Nam Quốc Sơn Hà

Chương 38 : Giao-chỉ Ngũ Kiêu

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Giữa lúc Tống triều chia phe tranh cãi suốt ngày này qua ngày khác, thì chiến cuộc Ung-châu đang diễn ra cực kỳ khốc liệt.



Theo lời đề nghị của quân-sư Tôn Đản, nguyên-soái Lý Thường-Kiệt trao việc chỉ huy công thành cho đô-thống Trần Di. Lập tức Di họp Tây-hồ thất kiệt, Long-biên tam hùng lại để nghị kế. Trần Di hỏi:



– Từ trước đến nay, chúng ta đã học công-kiên pháp. Công-kiên pháp có rất nhiều: Dùng máy bắn đá, dùng cung thủ bắn tỉa, đào hầm xuyên vào trong, khơi nước làm lở thành, dùng tên lửa đốt dinh thự kho lẫm, bắc thang leo vào. Nay thành Ung quá kiên cố, tường cao, hào sâu, các phương pháp trên đều vô hiệu. Vậy anh em có ý kiến gì không?



Lý Đoan là thầy thuốc, chàng đưa ra một ý kiến:



– Trước hết phải làm sao cho quân ta khỏi mệt, gây cho quân địch mệt mỏi đã. Làm cho quân ta khỏi mệt, ta chia lực lượng làm ba đạo, một đạo tấn công, một đạo nghỉ hoàn toàn, một đạo nghỉ một nửa. Vậy trong mười hiệu Thiên-tử binh với hiệu kị-binh, ta chia thành ba đạo, mỗi đạo ba hiệu; mỗi ngày một đạo công thành, một đạo nghỉ. Đó là lực lượng tấn công và nghỉ hoàn toàn.



– Như vậy... Ta.. ta.. còn.. còn hai hiệu nữa để làm gì?



– Điếc hay hóng, ngọng hay nói.



Lý Đoan méo mặt trêu Dương Minh: Ta đã nói hết đâu? Còn đạo thứ ba chỉ có hai hiệu thôi. Trong khi ba hiệu tấn công, ba hiệu nghỉ thì hai hiệu này nghỉ một nửa tức ứng trực, phòng quân trong thành đánh ra có thể tham chiến ngay.



Đô-thống Ngô Ức hỏi:



– Kế này được quá. Vậy còn phương pháp làm cho quân Tống mệt mỏi?



– Thì chính việc ta vừa đánh vừa nghỉ hẳn, vừa nghỉ một nửa... Nên ta có thể đánh hoài không mệt, mà quân Tống cứ phải lo chống đỡ, nên chỉ mấy ngày chúng sẽ mệt lả.



Thế là cuộc chia quân công thành được áp dụng. Quả nhiên ngày thứ nhất quân Tống chống trả rất hăng, sang ngày thứ nhì bắt đầu chùn nhụt. Đến ngày thứ ba thì mệt nỏi vô cùng. Nhưng sang ngày thứ tư, thì sức chống trả lại hăng hái như ngày đầu. Lập tức Trần Di cho họp anh em nghị kế.



Quách Y xoa tay vào cái đầu hói bóng như quả dưa:



– Tôi thấy phương pháp của Lý Đoan làm cho quân mình khỏe thì thực tuyệt diệu. Nhưng còn làm cho địch mệt thì chỉ hữu hiệu có ba ngày. Vậy bây giờ ta phải làm gì?



Tạ Duy dơ tay lên nói. Trần Di cười:



– Duy có cao kiến gì?



– Tao lùn như con vịt, thì chỉ có ý kiến vịt mà thôi. Tên tướng thủ thành là Tô Giàm, nó khôn như cáo già. Sau ba ngày ta công thành vào giờ Thìn, nghỉ vào giờ Mùi, nó nhận ngay ra sơ hở của ta. Lập tức nó dùng toàn lực chống trả vào lúc ta đánh thành. Còn vào giờ khác, thì chia toán ra canh chừng. Vì vậy quân nó khỏe re hà!



Vợ Triệu Thu là Phương-Liễu đề nghị:



– Hồi còn bé mỗi khi em phạm tội gì, mẹ em thường kết tội rồi tuyên phạt đánh bao nhiêu roi. Nhưng người không đánh ngay, thành ra em luôn luôn lo sợ không biết bao giờ thì bị đòn. Rồi khi người đánh đòn, người cứ dơ roi mà kể tội, trong khi em cong mông lên sợ hãi, mà không biết bao giờ cái roi quất xuống. Bây giờ muốn cho quân Tống mệt, ta hãy là bà mẹ, còn quân Tống là đứa trẻ bị phạt. Như vậy ắt chúng mệt nhừ tử ngay.



Phạm Dật vui vẻ:



– Hay, không ngờ hoàng-hậu của Mai Hắc-đế lại nghĩ ra được phương pháp hay đến như vậy. Ngay ngày mai ta áp dụng. Vậy thì thế này: Ta vẫn giữ nguyên việc chia toán, nhưng còn giờ công thành thì thay đổi. Khi thì ta công vào buổi sáng, khi thì ta công vào buổi chiều, khi thì ta công vào nửa đêm; lại có khi ta công liên tiếp mấy ngày mấy đêm. Chúng sẽ không biết đâu là thực đâu là hư, như vậy chỉ mấy ngày là mệt hết thở nay.



