Nam Quốc Sơn Hà
Chương 40 : Con rồng, cháu tiên
Ngày đăng: 09:02 19/04/20
Không biết ở đâu tung ra cái tin: Tất cả 207 trang động Bắc-biên đã đầu hàng, mở cửa biên giới cho Tống đánh vào Thăng-long. Lại có người thì thầm: Không những đầu hàng Tống, mà các trang động còn đi tiên phong cho Tống để đánh Đại-Việt nữa.
Từ hồi tháng ba, quân Việt Bắc-phạt trở về, thì khắp lãnh thổ, dân chúng sống trong tình trạng cực kỳ căng thẳng, vì cái tin Tống kéo bốn mươi vạn quân triều, một trăm vạn dân binh sang; quyết chí giết cho tuyệt giống Việt đã đành, mà đến con chó, con mèo cũng không tha. Tin nói rõ: Quân Tống sang phen này để trả thù quân Việt đã đánh Khâm, Liêm, Ung, Dung, Nghi, Bạch châu hồi cuối năm trước sang đầu năm nay. Trong một ngày, dân chúng Thăng-long náo loạn đến mấy lần. Một số nhà giầu vội đem gia thuộc, chở của cải rời Thăng-long về quê tránh chiến tranh.
Để đối phó với tình thế ấy, ngày Ất-Mão tháng bẩy, mùa Thu niên hiệu Thái-Ninh thứ năm (1-7 Bính-Thìn, DL 3-8-1076), Linh-Nhân hoàng thái hậu ban chỉ cho thiết Tinh-triều khẩn cấp.
Lần thiết triều này được tổ chức ở điện Uy-viễn, nơi đặt Khu-mật viện. Mọi lễ nghi, âm nhạc đều giản tiện hoăc bãi bỏ. Các đại thần được ngồi để nghị sự chứ không phải đứng như thường lệ.
Mở đầu, Linh-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:
– Trước khi đình nghị, xin Khu-mật viện hãy trình bầy tình hình tiến quân của Tống đã.
Quản Khu-mật viện, Trung-Thành vương tâu:
– Trước hết thần xin trình bầy về tình trạng tướng Tống đã. Ngày 25 tháng Chạp năm trước (Ất-Mão, 1075), khi ta đang vây Ung-châu, thì Hy-Ninh đế đã chọn Triệu Tiết, đang thay Kinh-Nam vương cầm đại binh Tống ở vùng Hy-hà; phong làm An-Nam đạo hành doanh mã bộ đô tổng quản, kinh-lược chiêu thảo sứ, kiêm chức Quảng-Nam Tây-lộ An-phủ sứ. Lại phong cho hoạn quan Lý Hiến làm phó An-phủ sứ, Yên Đạt làm Phó Đô-tổng quản, Ôn Cảo làm Quản-câu. Vương An-Thạch đích thân thảo một tờ chiếu, gọi là Thảo Giao-chỉ chiếu.
Vương trao tờ chiếu cho quan thái-phó Quách Sĩ-An. Quách cầm lấy đọc lớn:
« Chúa nước Nam các người, đời đời được phong tước vương, nên chi con cháu được ta thừa nhận, vỗ về. Tiên-đế từng tha cho các ngươi cái tội cướp ngôi nhà Lê. Nay các người lại đem quân phạm vào nội địa, giết hại quan dân. Các người phạm tội với nước Thiên-tử như thế, thì ta không thể tha thứ được.
Trẫm truyền quân trời tới đánh, thật đúng danh nghĩa.
Nay trẫm sai Triệu Tiết làm An-Nam đạo hành doanh mã bộ đô tống quản, Kinh lược chiêu-thảo sứ. Lý Hiến làm phó An-phủ sứ, và Yên Đạt làm Phó Đô tổng quản.
Này Tiết, Đạt, Hiến, các người hãy đem quân thủy, lục tiến đánh cho mau. Trời đã có lòng giúp, nên khiến sao chổi xuất hiện điềm lành, còn người đã rõ lòng gian của bọn Nam-man nên đều căm hận bọn giặc ác.
Nay chiếu cho quân Giao-chỉ biết rằng, khi thấy quan quân tới, thì đừng có chạy, dân chúng đã chịu khổ lâu ngày. Vậy nếu chúng bay dỗ được chúa vào nội phụ, trẫm sẽ ban tước lộc cho. Này Càn-Đức, ngươi còntrẻ, việc làm không tự chủ được, tội không phải ở người. Ngày nào người tới chầu, trẫm sẽ tha thứ cho... »
Quan Thái-phó Quách Sĩ-An hỏi:
– Xin các đồng liêu cho biết ý kiến về bản văn này.
– Đầu Ngô mình Sở.
