, 2, 3 và đạo kị-binh 47. Kinh-châu còn đạo 19, 35. Khi ta vây Ung-châu gấp, ắt Lưu Di cho ba đạo binh 1, 2, 3 và kị binh 47 xuống cứu. Các đạo binh này nhất định phải đi qua núi Đại-giáp, Hỏa-giáp nằm trên đường từ Quế-châu đi Ung-châu, Tân-châu.



Bà chỉ Vũ Quan, Võ Kim-Loan, Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh:



– Ta phải chuẩn bị chặn đánh cánh quân tiếp viện này. Vậy hai đô-thống đem hiệu Quảng-thánh, Quảng-vũ, một lữ Thạch-xa, một lữ Nỏ-thần, một lữ thú, đội Thần-tiễn Long-biên phục ở núi Đại-giáp để chặn lại.



Đô-thống Phạm Dật hỏi:



– Thưa sư thúc, ta chỉ có hai hiệu Thiên-tử binh mà phải chặn đánh ba đạo binh triều, một đạo kị-binh, e có nguy hiểm không? Hơn nữa, khi ta tiến quân mà phía sau thì thành Ung còn đó. Vạn nhất Tô Giàm cho xuất quân ra đánh cắt mất đường tiếp tế lương thảo thì nguy tai.



– Ta mong như thế.



Cẩm-Thi khẳng định: Nếu Tô xuất quân ra, thì bị trúng kế dụ hổi khỏi hang. Ta sẽ có cách làm cho y kinh hồn táng đởm đến không dám ra khỏi thành nữa. Các vị tưởng rằng ta chỉ có năm hiệu binh thôi ư? Không! Chỉ nội chiều nay bẩy hiệu binh của canh quân đánh Khâm, Liêm sẽ tới, ấy là chưa kể ba hiệu binh thuộc binh Lĩnh-Nam của Tín-Nghĩa vương bất cứ lúc nào cũng có thể nhập cuộc.



Vũ Quang, Hoàng-Nghi lĩnh mệnh rời trướng.



Tôn Đản ban lệnh tiếp:



– Bây giờ lợi dụng việc Tô Giàm không dám xuất thành, mà ta thì quân ít không thể tấn công, ta làm kế nghi binh, khiến cho lòng y nghi hoặc, quân sĩ mệt mỏi. Đợi khi nguyên-soái Thường-Kiệt tới, ta mới đánh thực sự. Vậy...



Ông mỉm cười:



– Phạm Dật, Lê Kim-Liên đánh cửa Tây; Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên đánh cửa Nam; Trần Ninh,rần Ngọc-Hương đánh cửa Đông. Hà Mai-Việt đánh cửa Bắc. Ngày mai, giờ Thìn bắt đầu khai pháo.



Kim-Liên kinh ngạc:



– Trình sư thúc, như vậy là ta đánh thành chứ đâu phải gây hoang mang?



– Sư-thúc chưa nói hết. Ta chỉ đánh cầm chừng thôi. Đến đêm thì rút ra xa cho binh sĩ nghỉ ngơi, nhưng vẫn phải cho Thần-ưng, Thần-ngao tuần tiễu đề phòng chúng cướp trại. Sang ngày thứ nhì, thì chỉ mình Phạm Dật, Lê Kim-Liên công phá cửa Tây; ngày thứ ba Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên công phá cửa Nam; ngày thứ tư Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương công phá cửa Đông; ngày thứ năm Hà Mai-Việt công phá cửa Bắc.




– Không biết bọn chúng là ai? Tại sao đại náo điện Sùng-chính rồi lại ra đi? Tôi có đối chưởng với người đàn bà mặc áo tím, thì thấy y thị dùng võ công Sài-sơn của Giao-chỉ, giống hệt võ công của Yên-vương phi (Thiếu-Mai) nhưng công lực thấp hơn đôi chút.