Kế này quả nhiên hữu hiệu. Sau năm ngày công thành, làm cho quân, dân binh thủ thành luôn luôn kinh hoàng, phập phồng lo sợ. Hôm ấy tới lượt hiệu Bảo-thắng, Hùng-lược, Vạn-tiệp công thành. Hai hiệu Ngự-long, Đằng-hải làm trừ bị. Ba đô-thống Quách Y, Ngô Ức, Tạ Duy cùng Phương-Tiên, Phương-Dược, Phương-Quế dự định công thành vào giờ Tý (nửa đêm). Đúng giờ, sáu người cho quân phát pháo bắn đá lên thành, rồi bộ binh reo hò xung phong. Quân thủ thành giật mình thức dậy, mặc giáp trụ, mang vũ khí ra vị trí phòng thủ. Đuốc đốt lên sáng rực, trong khi cơ thể rã rời.



Quách Y cỡi ngựa cùng toán thần-tiễn Long-biên đi vòng quanh thành, cứ thấy quân Tống nhô đầu lên là bắn ngã. Khi đến cửa Đông thì gặp Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương đang cho hiệu Đằng-hải mang tre đến. Quách Y hỏi:



– Hôm nay bọn mi nghỉ một nửa, sao không nghỉ, mà làm gì đây?



Ngọc-Hương nhỏ nhẹ:



– Chúng mình công thành, nhưng thành cao tới bốn trượng (8 m ngày nay) thành ra không biết tình hình bên trong. Em cho làm một cái đài bằng tre gọi là trúc đài, cao tới mười hai trượng (24m), để mình leo lên quan sát tình hình địch, như vậy đánh mới kết quả.



Lát sau, bốn cái đài được dựng lên bằng những khúc tre ngắn nối với nhau, đặt ở bốn góc thành. Các tướng chỉ huy leo lên lên cao quan sát. Nhưng trong đêm, nhìn không rõ. Sáng hôm sau, trong buổi họp, Trần Di hỏi anh em:



– Hôm qua ông bà Trần Ninh chế ra cái thang có thể nhìn vào trong thành. Vậy anh chị em có ý kiến gì không?



Lê Kim-Loan đề nghị:



– Sáng nay em đã leo lên bốn cái thang ở bốn cửa thành nhìn vào, rồi vẽ được bản đồ dinh thự, kho lẫm, nhà cửa. Thì ra từ trước đến giờ, mình dùng Thần-nỏ bắn đại-tiễn tẩm dầu, đốt lửa bắn vào đều là bắn hú hỏa, nên không gây kinh hoàng cho địch. Vậy đêm nay ta leo lên thang, chỉ huy đại nỏ bắn vào mới chính xác.



Đêm hôm ấy, đến lượt ba hiệu Vũ-thắng, Long-dực, Thần-điện công thành. Hiệu Ngự-long, Đằng-hải trừ bị. Trần Di, Dương Minh, Triệu Thu cho khởi sự vào giờ Dậu (19-21 giờ). Đúng giờ, Thạch-xa bắn đá, bộ binh reo hò bắc thang leo lên. Trống thúc vang dội, quân reo rung động trời đất. Cuộc tấn công đến giờ Sửu (1-3 giờ sáng), thì đại-nỏ khai hỏa bắn vào. Những mũi tên bằng tre, to hơn bắp tay, ruột chứa nhựa cháy, đầu quấn bông tẩm dầu; châm lửa bắn bay bổng lên cao thành những vệt đỏ như con rồng lửa sáng rực bầu trời thành Ung. Các đội trưởng Thần-nỏ đứng trên đài điều chỉnh cho xạ thủ bắn. Tại cửa Đông, Trần Minh, Phương-Lý thân điều chỉnh cho các dàn đại-nỏ. Mũi thứ nhất rúng vào khu vườn hoang. Phương-Lý hô:



– Xa hơn khoảng chín trượng, lùi về bên trái ba trượng nữa.



Mũi thứ hai trúng ngay vào khu nhà của quân Tống và gia đình ở. Lập tức lửa bốc cháy ngụt trời.



Phương-Lý hô:



– Trúng rồi, cứ thế mà bắn.



Lát sau hơn hai chục mũi khác đều trúng đích. Cả một khu nhà chìm trong biển lửa, ánh sáng rực trời. Trong khi quân lính hò hét chữa cháy, thì dân chúng bồng bế dắt díu nhau rời khỏi nhà. Những ống tre gặp lửa nổ lốp bốp, mỗi lần nổ lại tung những tàn ra xung quanh.



Tại cửa Nam, Dương Minh, Phương-Cúc chỉ huy bắn trúng vào dinh thự tổng-trấn. Khu này lại bốc cháy. Tiếp theo đại nỏ cửa Tây do Triệu Thu chỉ huy bắn trúng khu nhà dân chúng. Đại nỏ cửa Bắc do Phương-Liễu chỉ huy bắn trúng khu chứa lương thảo. Thế là thành Ung biến thành một biển lửa. Tiếng kêu khóc, hoà lẫn tiếng la hét gọi nhau ơi ới, tiếng rên la vọng ra như một cơn bão biển.



Giữa giờ khắc kinh hoàng của thành Ung ấy, thì Phạm Dật, Trần Ninh đem mười xe chở những ống luồng to bằng bắp chân, dài khoảng nửa trượng (1 m). Dương Minh hỏi:



– A ha! Hai bà chị thấy nỏ-binh mệt, thổi xôi lam mang đến tiếp tế hả? Cơm lam mà do bà chị Kim-Loan, Ngọc-Hương nấu thì tuyệt vời.



Ngọc-Liên xua tay:



– Không phải cơm lam đâu! Mà là Lôi-tiễn, bọn em mới chế ra, nay mang đến để các anh thử đấy!



– Lôi tiễn?



Phương-Cúc hỏi: Lôi tiễn là gì vậy? Khi học binh pháp mình đâu có nghe nói?