Công-chúa Côi-sơn cười nhạt: An-Thạch là một văn gia lỗi lạc, một tư tưởng gia quán thế, mà y soạn bài chiếu lủng củng như nồi cơm độn ngô, độn khoai là tại sao? Y đặt hết tất cả hy vọng vào việc xâm lăng Đại-Việt để lấy đó làm cớ bịt miệng đồng liêu chống đối y. Nay việc đó bị ta phá từ trong trứng nước, nên y mất bình tĩnh, mà rặn ra bản văn trên. Phàm chiếu, thì chỉ nói rõ việc phong chức tước cho bọn Tiết, Hiến, Đạt rồi định nhiệm vụ chúng. Còn đối với người Việt, thì y phải làm một tờ hịch mới phải. Đây tờ chiếu chẳng ra chiếu, hịch chẳng ra hịch. Dù bọn Tiết, Hiến, Đạt, dù ta có đọc cũng chẳng rõ y nói gì.
Trần Trung-Đạo gật đầu khen ngợi:
– Sư muội luận đúng. Lúc toà Khâm-thiên giám báo có sao chổi xuất hiện, Thạch tỏ ra lo sợ, dấu đến bốn ngày mới tâu vua. Khi ta vây Ung-châu, Thạch quả quyết: Thành Ung chắc lắm, quân Giao không thể phá được; mà quân thủ thành tới mười vạn cộng bốn vạn quân của Trương Thủ-Tiết xuống cứu thành mười bốn vạn, trong khi chúng chỉ có mười vạn. Quân ta trong đánh ra, ngoài đánh vào, quân Giao ắt bị bại. Nhà vua cũng đồng ý. Khi được tin toàn quân của Tiết bị diệt, thành Ung mất, vua muốn triệu hai ty Trung-thư và Khu-mật viện họp ở các Thiên-chương. Thạch run run nói: Họp ở đó thì việc thất lợi này hóa ra to mất. Chi bằng hội ở Đông-phủ. Vương Thiều thấy Thạch run, phải trấn tĩnh: « Ông ở đây mà còn lo như thế, huống chi kẻ ở ngoài biên cương. Xin ông bình tĩnh lại ».
Trung-Thành vương trình bầy tiếp:
– Lý Hiến quả có tài, nhưng vì ỷ là hoạn quan được gần vua, nên coi thường các đại thần. Việc gì y cũng muốn tâu thẳng lên vua, trong khi Triệu Tiết hiểu rằng cuộc chiến này không phải mình vua mà quyết được, y muốn tâu qua hai tòa Trung-thư lệnh và Khu-mật viện. Vì vậy hai người thường cãi nhau. Vương An-Thạch bênh Triệu Tiết xin bãi Hiến, vua không nghe. Nhưng trước đấy, U-bon vương với vua bà Bình-Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái đem Thần-vũ thập anh đại náo điện Sùng-chính; người tung thuốc vào Hiến, khiến y ngứa phát điên phát khùng, lâu ngày hóa điên thực. Vua buộc lòng phải bãi Hiến. Nhân dịp đó vua hỏi Tiết: Ai có thể thay Hiến? Tiết tiến cử Quách Quỳ. Trong triều, thì Thạch làm Tả Tể-tướng chủ đánh ta. Người chống Thạch là Ngô Sung làm Hữu Tể-tướng chủ hòa với ta. Thạch muốn tiến cử Triệu Tiết làm chánh tướng, trong khi Ngô Sung lại muốn Quách Quỳ làm chánh tướng. Sau vua hỏi Triệu Tiết: Khanh làm chánh, Quỳ làm phó sao? Tiết đáp nhún: Vì nước mà làm việc, sao lại ai chánh, ai phó. Tôi chỉ xin làm phó thôi. Vua cho là Tiết nhát, tránh trách nhiệm, vì vậy ngày Mậu-Tý tháng hai (2-2 Bính-Thìn, DL. 9-3-1076) ban chiếu phong Quỳ làm Tuyên-huy Nam viện sứ, An-Nam đạo hành doanh mã bộ đô tổng quản, Chiêu thảo sứ kiêm Tuyên-phủ lộ Kinh-Hồ, Quảng-Nam. Tiết thay Hiến làm phó, Yên-Đạt vẫn giữ chức phó đô tổng quản.
Công-chúa Thiên-Ninh cười nhạt:
– Qua bài chiếu, ta thấy rõ tâm thần An-Thạch quá mệt mỏi vì bị đồng liêu chống đối, vì mưu Nam xâm bị ta khám phá ra tay trước. Bây giờ vua lại phong Quỳ là người của phe chủ hoà làm chánh; phong Tiết là người của Thạch làm phó. Như vậy ta biết rõ lòng vua bắt đầu bớt tin Thạch.
Thái-Ninh đế hỏi Trần Bảo-Dân:
– Sư-phụ! Sư-phụ từng ở Biện-kinh lâu ngày, sư-phụ có cách nào trừ khử tên Vương An-Thạch đi không?