Tào Dật ôm bàn tay sưng vù nói:



– Tôi ra chiêu bắt thích khách áo nâu, y đánh lại tôi một chưởng, tôi nhận ra chiêu số của y chính đại quang minh, rất lạ. Còn nội lực thì giống như Thiền-công Thiếu-lâm của tôi. Nói ra thực xấu hổ, trọn đời tôi chưa từng thấy ai luyện nội lực tới trình độ đó. Dường như y không có ác ý, nên y chỉ xử dụng có năm thành công lực, mà khiến cho tôi bị thương như thế này. Không lẽ bọn Giao-chỉ lộng hành đến vậy sao?



Chợt Tu Kỷ chỉ cho Vương An-Thạch:



– Dường như thích khách dán một tờ giấy trên lưng Vương đại nhân thì phải.



Nói rồi y lạng người tới lột tờ giấy trên lưng Vương trao cho y. Y cầm lên đọc:



« Võ-lâm Đại-Việt kính chào Vương tể tướng. Đa tạ Vương tể tướng thi hành Tân-pháp, làm cho dân Tống oán vua, thù quan. Nay nước Tống chia làm hai, thù nghịch, chém giết nhau, để Đại-Việt hùng mạnh lên. Ký tên: Thân Thiệu-Thái, Lý Mỹ-Linh, Lê Văn, Long-Nụt và Thần-vũ thập anh ».



Thạch run run gấp tờ giấy bỏ vào túi.



Bấy giờ các quan mới vội vàng xem trên người mình có giấy dán hay không. Ai cũng thở phào, vì mình không bị thích khách chiếu cố. Duy Lý Hiến, có tờ giấy dán ngay ở vành sau mũ, tờ giấy có chữ:



« Quan Điện-tiền chỉ huy sứ Lý-Hiến, không có hột nào, giống như gà thiến, mà lại thích gáy. Người đe trói chúng ta, lột quần áo đem phơi ở chợ, lát nữa chính người sẽ tự lột quần áo cho các bạn đồng liêu coi để làm trò chơi cho vui ».



Lý Hiến nổi giận cành hông, y vò nát tờ giấy ra vứt xuống đất rồi về chỗ đứng.



Vương An-Thạch cười nhạt:



– Gian nhân đánh trộm, không phải anh hùng.



Chợt Lý Hiến hét lên, rồi y đưa tay gãi mặt, cào cấu khắp thân thể. Mọi người đều thấy bàn tay, mặt y sưng vù, nước vàng rỉ rỉ chảy ra. Y gào lên:



– Ngứa quá! Ngứa chết đi thôi.



Rồi y ngồi xuống nền điện xé tung quần áo ra mà gãi. Phút chốc người y thành trần truồng. Yên Đạt vội sai thị-vệ lấy khăn cuốn quanh người y đem ra khỏi điện.



Văn Ngạn-Bác thở dài:



– Bởi ban nãy Lý hăm bắt võ lâm Giao-chỉ lột quần áo đem phơi ở chợ, nên bị họ phạt để làm trò cười. Cái ngứa chắc chỉ trong chốc lát thì hết.



Tu Kỷ quỳ gối:



– Tâu bệ hạ, thì ra đây là bốn Thái-sơn Bắc-Đẩu võ lâm Lĩnh-Nam, bọn thần thực không phải đối thủ của chúng. Mong bệ hạ đại xá.



Triều Tống lại bàn về chiến cuộc Nam-thùy. Văn Ngạn-Bác nhắc lại câu hỏi về các ải Nam-thùy bị chiếm mất.



Vương An-Thạch lắc đầu:



– Khu-mật viện chưa nhận được tin đó. Có lẽ là tin đồn mà thôi. Tuy nhiên tôi sẽ cho coi lại. Vì tin tức từ Nam-thùy đến Quế-châu mất hơn tháng. Tin từ Quế-châu về kinh ta hơn tháng nữa. Có thể tin tức chưa tới, hoặc giả không có chuyện lớn lao như vậy. Xin quan Đại tư-đồ không nên nghe tin phao vu đồn nhảm. Có thể tin này do gian tế Giao-chỉ phao ra làm loạn long dân mà thôi.