Kim-Loan bật cười:



– Binh pháp của các cụ đặt ra được, thì ta cũng biến chế đi được chứ? Lôi nghĩa là sấm sét, tiễn là mũi tên. Bọn em dùng ống luồng gồm có ba đốt, chẻ đôi ra. Đốt thứ nhất chứa nhựa cháy, đốt giữa chứa hoàng-thạch (lưu huỳnh), đốt thứ ba chứa dẻ tẩm dầu. Sau đó cột lại. Ta đốt lửa đầu có dẻ tẩm dầu, rồi dùng Thần-nỏ bắn vào thành. Khi Lôi-tiễn bay tới thành thì lửa cháy tới đốt chứa hoàng thạch. Hoàng thạch nổ tung, bắn nhựa cháy ra xung quanh. Như vậy, một mũi có sức công phá mạnh hơn đại nỏ tẩm dầu nhiều.



Triệu Thu khen ngợi:



– Hay thực, để ta thử xem.



Y rời trúc đài, đặt ba mũi Lôi-tiễn vào Thần-nỏ, đích tay châm lửa rồi hô:



– Bắn.



Nỏ binh giật dây, ba mũi Lôi-tiễn xẹt lên trời tỏa ánh sáng xanh-vàng-đỏ kéo dài trên không. Bọn Phạm Dật, Trần Ninh, Triệu Thu tung mình lên trúc đài quan sát. Vì mục tiêu quá xa, nên Lôi-tiễn còn đang bay trên không đã phát nổ. Ba tếng nổ lớn như sét đánh trên không trung, rồi ba trái cầu lửa mầu xanh lè chụp xuống ngay giữa chỗ tập trung quân phòng ngự. Hàng vạn viên lửa do nhựa cháy chụp xuống đám quân. Chúng la hét, chạy tứ tán.



Thế là Phạm Dật, Kim-Loan, Trần Ninh, Ngọc-Hương cho binh sĩ chở hai chục xe Lôi-tiễn tiếp tế cho Dương Minh, Trần Di, Triệu Thu nã vào thành. Có những Lôi-tiễn rơi xuống rồi mới phát nổ, có những Lôi-tiễn đang bay thì phát nổ, cũng có Lôi-tiễn tới mục đích rồi phát nổ. Tiếng nổ kinh thiên động địa, ánh lửa bốc lên sáng rực một bầu trời, đến nỗi những vùng cách xa đến hai mươi dặm cũng nhìn thấy.



Tiếng kêu làm cho Tôn Đản, Cẩm-Thi thức giấc. Không biết chuyện gì đã xẩy ra? Hai ông bà vội mặc quần áo, cỡi ngựa đến quan sát trận địa. Ông bà leo lên trúc-đài nhìn vào trong thành: Dưới ánh lửa sáng rực, thấy rõ cảnh bên trong. Chỗ này quân sĩ lăn mình vào chữa cháy, chỗ kia thì dân chúng kêu khóc thảm thiết. Cũng có người chạy không kịp, lăn lộn trong đống lửa. Đại-nỏ vẫn tiếp tục nã Lôi-tiễn vào. Mười Lôi-tiễn trúng ngay chỗ kho lương đang cháy, lập tức mười cột lửa nổ tung tàn lửa bay vọt lên cao, khiến cho hơn trăm người vừa già, vừa đàn bà, vừa trẻ con bốc cháy như cây đuốc.



Dù đã chinh chiến bốn chục năm qua, dù đánh dư trăm trận, dù lăn mình vào chỗ chết biết bao lần; nhưng ông bà Long-thành ẩn-sĩ vẫn không đủ can đảm nhìn cảnh đó. Ông bà vội xuống thang. Ông nhìn bà, bà nhìn ông, hai vị không nói với nhau một lời; nhưng trong cái nhìn ấy, chứa biết bao nhiêu lời nói, bao nhiêu đau xót.



Cuộc nã Lôi-tiễn tới sáng thì chấm dứt, nhưng khói lửa trong thành vẫn bốc lên ngùn ngụt.



Trưa hôm đó Phạm Dật họp Long-biên tam hùng, Tây-hồ thất kiệt, cùng các đội trưởng Thần-nỏ lại nghị sự.



Dương Minh suýt xoa:



– Sáng chế của hai anh Phạm Dật, Trần Ninh thực hiệu nghiệm. Hiện chúng ta có lệnh chỉ đánh cầm chừng, để hút viện quân tới. Bằng không ta chỉ cần nã một đêm nữa, thì trong thành không còn một người sống sót.



Triệu Thu góp ý:



– Anh Dật, Ninh này. Lôi-tiễn hay thực, nhưng nó chỉ hữu hiệu khi đốt kho tàng, dinh thự thôi. Tôi đề nghị anh chị chế ra bốn loại khác nhau!



Trần Di cũng đồng ý:



– Đúng! Loại Lôi-tiễn đầu tiên dùng để đánh phá kho tàng, dinh thự. Ta nên làm loại thứ nhì, trộn lẫn hoàng thạch với nhựa cháy. Loại này bắn lên trên không thì nổ, hoàng thạch sẽ tung nhựa chứa thành cái lơm lửa. Loại này dùng để bắn vào đội hình quân giặc.



Kim-Loan khen:



– Ý anh Di hay. Loại thứ ba chỉ chứa toàn dẻ tẩm dầu, dùng để đốt rừng, đốt nhà!



Triệu Thu chắp tay:



– Chịu bà chị. Loại thứ tư chỉ chứa toàn mã não, hoàng thạch. Loại này cần bắn lên thực cao, khiến nó phát nổ trên không. Tiếng nổ do mã não, hoàng thạch sẽ lớn vô cùng. Ta dùng để gây kinh hoàng cho địch.