Bảo-Dân lắc đầu:
– Tâu bệ hạ không có cách nào cả. Nguyên từ hôm vua bà Bình-Dương, Thân phò-mã, U-bon vương đại náo Sùng-chính điện đến giờ, thị-vệ canh phòng Hoàng-thành cũng như dinh An-Thạch cực kỳ chu đáo. Trong thế gian này chỉ có một người giết được Thạch, đó là sư đệ Tự-Mai, vì y có chân tay khắp nơi. Nhưng y là Kinh-Nam vương, là phò-mã của Tống triều; trong khi Vương An-Thạch là đại công-thần nhà Tống, công-lao thực không nhỏ.
Thái-hậu hỏi Hoài-hóa thượng tướng quân Lý Đoan:
– Đoan đệ! Đệ là thầy thuốc giỏi. Chị Nghe nói trong trận công thành Ung, đệ đã hiến phương thức làm cho tướng sĩ Tống bị kinh hoảng, mệt mỏi. Nay trường hợp An-Thạch, y cũng đang mề mệt, đệ có cách nào làm cho tâm thần y rối loạn hơn, để y mất hết minh mẫn, rồi sinh cáu giận. Như vậy y càng có thêm đồng liêu chống đối, để cuối cùng y phải mất chức không?
Lý Đoan tâu:
– Con người ta có ba mối liên hệ. Một là liên-hệ chúa tôi, hai là mối liên-hệ đồng-liêu, ba là mối liên hệ gia-thuộc. Từ ngày thi hành Tân-pháp, gần như Thạch không có liên hệ đồng liêu; những người dưới quyền y, chỉ là chân tay y, để y sai khiến, hở ra là phản y, như trường hợp Lã Huệ-Khanh. Y không có bạn, y cô đơn. Nay y sống bằng hai liên hệ chúa tôi, gia thuộc, mà bây giờ liên hệ chúa tôi nhạt dần. Vậy nếu ta có cách nào làm cho gia đạo y bất an nữa, thì mới khiến cho y bị rối loạn.
Thái-hậu tuyên chỉ:
– Việc này phi Côi-sơn tam anh, không ai làm nổi. Ba vị sư bá! Cô-phụ biết việc làm cho gia đạo An-Thạch rối loạn không phải là dễ, nhưng tam vị sư bá cứ thử xem, ta tùy nghi dùng thực nhiều vàng ngọc. Biết đâu?
Phụ-Quốc cung tay:
– Tuân chỉ Thái-hậu. Muốn thực hiện được điều này có lẽ phải nhờ đến hai vị đại-sư Minh-Không, Đạo-Hạnh giúp một tay. Thần xin cố gắng.
Quán-quân thượng tướng quân, Chính-Tâm hầu Đinh Hoàng-Nghi hỏi Trung-Thành vương:
– Thưa vương gia, bọn đệ là những người trực tiếp đối đầu với các tướng cầm quân Tống. Bọn đệ cần biết, ngoài Quỳ, Tiết, Đạt, Cảo ra, những tên nào được sai sang đánh ta?
– Quỳ xin vua cho mang tất cả binh tướng từng chiến đấu ở Tây-thùy theo. Bởi đây là những đạo binh, những tướng do Kinh-Nam vương huấn luyện, từng tham chiến bao năm qua, rất tinh nhuệ, thiện chiến. Tổng số có 12 tướng đó là:
– Diêu Tự lĩnh chức hàm-hạt ở Kinh-nguyên.
– Lý Hạo lĩnh chức hàm-hạt ở Hy-hà.
– Trương Chi-Giám coi đạo quân Tần-phượng.
– Dương Vạn lĩnh chức đô-giám ở Hoàn-khánh.
– Lôi Tự-Văn chỉ huy đạo binh Hoàn-khánh.
– Lữ Chân lĩnh chức đô-giám ở Diên-Phu.
– Trương Thế-Cự lĩnh chức Vũ-kị thượng tướng quân.
– Lý Hiếu-Tôn chỉ huy đạo binh Hy-hà.
– Địch Tường chỉ huy đạo binh Hà-Bắc.
– Khúc Chẩn chỉ huy đạo binh Diên-Phu.
– Quản Vi chỉ huy đạo binh Kinh-Tây.
– Vương Mẫn chỉ huy đạo binh Hà-Đông.
Đây là những tướng ở vào tuổi trung niên, kinh nghiệm chiến đấu, có tài dùng binh.
Tín-Nghĩa vương hỏi Trung-Đạo:
– Thưa sư-bá, võ công bọn này ra sao?