Văn Ngạn-Bác dem ra hai tờ hịch của Đại-Việt, một do Tín-Nghĩa vương truyền ở Khâm-châu, một do Tôn Đản truyền đi ở các ải Nam thùy. Ông đọc lớn lên cho bách quan cùng nghe. Mỗi lời Văn đọc, như một mũi dao đâm vào tim Hy-Ninh đế và Vương An-Thạch. Đọc xong Văn Ngạn-Bác nói:



– Nào, Vương đại học sĩ có còn cho là man dân đánh nhau nữa không? Cứ như hai bài hịch này, thì cuộc tiến công rõ ràng do triều đình Giao-chỉ chủ trương.



Ngay lúc đó quan Sùng-chính điện đại học-sĩ kiêm Khu-mật viện phó-sứ Trương Thành-Nhất thuộc Tân-đảng của Vương An-Thạch từ ngoài bước vào điện quỳ tâu:



– Muôn tâu bệ hạ.



Trên từ Hy-Ninh đế cho đến bách quan, thấy nét mặt Trương tái ngắt, lời tâu đứt đoạn, thì biết rằng có sự gì ghê gớm lắm đã xẩy ra.



Trương Thành-Nhất tâu dõng dạc: Tin ngựa trạm từ Quế châu chuyển về cho biết rằng ngày Mậu-Dần, 20 tháng 11, quân Việt chiếm Khâm-châu cùng các ải Như-tích, Để-trạo, Như-hồng, Thiên-long. Các tướng trấn thủ kẻ bị bắt, người bị giết. Ba ngày sau, ngày Mậu-Thìn, 22 tháng 11 đến lượt Liêm-châu bị mất. Quân Việt chia làm ba cánh. Một cánh từ Khâm, Liêm do Lý Thường-Kiệt chỉ huy theo đường Đông-Tây; một cánh từ Cổ-vạn, Hoành-sơn, Tây-bình do Tôn Đản chỉ-huy tiến theo đường Nam-Bắc... để đánh Ung-châu. Một cánh từ Liêm-châu tiến đánh các châu Dung, Nghi, Bạch do Lý Chiêu-Văn chỉ huy. Hiện thành Ung đang bị vây. Các châu Dung, Nghi, Bạch đã bị chiếm; Đô tuần-kiểm Phan Nhược-Cốc, Chỉ-huy sứ Vương-Đạt, Tào Quăng tử trận. Dường như quân Việt đang chuẩn bị vượt Ngũ-lĩnh đánh Trường-sa.



Trong Sùng-chính điện có hơn năm trăm người, mà im phăng phắc, không một tiếng động. Hy-Ninh đế, Tể-tướng Vương An-Thạch chết lặng chưa nói lên lời, thì một đại thần trong hàng văn quan lên tiếng:



– Thần kiểm hiệu Thượng-thư tả bộc-xạ, Trung-thư lệnh, Võ-minh quân tiết độ sứ, Khu-mật viện sứ, Nam quốc công Phú Bật xin tâu: Gần đây trong triều thì bách quan không được thông báo gì về tình hình Nam biên, thế mà trong dân chúng thì tin đồn thực mau. Nay tình hình đã nguy ngập, thần giám xin bệ hạ cho tóm lược mọi biến cố Nam thùy, để cùng đình nghị.



Nhà vua tuyên chỉ:



– Được, Trương đại học sĩ hãy tóm lược mọi biến cố Nam thùy trình cho bách quan cùng nghe.



Trương Thành-Nhất đứng dậy trình bầy tỉ mỉ việc Hy-Ninh với Vương An-Thạch mật chỉ cho Thẩm Khởi, Lưu Di luyện quân, đồn trữ lương thảo mấy năm qua để chuẩn bị đánh Đại-Việt, rồi sau đó đánh Chiêm, Lào, Chân, Xiêm, Lý như thế nào. Rồi quân Đại Việt đánh Cổ-vạn hầu lừa Lưu Di, triều đình để rồi sau đó đánh hết các ải Nam thùy. Cuối cùng Đại-Việt đổ quân đánh úp các ải xung quanh Khâm-châu, rồi công Khâm, Liêm. Hạ Khâm, Liêm, quân Việt tiến về vây Ung-châu ra sao.