Thế là Phạm Dật, Trần Ninh tập trung nỏ binh lại hướng dẫn chế tạo năm loại Lôi-tiễn. Ngay đêm đó, các dàn Thần-nỏ chia nhau "thí nghiệm" Lôi-tiễn. Thành Ung muốn nổ tung lên về những trái Lôi phát ra.



Cuộc nã đại nỏ sang ngày thứ ba thì quân thủ thành mệt mỏi đến không còn sức chống trả. Phạm Dật họp chư tướng lại, quyết định công thành liên tiếp ba ngày, sang ngày thứ ba sẽ tấn công thực sự vào thành. Kế hoạch được trình lên nguyên-soái Thường-Kiệt. Ông gọi Phạm Dật giảng giải:



– Nếu đánh như thế thì chiếm được thành. Chiếm được rồi, ta phá hủy thành, sau đó phải rút về. Nhưng tại Quế-châu, Tống còn ba đạo binh đệ 1, đệ 2, đệ 3 và đạo kị-binh số 47 ta vẫn chưa phá được. Vậy ta phải duy trì thành Ung, để nhử cho Lưu Di gửi bốn đạo binh kia tiếp viện cho ta diệt.



Ông ghé miệng vào tai Phạm Dật dặn mấy câu. Phạm Dật tuân lệnh, rồi ra họp chư tướng, quyết định ngừng nã hoả pháo.



Hôm sau Phạm Dật sai bắn thư của nguyên-soái Lý Thường-Kiệt gửi cho Tô Giàm. Đại ý thư nói, quân Việt là quân nhân nghĩa, nên tạm hưu chiến, lùi xa ba chục dặm, để quân Tống có thể tắm rửa, nghỉ ngơi, chữa trị thương binh; hoặc ra ngoài thành kiếm củi, mua lương thực. Thư cũng nói rõ: Chinh chiến, chém giết là giữa quân với quân, dân chung vô tội. Vậy Tô hãy cho dân chúng rời khỏi thành, để khỏi bị chết oan.



Khi nhận được thư, thì khi quân tướng Tống reo hò, mừng rỡ. Trong khi Tô Giàm tỏ ý nghi ngờ:



– Bọn Tôn Đản, Thường-Kiệt là những tên xảo trá khón lường. Chúng đành thành không được, nên giả nhân giả nghĩa, để ta không phòng bị, rồi bất thần tấn công đấy.



Nhưng quả nhiên quân Việt rút ra xa thực. Binh tướng Tống được nghỉ ngơi. Họ xin phép được ra ngoài thành kiếm củi, mua lương thực. Nhưng người đi thì nhiều, mà về thì chẳng bao nhiêu, bởi họ nhân dịp này đào ngũ hết. Tô sai thành lập một đội đao phủ, gồm toàn những thân binh trung kiên ra nấp ngoài thành, hễ bắt được người nào trốn là bắt đem chém liền. Hôm ấy, quả bắt được mười người bỏ trốn. Tô sai chém đầu, rồi đem đi bêu khắp các trại quân. Nhưng lần quân Việt hưu chiến sau, than ôi, chính đội đao thủ đi bắt đào binh lại bỏ trốn hết.



Quân Việt lại công thành.
– Võ công đôi nam nữ vừa rồi thực kỳ lạ. Nam ra chiêu Lôi-đả Ân tặc của phái Sài-sơn, nữ ra chiêu Phong-đáo sơn đau của phái Đông-a. Cả hai chiêu đều thuộc chính phái của Đại-Việt, nhưng nội công có đôi phần giống nội công Huyền-âm của phái Trường-bạch ở Liêu-Đông, lại phảng phất giống Hồng-thiết công của Hồng-thiết giáo.



Ôn Nguyên-Dụ than:



– Vua Thái-tổ triều Lý bên Đại-Việt xuất thân từ Thiền-môn, nên cực kỳ bài bác tà ma, tại sao trong quân Vệt lại có người xử dụng võ công Hồng-thiết giáo?



Sau hai giờ bị đau đớn hành hạ, Hứa, Vương trở lại bình thường. Thủ-Tiết họp các tướng lại nghị sự. Hứa Dự bàn:



– Phía trước tiến lên thì không nổi, phía sau rút về cũng không xong. Đóng ở đây, thì chiều nay quân sĩ hết lương thực, e ngày mai không chết trận mà chết đói hết. Bây giờ chỉ có cách đánh liều mạng phá vòng vây trở về Côn-lôn, rồi tính sau.



Thủ-Tiết đồng ý, y truyền cho Ôn Nguyên-Dụ mang đạo đệ nhất leo núi Đại-giáp mở vòng vây. Tiếp theo Trương Biện mang đạo đệ nhị, Hứa Dụ mang đạo đệ tam tiếp ứng. Đạo kị binh đi sau cùng.



Nguyên-Dụ trở về cho quân dàn trận, rồi tiến đến chân núi Đại-giáp.



Đường từ chân núi lên đỉnh khoảng sáu dậm (3 km), nhưng hẹp và dốc, nên quân chỉ có thể di chuyển theo đội hình dọc, mỗi hàng từ ba tới năm người. Tốt đầu tiên lên đến lưng chừng núi, thì một tiếng nổ rung động không gian, rồi một trái cầu lửa chụp xuống đầu toán tiền sát. Trống thúc vang lừng. Quân Việt từ các hốc đá, từ sườn núi dùng cung tên bắn ra. Trọn vẹn hai tốt đi đầu bị giết trong khoảng một khắc. Bốn tốt đi sau vội lùi trở xuống. Quân Việt chỉ reo hò, mà không đuổi theo.