– Nếu so với những cao thủ bậc nhất của ta như vua bà Bình-Dương, phò-mã Thân Thiệu-Thái, U-bon vương, Tôn Đản, Cẩm-Thi thì chúng không bằng. Nhưng so với các tướng trẻ của ta trong Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất-kiệt thì bản lĩnh chúng bỏ xa. Bản lĩnh của chúng suýt soát với Thần-vũ thập anh!
Cả triều đình đều tỏ vẻ lo lắng.
Trung-Thành vương tiếp:
– Về quân số thì trước khi An-Nam đạo hành doanh giao cho Triệu-Tiết ngày Giáp-Dần, tháng Chạp năm Ất-Mão (27-12. DL. 25-02-76) là mười vạn quân bộ, đó là các đạo đóng từ Biện-kinh tới Ung-châu; hai vạn binh từ Biện-kinh đến Quảng-châu. Cộng mười hai vạn quân triều. Quảng-châu ra lệnh cho các châu lấy bảo-binh huấn luyện thành các chỉ-huy xạ-binh và dũng-lực. Các vùng Mân, Triết, Kinh, Hồ, Lưỡng Quảng đều mộ binh lập ra các chỉ-huy tân-đằng-hải, sồ này khoảng mười vạn nữa. Cộng chung hai mươi hai vạn (TS-TTTTGTB, Hy-Ninh 8, tháng 12).
Vương đưa mắt nhìn đình thần một lượt rồi tiếp:
– Khi Quách-Quỳ được làm nguyên-súy, y xin cho các tướng đem quân theo. Mười hai tướng này, đang chỉ huy mười hai đạo binh, mỗi đạo khoảng một vạn người, và hơn vạn kị binh. Đây là binh triều. Theo quan chế nhà Tống, thì mỗi tướng chỉ huy đạo quân ở đâu, phải lấy bảo-binh huấn luyện sẵn, để khi lâm chiến bị tổn thất thì lấy binh đó bổ xung. Vì vậy mỗi tướng còn có một vạn quân trừ bị, chia năm trăm người làm một chỉ-huy, thành ra mỗi tướng có hai mươi chỉ-huy nữa. Số quân này khoảng mười hai vạn nữa. Tổng cộng có hai mươi bốn vạn binh mang từ Tây-thùy về. Như thế tính chung là bốn mươi sáu vạn binh, chia ra ba mươi vạn binh triều, mười sáu vạn binh các lộ, các châu (QTNC, TTCTGCK), năm vạn kị binh, năm vạn thủy binh.
Công-chúa Thiên-Ninh hỏi:
– Thưa hoàng thúc, theo binh chế Tống, cứ một người lính chiến thì có một bảo-binh hay phụ lực binh theo để mang vật dụng, quần áo, nấu ăn, tắm ngựa. Đám này còn dùng để giữ trại, trấn giữ những nơi chiếm được, khi cần cũng có thể đem ra xung trận. Ngoài ra lại còn đám bảo-binh để chuyển vận lương thảo. Vậy thúc phụ có biết rõ quân số này là bao nhiêu không?
– Thưa điện hạ, tế-tác của ta không biết rõ được. Chỉ biết viên chuyển-vận sứ Quảng-Tây là Lý Bình-Nhất tâu: Bao nhiêu lương thảo tích trữ ở Nam-thùy bị ta lấy phát cho dân hết, thành ra Tống phải chuyển vận từ Kinh, Hồ, Mân, Triết và cả vùng Biện-kinh xuống. Việc chuyển vận này hoàn toàn bắt dân chúng đem đến các trấn bên bờ sông Tương, rồi dùng thuyền đưa xuống Quảng-Tây. Dân Quảng-Tây phải chuyển tới biên giới, sau đó phụ lực binh sẽ chuyên chở ra mặt trận. Y xin bắt 40 vạn bảo binh làm phụ-lực binh.
Vương kết luận:
– Tính chung, ta phải đối đầu với bốn mươi sáu vạn quân triều, năm vạn kị, năm vạn thủy và bốn mươi vạn bảo binh là chín mươi sáu vạn. Tôi xin nhắc lại, chỉ dụ mới nhất của Khu-mật viện Tống như sau: Binh triều là binh được tổ chức thành từng đạo, mỗi đạo năm nghìn người, rất thiện chiến, được luyện tập võ nghệ, giỏi xung phong hãm trận, võ trang đầy đủ để tấn công. Để giữ sức, mỗi quân triều được cấp một bảo binh, dân phu dùng để nấu ăn, giặt quần áo, mang hành trang. Còn quân tân-đằng-hải cũng là quân triều, tổ chức thành từng chỉ huy; mỗi chỉ huy năm trăm người, dùng trong những trận nhỏ, hoặc dùng để trấn đóng, bảo vệ lương thảo. Còn bảo binh, là những trai tráng, được huấn luyện quân sự để giữ làng ấp, bố xung tổn thất cho binh triều, tân-đằng-hải. Tân-đằng-hải, bảo binh phải tự túc nấu ăn, mang trang phục lấy.