Sau khi Trương trình bầy, triều đình Hy-Ninh mới cảm thấy tất cả cái chua chát, chán nản rằng nhà vua với Vương An-Thạch âm thầm làm những việc kinh thiên động địa ở Nam-thùy, mà họ bị gạt ra ngoài, không biết mảy may gì cả. Bây giờ, chính những việc đó, đưa đến chiến tranh, mà nhà vua vẫn dấu, để đến nỗi mất liên tiếp hơn hai mươi ải, chín châu, việc mới vỡ lở. Quần thần bàn cãi mặc quần thần, nhà vua bỏ ngoài tai, trong thâm tâm tự nhủ thầm:



– Ta với Vương An-Thạch dùng Tân-pháp với chủ đích làm cho nước giầu dân mạnh. Trong khi đó bọn Giao-chỉ lại chủ trương làm cho dân giầu nước mạnh, tức là ngược với ta. Ta cũng biết rằng quốc-sách Giao-chỉ khó hơn, lâu có kết quả hơn, nhưng khi đã có kết quả thì vững chắc vô cùng. Muốn vượt Giao-chỉ, ta cần đi mau, nên mới dùng Tân-pháp. Dùng Tân-pháp thì mau có kết quả, nhưng phải cái nó vượt ra ngoài Tam-hoàng, Ngũ-Đế, và những gì các triều đại trước đã làm, thành ra bị chống đối. Bình tâm mà xét, Tân-pháp của Vương có khác gì những cải cách của Đại-Việt đâu? Thế mà dân Đại-Việt không chống đối. Bây giờ ta hãy cứ giữ nguyên Tân-pháp. Nếu như trận chiến này ta thắng thì sẽ tuyên chỉ rằng nhờ Tân-pháp. Còn như ta bại, thì ta cách chức Vương An-Thạch là xong. Còm Lưu-Di, y nhận mật chỉ từ ta, nhưng khẩu thiệt vô bằng. Nay ta tạm cách chức y, nếu cần thì mượn cái đầu y, đổ tội cho y giả mật chỉ, thế là xong.



Nghĩ thế nhà vua hỏi:



– Việc đã xẩy ra như vậy, bây giờ các khanh nghị nên giải quyết ra sao?



Cần-chính điện đại học sĩ Ngô Sung bàn:



– Khâm, Liêm mất đến nay vừa tròn một tháng, mà triều đình mới biết là do ta chưa lập ngựa trạm ở Nam-thùy. Nếu có ngựa trạm, thì tin tức chỉ trong vòng bẩy ngày đã tới nơi. Cứu binh như cứu hoả, vậy ngay ngày hôm nay phải giải quyết ba việc. Một là thiết lập ngựa trạm, để có tin tức. Hai là cử ngay mấy đại thần xuống Nam-thùy để thiết lập tổ chức hành doanh. Ba là điều động binh Kinh, Hồ (tức Kinh-châu, Hồ-Nam) tiếp viện cho Ung-châu. Sau đó mới nghị kế sách.



Ngô Sung là đối đầu số một của Vương An-Thạch. Nay Vương thấy việc làm của mình bất lợi, mà phải nhờ đến Ngô bàn kế cứu Ung-châu thì bực mình. Y nói cứng:



– Ngô huynh khỏi lo. Thành Ung có đến ba lợi thế, quyết Giao-chỉ không thể đánh được. Một là, thành Ung lớn, là lỵ sở chỉ huy phòng vệ Nam thùy, thành cao, hào sâu, tường xây bằng đá ong dầy đến mười thước (2,5 m ngày nay). Hai là trong thành chứa lương thảo đầy đủ, quân trấn nhậm tới mười vạn. Binh thư nói, một người thủ, phải mười người đánh; Giao-chỉ lấy đâu ra trăm vạn quân mà đánh? Ví dù chúng cố đánh, thì có khác gì tự tử không? Ba là An-vũ sứ Quảng-Tây Lưu Di trí lự hơn đời, y có ba đạo quân triều số 1, 2, 3 với đạo kị binh 47. Có lẽ Lưu chờ cho quân Giao đánh thành Ung mệt mỏi, tổn thất nhân mạng thực nhiều, rồi mới cho các đạo trừ bị đánh xuống.