Tuy kinh hoàng, nhưng bị lâm thế cùng, Ôn Nguyên-Dụ cho quân để tất cả hành lý dưới chân núi, chỉ mang vũ khí nhẹ, rồi dàn ra len lỏi theo cây cối mà tiến lên. Khi vượt qua khoảng hai phần ba sườn núi quân sĩ mệt thở dốc, thì quân Đại-Việt lại thúc trống, rồi dùng máy bắn đá bắn ra, đội thần-tiễn Long-biên núp trong các hốc đá, nhắm từng người mà bắn tỉa.



Khác với lần trước, tên đều nhắm trán, ngực quân Tống, nên ai trúng tên là chết ngay tại chỗ. Lần này tên lại trúng mông, đùi, vai, làm cho binh Tống ngã xuống, rồi la hét, kêu khóc đồng đội cấp cứu.



Quân bị thương, bị chết mặc quân, Ôn cứ thúc tiến lên. Hai quân đã giáp với nhau, cuộc giao tranh giữa kẻ trấn thủ và người mở đường máu cầu sống diễn ra cực kỳ khốc liệt.



Lý Đoan đứng trên một tảng đá lớn trấn ở đỉnh cao nhất, nơi có con đường băng qua, tay cầm ngũ hành kỳ, tù và, pháo thăng thiên để chỉ huy. Cạnh Đoan là Hùng Nghĩa với đội võ-sĩ dàn ra bảo vệ chúa tướng.



Dưới sườn, Ngọc-Liên cầm kiếm đứng ngay tuyến đầu đốc chiến. Cách nàng không xa, Âu Thanh cũng cầm kiếm chỉ huy một tuyến phòng thủ.



Quân Tống đông như kiến, dẵm lên xác đồng đội để leo núi, rồi xông vào chém giết. Nhưng quân Việt nhất định không lùi giữ nguyên vị trí.



Ôn Nguyên-Dụ thoáng trông thấy Ngọc-Liên đang đứng chỉ huy quân. Y tung mình lên chụp nàng. Ngọc-Liên kinh hoảng, đưa kiếm vào ngực y. Nguyên-Dụ lách tay một cái đoạt được kiếm của nàng, rồi túm áo nàng quật vào tảng đá. Nhưng y cảm thấy ngộp thở, vì phía sau y, một thiếu phụ mặc quần áo trắng sắc nước hương trời đang đưa kiếm vào cổ y, kình lực kiếm phát ra vo vo. Kinh hoảng, y đưa Ngọc-Liên ra đỡ kiếm. Nhưng mũi kiếm lách sang phải, trúng cùi chỏ y. Đau quá y buông rơi Ngọc-Liên xuống, rồi lộn đi hai vòng, tránh ba chiêu kiếm của người áo trắng. Ôn với người áo trắng quay tròn đấu với nhau, bất phân thắng bại.



Tuy suýt chết, nhưng khi vừa đứng dậy, Ngọc-Liên vẫn bình tĩnh chạy dọc theo tuyến đầu chỉ huy. Bấy giờ nàng mới kịp nhận ra người áo trắng là Âu Thanh.



Cuộc giao tranh vẫn tiếp diễn khốc liệt. Quân Tống tuy đông gấp ba quân Việt, nhưng một là mất tinh thần, hai là leo núi mệt, ba là võ công không giỏi như quân Việt, nên cuộc chiến vẫn ngang ngửa.



Thình lình có tiếng tù và thổi một hơi dài. Ngọc-Liên biết đó là biểu hiệu của đạo Ngự-long. Khoảng nửa khắc sau, có hàng trăm hàng ngàn tiếng chó sói tru, tiếng cọp gầm, tiếng beo rống. Rồi từ phía sau, đội Thần-báo, Thần-hổ, Thần-ngao do Phạm Dật, Lê Kim-Loan, Hùng Nhân, Âu Hoàng chỉ huy xông vào phòng tuyến. Trận tuyến quân Tống bị rối loạn liền.



Đứng trên cao, Lý Đoan nhìn rõ, lập tức chàng cầm cờ phất, đội Thấn-nỏ đổ đồi, vừa đi vừa bắn liên châu vào hông quân Tống. Thoáng một cái quân Tống đã bị đánh bật xuống đưới núi.



Lý Đoan thổi tù và ra lệnh thu quân. Chàng hỏi Phạm Dật, Kim-Loan:



– Anh chị tới tiếp viện vừa kịp, bằng không thì bọn em sẽ bị tổn thất nhiều lắm.



– Hôm qua, sau khi đánh cướp lương thảo của quân Tống, ta sai chim ưng báo tin cho Trung-Thành vương biết. Công chúa sai vợ chồng Hoàng-Nghi tới lĩnh tù binh. Người truyền lệnh cho ta đánh ải Côn-lôn, rồi đem quân đóng ở dưới chân núi Đại-giáp, bảo vệ lưng, cùng tiếp tế nước cho tứ đệ. Sáng nay, ta thấy Thần-ưng tuần thám báo cho biết tứ đệ, Ngọc-Liên đang giao chiến với địch. Ta vội rủ Kim-Loan đem thú binh lên tiếp ứng. Bây giờ chú tính sao?



– Em đã ra lệnh thu nhặt xác chết, cùng tù binh Tống, đem xuống núi trao cho họ. Anh nghĩ có nên không?



Hùng Nhân xua tay:



– Tại sao lại phải mất công trao trả xác chết với tù binh cho chúng?