Đại đô đốc Lý Kế-Nguyên hỏi:
– Về thủy quân, hiện tình Tống ra sao?
– Trước, xưởng đóng chiến thuyền Tống ở Khâm-châu đã đóng được ba trăm chiến thuyền lớn, sáu trăm chiến thuyền nhỏ. Khi ta đánh Khâm-châu thì các chiến thuyền này được kéo về Đồn-sơn, thợ bị giết sạch, kho gỗ để đóng thuyền bị đốt. Vì vậy, Tống cho chuyển toàn bộ thủy-quân vùng Mân, Triết, Quảng-châu xuống, lực lượng có bốn hạm đội. Đô đốc chỉ huy là Dương Tùng-Tiên, phó là Tô Tử-Nguyên, con Tô Giàm.
Phò-mã Hoàng Kiện cung tay:
– Trước tình hình như vậy, xin Thái-hậu ban chỉ dụ.
Linh-Nhân hoàng thái hậu đứng dậy đưa mắt nhìn quần thần một lượt rồi nói:
– Trước khi đem quân Bắc phạt, các vị với cô phụ này đã nghị việc Tống đem quân nghiêng nước phục thù rồi. Giả như ta không đem quân Bắc phạt, thì Tống cũng đem quân đánh ta kia mà! Nếu ta không ra quân trước, thì với lương thảo, vũ khí, thủy bộ mã quân ở Nam thùy chuẩn bị từ lâu, nay Tống đánh ta, thì quả ta không đương nổi. Vì ta ra quân trước, thành ra tinh lực Tống bị giảm một nửa, trong khi ta lại có thêm lương thảo, vũ khí, chiến thuyền. Bây giờ Tống đem quân sáng, ta chỉ phải đối đầu với một nửa tinh lực mà thôi.
Chư đại thần đều đồng ý lý giải của thái hậu. Hậu hỏi:
Viên sư trưởng Trần Ngọc-Bá kêu lên:
– Có lẽ ải Như-hồng bị chiếm, quân mình rút chạy về. Xin quân hầu mở cửa đồn cho họ vào.
Từng đánh dư trăm trận, kinh nghiệm có thừa, Hoàng-Quan truyền cho đội cung thủ, hai dàn Thần-nỏ dàn ra trước cổng trại, lại cho đội đao thủ dàn phía sau đề phòng, rồi truyền mở cổng.
Đám bại binh từ Như-hồng về vào khoảng hơn hai trăm tên. Thấy cổng ải mở, chúng chạy ùa vào. Thanh-Nhiên với viên sư trưởng Nguyễn Văn-Khan nhảy theo. Trong khi phía sau, quân Tống bám sát. Đội cung thủ buông tên, rồi nỏ thần bắn loạt đầu. Đám quân Tống đi đầu ngã lổng chổng.
Đám bại binh Như-hồng vừa vào trong ải, thì nhanh nhẹn chia làm hai vung đao tấn công đội cung thủ, đội xạ thủ nỏ thần. Bị tập kích bất ngờ, đám cung thủ hét lên kinh hoàng, mạnh ai người ấy phản công. Nhờ đám cung thủ bị rối loạn, quân Tống tràn vào trại như nước vỡ bờ. Sư trưởng Trần Ngọc-Bá quả là người gan dạ, bình tĩnh. Y điều động hai lữ trừ bị ra phía trước cổng. Một lữ vây đánh đám bại binh Như-hồng, một lữ đánh đám quân Tống lọt vào trong trại.
Đội cung thủ lại được rảnh tay, bắn cản không cho quân Tống tiến đến cổng trại. Thành ra đám binh Tống trong trại bị cô lập với bên ngoài.
Thanh-Nhiên, Nguyễn Văn-Khan dùng kiếm đâm Hoàng-Quan. Hoàng-Quan kinh hãi, ông tung người lên cao, trong khi tay rút kiếm chĩa xuống gạt kiếm đối thủ. Trong ải náo loạn cả lên. Tiếng đao chém nhau phầm phập, tiếng người kêu gào thảm thiết vì đau đớn.
Đội đao thủ cuối cùng của đồn Ngọc-sơn đã được tung ra nhập cuộc, cùng vây đánh đám bại binh Như-hồng. Giữa lúc đó, trong dinh trấn thủ, lửa bốc lên cao ngụt trời, rồi có tiếng reo:
– Gian tế! Gian tế.
– Phản! Phản!
Hoàng-Quan vừa đấu với Nguyễn Văn-Khan, tên Thanh-Nhiên, vừa đưa mắt nhìn vào trong dinh tổng trấn: Phu nhân cùng đám vệ sĩ, nữ binh đang giao chiến với Vi Thủ-An và đám hoàng nam Cổ-vạn.
Nguyên Ngọc-Huệ là đệ tử của Tôn Đản, Cẩm-Thi, bản lĩnh hơn chồng nhiều. Trong khi biến cố xẩy ra ở cổng, thì bên trong dinh, Vi Thủ-An với hơn trăm hoàng nam hò hét rút vũ khí đánh từ trong ra. Tuy bị đánh úp, nhưng đội nữ binh nhanh nhẹn phản công. Họ chỉ có hơn trăm người, nhờ luyện tập nhiều, võ công cao, nên trong chốc lát, đám hoàng nam Tô-mậu bị đánh bật ra khỏi dinh. Vi Thủ-An thấy Ngọc-Huệ đứng đốc chiến, y khinh thường, cho rằng bà không biết võ, y dí kiếm vào cổ bà, bắt ra lệnh cho đám nữ binh buông vũ khí.
Bị bất ngờ, Ngọc-Huệ cười nhạt, rồi vờ ngã chúi về trước. Bà trầm người xuống cho kiếm Thủ-An qua đầu, rồi quét chân một cái, khiến y ngã úp sấp về trước. Bà rút kiếm ra chiêu Vân hoành Tản-lĩnh, đầu y bị bay khỏi cổ. Giải quyết xong đám nội phản, Ngọc-Huệ dẫn đám nữ binh ra tiếp chiến với chồng, đúng lúc quân Tống rút đi hồi chiều, bây giờ đã trở lại. Chúng reo hò, vác lá chắn bằng rơm cản tên, đang phá các lớp rào. Ngọc-Huệ đứng nhìn chồng đấu với Thanh-Nhiên, Văn-Khan, chỉ ngang sức. Muốn giải quyết chiến trường cho mau, bà lách tay phải bắt lấy kiếm Thanh-Nhiên, tay trái điểm huyệt đại-trùy của y. Y ngã lăn ra liền. Thuận tay, bà thích một mũi kiếm vào ngực tên Khan. Y vung kiếm gạt. Choang nột tiếng, kiếm của y vuột khỏi tay bay ra xa. Bà điểm vào huyệt đản trung của y. Y trầm người xuống tránh, thành ra tay bà điểm trúng mắt phải của y. Con ngươi y lòi ra ngoài. Y ngã ngửa về sau.
Trần Ngọc-Bá sai trói hai gian nhân lại, đem vào dinh thẩm vấn. Bấy giờ Ngọc-Huệ mới quay lại quan sát trận tuyến: Quân Tống đã lọt được vào hàng rào thứ ba, nhưng gặp sức kháng cự mãnh liệt, bị nỏ thần bắn chết la liệt, nên đành rút lui.
Trại Ngọc-sơn trở lại yên tĩnh.
Sau khi thẩm vấn tù binh, Trần Ngọc-Bá trình vời Hoàng-Quan:
« Khi ra trấn ở đây, Thanh-Nhiên đã liên lạc với Tống. Khu-mật viện Tống cho y biết viên sư trưởng Nguyễn Văn-Khan trước đây là thị vệ trong cung Thượng-Dương, cũng là người của Thiên-triều. Hai người được đặt dưới quyền viên trấn thủ Khâm-châu là Nhâm Khởi. Khởi dặn hai người phải tiềm ẩn, chờ ngày quân Thiên-triều đánh sang sẽ làm nội ứng. Mấy hôm trước, Khởi sai người truyền lệnh: Vi Thủ-An hàng Tống, sẽ làm khổ nhuc kế, để có thể lọt vào trại Ngọc-sơn, trong khi Nhiên với Khan cũng phải giả thua chạy về. Thế rồi nội ứng, ngoại hợp đánh úp trại Ngọc-sơn. Không ngờ Hoàng-Quan quá kinh nghiệm chiến đấu, hiệu quân Đông-triều lại can đảm, thiện chiến, nên mưu không thành ».
Hoàng-Quan kiểm điểm lại: Hơn hai trăm quân Tống giả làm bại quân Như-hồng bị giết hết, đám người của Vi Thủ-An cũng bị giết sạch. Quân Tống chết phơi thây ngoài hàng rào kể đến mấy nghìn. Điểm lại, quân thủ ải cũng chết mấy trăm.
Viên sư trưởng Trần Ngọc-Bá trình:
– Thưa quân hầu, mình có khoảng nghìn rưởi binh, nay vừa chết, vừa bị thương hết phân nửa, vậy ta có nên thủ đồn, hay rút về Tiên-yên?
Hầu chưa kịp trả lời, thì trống thúc vang dội, quân Tống đã trở lại. Dưới ánh sáng của đuốc, hầu nhìn rõ: Quân tấn công lần này có cả quân Việt thuộc sư một ở Như-hồng hàng Tống, hoàng nam Tô-mậu. Chúng dùng những tấp liếp nhồi rơm làm lá chắn chống tên lăn vào đem đoản đao chặt rào.