Ngọc-Liên nói nhỏ:



– Sư huynh ơi! Về võ công thì sư huynh cao thực, nhưng sư huynh chưa quen chinh chiến. Để em nói cho sư huynh nghe. Binh pháp dạy rằng: « Bất chiến nhi khắc nhân chi binh, thiện chi thiện giả dã ». Nghĩa là: Không đành nhau, mà thắng được binh địch là người dùng binh giỏi trong những ngươi dùng binh giỏi. Nay ta chỉ mất chút công, đem xác chết, thương binh trả cho tướng Tống. Tướng Tống tất sai binh sĩ nhận mặt xác chết, rồi đào lỗ chôn cất. Lại nữa, họ phải sai binh sĩ trông coi chăm sóc thương binh. Như thế ta có ba điều lợi. Một là ta được tiếng nhân nghĩa. Hai là làm hao tổn nhân lực địch. Ba là binh sĩ địch thấy đồng đội chết, bị thương, sẽ mất nhuệ khí sẽ mất đi. Trong trận sau ta dễ thắng.



Nàng hỏi Âu Thanh:



– Gã Ôn Nguyên-Dụ đấu với sư tỷ thắng bại ra sao?



– Chúng ta đấu được trên trăm chiêu, thì cả hai cùng bị gẫy kiếm. Chúng ta quay ra đấu chưởng. Thực đáng nể, Dụ là cao thủ của phái Võ-đang, chúng ta đấu ngang tay. Cuối cùng đi đến đấu nội lực. Khoảng một khắc, nội lực ta yếu hơn, nên bị lùi bốn bước. Trong khi nguy cấp, ta tòng tâm phát Chu-sa huyền âm nội lực, rồi đánh bậy ba chưởng. Giữa lúc đó quân Tống lui binh. Đêm nay tên họ Ôn sẽ đau đớn đến chết đi sống lại vì Chu-sa huyền âm độc tố. Ta lấy làm lo sợ vô cùng, vì nếu vụ này đến tai sư phụ, ắt người phạt ta về cái tội dùng võ công tà môn.



Phạm Dật, Lý Đoan cho quân nghỉ ngơi, tuy nhiên dưới chân núi lúc nào cũng duy trì hai đội Ngao-binh, trên trời cho Thần-ưng canh phòng. Trận đánh tuy ác lệt, nhưng Thiên-tử binh tổn thất rất ít, vì hầu như mỗi người lính đều là một võ sĩ.



Phạm Dật họp các tướng lại để chuẩn bị chống trả cuộc đánh mở đường máu ngày mai của quân Tống. Sáu cặp vợ chồng, sau trận xung sát vào sinh ra tử, họ mới cảm thấy yêu thương nhau hơn.



Vừa lúc ấy có chim ưng mang lệnh của Trung-Thành vương tới. Sáu người lấy thư trong ống dưới chân chim ưng ra cùng nhau nghiên cứu.



«... Sau trận đánh vừa qua, đạo quân đệ nhất của Tống chỉ còn một phần ba, đạo đệ nhị còn một nửa. Đêm qua quân Tống bị Hoàng-Nghi, Phạm Dật quấy phá suốt đêm, mệt rã rời. Sáng hôm nay phá vòng vây không nổi. Đêm nay Trần Ninh, Ngọc-Hương sẽ đổ đồi, cướp trại, mục đích làm cho quân Tống mệt mỏi hơn nữa. Các hiền đệ cho quân ngủ sớm. Vì quân Tống tuyệt đường lương, bằng mọi giá, ngày mai chúng phải phá vòng vây. Vậy hãy cố gắng tránh giao tranh. Đợi đến chiều mai quân Tống đói rã ra, mới giao chiến ».



Sáu người cho quân đi ngủ sớm, rồi lên ngọn cây cao chót vót nhìn xuống vùng thung lũng Ngọc-tuyền chờ xem quân của Trần Ninh, Ngọc-Hương hành sự.



Rừng núi Đại-giáp chứa gần hai vạn người, mà không một tiếng động. Trên bầu trời, đội Thần-ưng vẫn bay lượn tuần phòng. Dưới sát chân núi, đội Thần-ngao gục mõm nằm ngủ, nhưng chỉ cần một con chồn, con cáo chạy qua, chúng cũng biết.



Sang giờ Tý, thình lình ba chiếc pháo thăng thiên từ phía Nam bay vọt lên trên không, rồi đèn đuốc sáng rực. Bọn sáu người nhìn rõ quân Việt chia làm hai cánh. Một cánh do Trần Ninh, Hùng Lễ chỉ huy, một cánh do Ngọc-Hương, Âu Huyền chỉ huy; đang đánh vào trại Tống. Hai bên giao chiến cực kỳ khốc liệt.



Khoảng nửa giờ sau, phòng tuyến quân Tống bị vỡ, quân Việt tràn vào trong. Cuộc chiến lại càng ác liệt hơn nữa.



Khoảng nửa giờ sau nữa, giữa lúc hai quân đâm chém kịch liệt, thì từ phía Đông, một chiếc pháo thăng thiên nổ trên không, tỏa ra hình con chim ưng xòe cánh, chân cặp hai thanh kiếm. Đó là lệnh lui quân của Trung-Thành vương. Lập tức Trần Ninh đánh ba tiếng chiêng lệnh, quân Việt đang reo hò, bỗng im bặt. Ngọc-Hương đánh ba tiếng chiêng lệnh tiếp theo, thoáng một cái, quân Việt đổi tiền đội ra hậu đội rồi vừa đánh trống vừa rút lui.



Không gian biến thành mầu tối, chỉ còn tiếng thương binh Tống rên khóc mà thôi.