Ngọc-Huệ than với chồng:
– Cơ chừng này chúng thí quân để chiếm cho được đồn đây. Đánh nhau từ chiều đến giờ, chúng chết có tới mấy nghìn, mà nay chúng còn đông dường này, thì ta chỉ có cách tử chiến.
Phu nhân cầm kiếm đốc chiến phía Tây, Ngọc-Bá đốc chiến phiá Nam, hầu đốc chiến phía Bắc.
Quân Tống thúc trống, reo hò lăn xả vào tấn công. Quân Việt dùng tên lửa bắn ra, những tấm liếp nhét rơm bị bốc cháy. Hai bên giằng co đến hơn ba khắc, quân Tống chết nhiều quá lại phải rút ra ngoài, để lại không biết bao nhiêu xác chết nằm vắt vẻo trên hàng rào bên những lá chắn bốc cháy sáng rực trong đêm.
Nghỉ hơn giờ, quân Tống lại thúc trống tấn công, quân Việt lại bắn ra. Giữa lúc chiến trận nghiêng về phía quân Việt thì viên đội trưởng cung thủ báo cáo:
– Trình quân hầu, chúng ta đã hết tên rồi, xin hầu định liệu xem có nên rút lui không?
– Không! Chúng ta quyết tử chiến.
Đến đó phu nhân bị trúng một mũi tên vào bụng. Sợ binh sĩ trông thấy, bà vung kiếm cắt dứt chuôi tên, lấy dây lưng buộc bụng lại, tiếp tục đốc chiến. Quân Tống đã tràn vào trong đồn, chúng reo hò dùng đao giáp chiến với quân Việt.
Phu nhân cùng đám nữ binh vừa đánh vừa lùi về phía trước, thì gặp hầu cùng đám vệ sĩ cuối cùng cũng đang chiến đấu tuyệt vọng. Hầu với phu nhân đứng đâu lưng vào nhau, múa kiếm như mấy trôi, như sóng dạt, quân Tống xông vào người nào, bị giết người đó.
Thình lình có tiếng quát:
– Lùi ra!
Quân Tống lùi ra ngoài. Quân Việt cũng thu chiêu, đứng thành vòng tròn, tay lăm lăm vũ khí.
Có hai người cầm đao nhảy vào vòng chiến, đó là Trần Thanh-Nhiên với Nguyễn Văn-Khan. Nhiên tấn công hầu, Khan tấn công phu nhân. Biết quân Tống đã vào nhà tù thả hai tên này ra. Không nói, không rằng, phu nhân phóng một chiêu kiếm thực thần tốc vào ngực tên Khan, y gạt kiếm của bà; nhưng không kịp, kiếm đã xuyên qua ngực y. Y loạng choạng ngã xuống, máu từ ngực phun ra có vòi. Trong khi hầu với Nhiên đang chiết chiêu.
– Ngừng tay!
Thanh-Nhiên thu kiếm lùi lại.
Một tướng Tống bước tới, y chĩa mũi kiếm xuống đất, rồi bái phu nhân:
– Tại hạ Nhâm Khởi, tổng trấn Khâm-châu, xin được ra mắt quân hầu và phu nhân.
Tuy mệt mỏi, nhưng hầu cũng đáp lễ:
– Kính chào Nhâm đại nhân.
Nhâm Khởi chỉ xác quân Việt nằm la liệt khắp nơi:
– Sự đã đến như thế này thì quân hầu hàng đi thôi. Đánh nữa cũng vô ích mà thôi. Trọn đời họ Nhâm này, chỉ biết kính trọng những bậc anh hùng trung liệt như quân hầu. Nếu quân hầu đầu hàng, thì cái tước hầu, tước bà cũng không đến nỗi mất.
Hầu lắc đầu, chưa kịp trả lời thì phu-nhân quay lại hỏi hơn ba chục nữ binh, năm chục binh Việt còn sống sót:
– Nhâm đại nhân muốn chiêu hàng. Các em nghĩ sao?
– Không hàng!
– Chúng em chỉ biết chết chứ không biết hàng.
Phu nhân cung tay tạ Nhâm Khởi:
– Đa tạ nhã ý quân tử, chúng tôi là con Rồng, cháu Tiên thì chỉ biết chết chứ không biết hàng.
Vừa dứt lời bà đưa kiếm vào cổ Thanh-Nhiên. Y kinh hoàng lộn người ra sau tránh, nhưng mũi kiếm đã trúng ngực y, đúng vào miếng hộ tâm kính đến choang một tiếng.
Đám tiễn thủ Tống vội dương cung bắn vào phu nhân để cứu Nhiên. Nhưng phu nhân đã quyết chết ngày hôm này, nên thay vì dùng kiếm gạt tên, bà chuyển mũi kiếm thúc vào sườn y, người y đứt làm hai khúc.