Trương Thủ-Tiết cùng các tham tướng đứng trên một cái đài cao để quan sát chỉ huy. Y thấy quân Việt không làm bao, nhưng can đảm, kỷ-luật, dũng-mãnh, phối hợp nhịp nhàng giữa Thần-nỏ, thú binh, Thạch-xa, bộ binh; nên dù quân Tống đông gấp năm, mà không thắng được. Y ném kiếm lệnh xuống đất than:



– Hỡi ơi! Trước kia ta thấy quân Liêu dũng mãnh, kỷ luật, đã cho là bầy sói trong khi quân Tống chỉ là đám gà chọi. Sau này, ta lại thấy quy cách tổ chức, kỷ luật, thiện chiến của các đạo quân thuộc quyền Kinh-Nam vương, vội cho rằng sức mạnh như beo, như hổ. Nhưng nay thấy quân Việt, ta mới cảm thấy chua xót rằng: Chúng biến hóa không ngừng, khi thì như bầy diều hâu, khi thì như bầy sư tử, khi thì như Thiên-binh, không còn biết đâu mà chống trả nữa. Không chừng ta bỏ mạng tại đây mất!!!



Sau một ngày một đêm không ngủ, bây giờ vừa chợp mắt, lại phải thức dậy, trực diện giao chiến với quân Việt; quân Tống đã mệt mỏi lắm rồi. Nên khi thấy quân Việt rút lui, thì từ tướng tới quân đều quẳng vũ khí lăn ra ngủ.



Nhưng sang giờ Sửu, Trần Ninh, Ngọc-Hương, Hùng Lễ, Âu Huyền lại đem quân đánh nữa. Khác với lần trước, quân Việt tới sát trại Tống mới đốt đuốc reo hò, bắn tên rồi xung phong. Lần này, Trần Ninh, Ngọc-Hương cho quân vừa đánh trống, vừa đốt đuốc, vừa reo hò từ xa xa tiến lại. Quân Tống mệt đến cất chân tay không nổi, nhưng vẫn phải choàng dậy cố thủ trong trại.



Hai tiếng chiêng, một tiếng trống lệnh vang lên. Quân Việt im bặt, rồi nhanh chóng dàn trận: Thần-nỏ đặt trên xe lớn do voi kéo ngừng lại trước trại Tống một lằn tên (50 m ngày nay). Đội Thần-hổ, Thần-báo dàn ra bảo vệ xung quanh. Mỗi xe chở nỏ, lại có năm mươi Thần-tiễn Long-biên trấn phía sau.



Hai quân im lặng nhìn nhau, trong ánh đuốc chập chờn của đêm Xuân giá buốt. Trần Ninh, Hùng Lễ tay cầm cờ mầu đỏ đứng trên một bành voi đối diện cửa chính trại. Xa hơn chút nữa Trần Ngọc-Hương, Âu Huyền tay cầm tù và, đứng trên một bành voi khác.



Thình lình Trần Ninh cầm cờ phất một cái.



Ba nỏ binh cầm đuốc châm vào ba mũi Lôi-tiễn, rồi ba xạ thủ giật dây, ba mũi đại tiễn bay vọt lên cao, lửa chiếu ra như ba con rồng đỏ xé không gian. Khi bay tới bầu trời trại Tống, ba Lôi-tiễn nổ tung, tỏa lửa mầu xanh, đỏ, vàng, như ba quả cầu khổng lồ, rồi những đám lửa đó rơi xuống trại Tống như đám mưa. Tiếp theo thạch-xa bắn đá vào. Quân Tống kinh hoàng rú lên, chạy vào các căn trại núp, thì cũng vừa lúc đó, các trại bốc cháy ngùn ngụt.



Bấy giờ quân Việt mới đánh trống reo hò « Giết, giết, giết »... « Đốt, đốt, đốt ». Trong khi đại nỏ, thạch-xa cứ tiếp tục nã đại tiễn vào trại Tống, khi thì đại tiễn thường, khi thì đại tiễn tẩm dầu đốt lửa, khi thì đại tiễn chứa dầu, mã não, hoàng thạch. Phút chốc trại Tống biến thành một biển lửa.



Trong khi ấy, Thiên-tử binh chỉ reo hò mà không xung phong đánh trại. Cứ như vậy khoảng nửa giờ, ba tiếng chiêng lệnh đánh lên, các đại nỏ ngừng tác xạ. Quân Việt lại ngừng reo hò, đổi tiền đội ra hậu đội, rồi rút vào trong bóng đêm, không một tiếng động.



Bọn Phạm Dật quan sát đội quân của Trần Ninh, Ngọc-Hương hành sự từ đầu đến cuối. Sáu người cùng khoái trá, cười ha hả:



– Vợ chồng Ninh Mai Hắc-đế chơi vụ này đẹp thực. Từ trước đến nay, Ninh trị quân hiệu Đằng-hải cực kỳ nghiêm, ta cứ cho là khắt khe. Nay mới thấy cái lợi của kỷ luật.



Rồi kéo nhau tìm chỗ ngủ.



Quan sát trận chiến, Trương Thủ-Tiết biết ngay quân Việt không muốn đánh thực sự, mà chỉ làm mệt mỏi tinh thần quân mình. Y gọi các tướng lại ban lệnh:



– Bọn Việt chỉ có khoảng vạn người, do hai thằng nhãi ranh với hai con lỏi chỉ huy. Vậy tất cả chuẩn bị sẵn, đợi chúng đến quấy rối nữa, thì cùng xông ra diệt chúng, rồi cướp lấy lương cho quân mình ăn.



Các tướng đồng ý với Thủ-Tiết, vì không còn cách nào hơn nữa.



Nhưng lần này Trần Ninh, Ngọc-Hương bỏ đi luôn. Thủ-Tiết cho quân chờ tới sáng, cũng không thấy quân Việt trở lại. Bấy giờ y mới biết mình mắc mưu. Thế là sau hai ngày, hai đêm quân Tống luôn bị động, không được ngủ. Bây giờ mệt đến bước không nổi. Dù tướng, dù quân, đều lăn ra ngủ.