Nhâm Khởi hô quân Tống tấn công. Đám nữ binh, vệ sĩ lại lăn xả vào chém giết. Giữa lúc cuộc chiến đang ác liệt, thì một mũi tên trúng giữa ngực Hoàng-Quan, hầu ngã xuống. Phu nhân thấy chồng ngã, bà hơi phân tâm một chút, bị trúng một mũi đao vào bụng, ruột lòi ra ngoài. Bà nghiến răng dùng tay trái nhét ruột vào bụng, tay phải vẫn múa kiếm như mây bay, như gió lốc. Bà đi đến đâu, quân Tống ngã tới đó.
Dưới ánh đuốc lờ mờ, binh tướng Tống nhìn bà chiến đấu như một con sư tử, đều nhảy lùi ra xa, đứng nhìn. Một tay ôm bụng, một tay chống kiếm, bà đứng thở dốc, nhìn bên mình: Phu quân chết nằm đó, đám nữ binh cũng không còn một người.
Nhâm Khởi là tiến sĩ xuất thân, y cực kỳ kính trọng những bậc trung quân tuẫn quốc. Y cung tay hưởng bà:
– Phu nhân! Ngừng tay đi thôi. Tôi hứa băng bó, chữa trị cho phu nhân, rồi đưa phu nhân với thi hài hầu về Thăng-long. Phu nhân chiến đấu như thế cũng đủ rồi, khí phách của phu nhân e rằng cao tới trời xanh.
Ngọc-Huệ thở hổn hển:
– Đa ta đại nhân. Vợ chồng tôi sống với Ngọc-sơn, thì chết với Ngọc-sơn. Nay Ngọc-sơn bị chiếm, tôi còn mặt mũi nào về nhìn chúa tôi nữa?
Tay vung lên, kiếm đâm suốt qua ngực, bà ngã xuống. Đám binh tướng Tống từng trải qua nhiều cuộc chiến đấu kinh hồn động phách, nhưng chưa bao giờ họ thấy một thiếu phụ sắc nước hương trời chiến đấu anh dũng đến như vậy. Bất giác, nào tướng, nào binh, đều hướng bà vái ba vái.
Bấy giờ là giờ Mão ngày Quý-Hợi, tháng bẩy, mùa Thu, niên hiệu Thái-Ninh thứ năm đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt (9-7 năm Bính-Thìn. DL. 11-8-1076) bên Trung-nguyên là niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.
Sau khi Bùi Hoàng-Quan với phu nhân tuẫn quốc, Nhâm Khởi sắm quan quách, mai táng bên khe suối ở đồn Ngọc-sơn, trên mộ khắc tấm bia đá có chữ:
« Lĩnh-Nam nghĩa sĩ Bùi, phu phụ chi mộ ».
Tin Ngọc-sơn thất thủ đưa về Thăng-long, Linh-Nhân hoàng thái hậu, Thái-Ninh đế truyền triều đình để tang, làm lễ tế vọng, truy phong cho hầu tước:
Trung-vũ, Anh-duệ, Tráng-tiết đại vương.
Phu nhân được phong:
Nhu-mẫn, Đoan-huệ, Anh-văn công chúa.
Truyền phối thờ vào thái-miếu, cho nên sau này ngoài dân chúng không có đến thờ của hai ngài. Riêng công chúa thì đời sau phối thờ với Linh-Nhân hoàng thái hậu. Cho đến nay (1995) trải 919 năm, nếu những con dân Việt đọc được những giòng này, mà còn tưởng nhớ huân nghiệp của công chúa, xin viếng thăm các đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu (ghi ở mục 3.2 phần tựa, quyển 1, NQSH) sẽ thấy:
– Tượng Linh-Nhân hoàng thái hậu ngồi trên chiếc ngai ở giữa trong y-phục Thái-hậu mầu vàng.
– Hai bên là tượng của sáu bà, trong y-phục công-chúa. Áo choàng, khăn tuy giống nhau, thêu hoa văn giống nhau, nẹp giống nhau, nhưng mầu khác nhau.
Đền thờ Linh-Nhân hoàng Thái-hậu ở Dương-xá, Gia-lâm, Hà-nội
Phía trước bàn thờ với chữ đại tự:
THÁNH CUNG VẠN TUẾ
Tượng Thái-hậu ngồi trên ngai, trong y phục vàng
3. Bên trái tượng Thái-hậu: Tượng mặc áo xanh khuất sau cột là bà Nguyễn-thị Trinh-Dung, vương phi Trung-thành vương. Tượng mặc áo đỏ là Công-chúa Thiên-Thành. Tượng mặc áo trắng là Nhu-mẫn đoan duệ, anh văn công chúa Trần Ngọc-Huệ