Từ ba ngày qua, bây giờ quân Tống mới được ngủ một giấc no nê cho đến xế Ngọ. Khi vừa tỉnh giấc, các tướng đến gặp Trương Thủ-Tiết với vẻ mặt lo lắng. Hứa Dự than:



– Vì nghĩ rằng nơi đây gần chiến trường, nên ta chỉ cho quân mang theo trên mình một ngày lương; sau mỗi ngày lại phát tiếp. Không ngờ nay đoàn chở lương bị đánh, còn chúng ta thì tiến không nổi, lùi không xong. Hôm qua đô-giám đã lệnh cho quân giết ngựa ăn tạm, rồi phá vòng vây. Nhưng vòng vây không phá nổi. Bây giờ sang ngày thứ nhì phải ăn thịt ngựa, trong khi tướng, quân đều mệt rã rượi, đến cất chân, cất tay cũng không nổi, lỡ ra giặc tới đánh thì chống sao được?



Vừa lúc đó, trống thúc vang dội, quân reo dậy đất. Quân canh vào báo:



– Có hai đạo quân từ phương Đông đang kéo đến.



Thủ-Tiết với các tướng vội ra phía Đông trại quan sát: Từ xa xa, hai đạo quân hùng tráng, uy nghi, cờ xí rực trời, gươm đao sáng choang đang tiến tới. Đi đầu là một tướng trẻ, với kỳ hiệu thêu hàng chữ lớn « Trung-Thành vương »; cạnh có hai nam khôi ngô hùng vĩ, hai nữ yểu điệu sắc nước hương trời trông như bốn cây ngọc trước gió. Bên trái, một cặp nam nữ tướng đi dưới lá cờ vàng thêu con rồng trắng có hàng chữ « Đại-Việt, Thiên-tử binh Quảng-thánh », một lá khác có chữ « Đô-thống Vũ ». Bên phải lại một cặp nam nữ nữa đi dưới lá cờ vàng thêu con rồng đen có hàng chữ « Đại-Việt Thiên-tử binh Quảng-vũ » một lá khác có chữ « Đô-thống Đinh ».



Thủ-Tiết hỏi viên tham-tướng coi về tế tác:



– Hôm qua đánh lên núi, ta đã gặp sáu tướng Việt đều là con nít, ba trai, ba gái. Ban nãy ta lại bị hai đôi trai gái xua quân đốt trại, quấy rối suốt đêm. Bây giờ còn bốn trai, bốn gái nữa. Chúng là ai vậy?



– Thưa, Đại-Việt có mười hai hiệu Thiên-tử binh. Mỗi hiệu do một tướng với vợ y chỉ huy. Tuy tuổi chúng trẻ, nhưng mưu kế, cùng tài dụng binh thực vô địch. Năm tên được vua Giao-chỉ ban cho mỹ hiệu là Long-biên ngũ hùng, bẩy tên được ban mỹ-hiệu là Tây-hồ thất kiệt. Ngoài ra, trong khi đánh Chiêm, Mộc-tồn hòa thượng ra tay cứu mạng cho mười kỳ-chủ Hồng-thiết giáo Chiêm, rồi thu làm đệ tử, bọn này được Thái-hậu Giao-chỉ ban cho mỹ-hiệu Thần-vũ thập anh. Trận này Long-biên ngũ hùng, Thần-vũ thập anh đều có mặt. Đám Thần-vũ thập anh không có tài dùng binh, nhưng võ công cao thâm, lại yêu nước vô bờ bến. Cứ như hiệu kỳ, thì tên đi giữa là hoàng tử Lý Hoằng-Chân, con của Khai-Quốc vương, cháu gọi Kinh-Nam vương bằng cậu. Võ công, trí lự của y không thua cậu làm bao.



Ôn Nguyên-Dụ than:



– Hôm trước tên thứ ha, thứ ba trong Long-biên ngũ hùng là Vũ Quang, Đinh Hoàng-Nghi với vợ chúng xuất hiện rồi. Hôm qua, tôi đụng trận với hai tên Phạm Dật, Lý Đoan cùng hai con vợ nó, suýt nữa thì bỏ mạng. Còn cái tên với vợ nó bắn đại nỏ ban nãy là ai?



– Thưa y đứng hàng thứ tư trong Long-biên ngũ hùng tên Lý Đoan.



Thủ-Tiết lắc đầu:



– Năm tên này không thể gọi là Long-biên ngũ-hùng, mà phải gọi là « Giao-chỉ ngũ kiêu » mới đúng. Chúng lợi hại không ai tưởng tượng nổi.



Ghi chú,



Kiêu là con cú. Tiếng kiêu trong ngôn từ Trung-hoa để chỉ những người tài trí, hùng tâm, đại lược, nhưng không đi theo chính nghĩa. Mộ chí của Trương Thủ-Tiết thì nói rằng Trương gọi Long-biên ngũ hùng là Giao-chỉ ngũ kiêu. Trong khi QTNC chép rằng chính Triệu Tiết đã đặt tên ấy. Ngược lại TTCTGCK lại chép rằng Tu Kỷ đã đặt tên này. Tôi tra trong TTCTBK, phần văn bia Tu Kỷ lại không thấy ghi. Cho nên tôi tin vào bia Trương Thủ-Tiết hơn, vì Trương đối trận với cả ngũ hùng, rồi tử trận, nên Trương gọi ngũ-hùng là Ngũ-kiêu thì đúng lý hơn.



Các tướng Tống nghe nói đều kinh hãi.