Nam Quốc Sơn Hà

Chương 41 : Không thù, chẳng oán

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Chiến thắng Ngọc-sơn được ngựa trạm báo về An-Nam đạo hành doanh mã bộ quân đô tổng quản chiêu thảo sứ kiêm tuyên-phủ sứ Kinh, Hồ, Quảng ở Quế-châu. Đây là chiến thắng đầu tiên của quân Tống. Quách Quỳ vội sai ngựa lưu-tinh phi bất kể ngày đêm, tâu về triều. Ngày Bính-Tý, tháng 9, niên hiệu Hy-Ninh thứ 9 (23-9, Bính-Thìn. DL.23-10-1076), vua Tống họp đại thần ở Thiên-chương các để công bố tin mừng. Đặc biệt buổi hội này còn có Tuyên-Nhân hoàng thái hậu (vợ vua Anh-tông) buông rèm thính chính. Bởi hậu đã cùng vua Anh-tông, Dư Tĩnh, Lý Hiến, đại sư Pháp-Nhẫn nam du, hiểu rất rõ tình hình Giao-chỉ. Sau khi đọc biểu tâu của Quách Quỳ, chính tể-tướng Vương An-Thạch thảo tờ chiếu gửi cho Quách Quỳ, chỉ dụ rằng:



« Binh mã đi An-Nam chẳng bao lâu nữa sẽ ra khỏi nước. Phải làm một cái gì để gia tăng sĩ khí. Nhâm Khởi đánh được trại Ngọc-sơn, tuy công không lớn, nhưng cũng là lần đầu phấn khích sĩ tốt. Ai lập công, phải thưởng ngay, rồi tâu lên, ta sẽ phong tặng, bố cáo cho sĩ dân biết ». (TTTTGTB, Hy-Ninh 9, tháng 9, Bính-Tý).



Hữu tể tướng Ngô Sung công kích:



– Với một cái đồn Ngọc-sơn cô lập ở biên thùy, quân đồn trú chưa quá nghìn rưởi, lại là quân thuộc hiệu Đông-triều, tức quân địa phương; thế mà Nhâm Khởi hy sinh mất ba nghìn quân Cổ-vạn, hơn nghìn quân thuộc hiệu Đông-triều của tên Thanh-Nhiên đầu hàng, một vạn hơn quân Quảng-Đông, tức một đổi mười. Như vậy mà cũng gọi là chiến thắng ư? Nếu nay triều đình tuyên chỉ khen thưởng, thì muốn thắng mười lăm vạn quân Giao, ta phải hy sinh một trăm năm mươi vạn binh ư?



Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tuyên chỉ:



– Quân hùng hay hèn, căn cứ vào ba điều. Một là quân khí, hai là quân kỷ, ba là quân tâm. Một cái đồn nghìn rưởi quân Việt, mà ta hy sinh vạn rưởi người, như vậy là chiến thắng lớn rồi. Vì sao? Nghĩ cho cùng, người Việt bị ta đuổi từ Kinh, Hồ xuống Nam, mấy nghìn năm nay, uất khí kết đọng; bây giờ ta đánh họ, họ bị cùng đường, thì quân khí phải mạnh. Điều này quân ta không thể so với quân Việt. Về quân kỷ, thì Khai-Quốc vương đã để ra cả đời, lấy chủ đạo của tộc Việt soạn ba chương sách luyện thần cho binh tướng. Binh tướng Việt chỉ có tiến mà không có lùi. Nếu có kẻ nào lùi, sau này, đồng đội, hương đảng chế diễ, xấu hổ, rồi cũng đến phải tự tử. Điều này quân ta lại cũng không bằng quân Việt. Ba là quân tâm, thì với cái đồn nhỏ ở biên thùy, mà Linh-Nhân hoàng thái hậu hy sinh bằng cách thuận cho bạn thân nhất là Trần Ngọc-Huệ theo chồng ra trấn thủ. Ta nghe nói, Ngọc-Huệ luyện được hơn trăm nữ binh, gả cho nam binh, rồi đem chúng theo để cùng chiến đấu; cặp vợ chồng này lại ăn cùng, nghỉ cùng với binh tướng. Hỏi sao quân tình không mạnh? Nhâm Khởi đánh được đồn Ngọc-sơn phải coi là chiến công lớn vậy.



Triều Tống đều biết Tuyên-Nhân hoàng thái hậu nhũ danh Cao Thái-Vân là người có cái học bao la, uyên thâm cùng cực, võ công bà cao siêu; mỗi lời luận bàn của bà đều chính trực, phân minh. Ngặt một điều, bà sùng Nho, lại trọng những văn gia, thi sĩ, mà những người này hầu hết chống đối Tân-pháp của Vương An-Thạch, nên bà không thích y.



Hy-Ninh đế bênh An-Thạch, nói với Ngô Sung:



– Đúng như mẫu hậu chỉ dụ, đây là chiến thắng. Còn quân ta chết nhiều, chết ít, còn tùy hoàn cảnh địa phương. Bổn phận đấng quân phụ là phải cổ võ chiến công. Khanh không nên bàn nữa.



Tiếp theo Vương An-Thạch tâu trình về hệ thống phòng thủ của Đại-Việt bằng ba phòng tuyến: Phòng tuyến một dùng trang động làm mỏi mệt, kéo dài thời gian của quân Tống. Phòng tuyến hai là bốn ải kiên cố Ngọc-sơn, Đâu-đỉnh, Quyết-lý, Giáp-khẩu làm tiêu hao nhân lực. Phòng tuyến ba là chiến lũy Vạn-xuân, Tam-đảo, Như-nguyệt. Ngoài ra, còn bốn hạm đội hùng hậu luôn đe dọa lãnh hải từ Khâm, Liêm đến Quảng-châu.



Cuối cùng y kết luận:



– Ngọc-sơn là ải vừa nằm trên phòng tuyến một lẫn phòng tuyến hai. Nay ta chiếm được, thì có thể dùng thủy quân vượt sông Bạch-đằng đánh vào Thăng-long.



Nghe An-Thạch nhắc đến những địa danh Chi-lăng, Bạch-đằng, trên gương mặt Hy-Ninh đế cho đến các đại thần đều hiện ra những nét không vui. Bởi đó là những chiến trường cổ, mà quân Trung-nguyên đã để lại hàng trăm vạn bộ xương. Biết thế Vương An-Thạch tâu:



– Thời vua Thái-tông, ngài ủy việc Nam chinh cho Hầu Nhân-Bảo, Quách Quân-Biện, Triệu Phụng-Huân. Chư tướng, chư quân thiếu chuẩn bị, lại nữa lương thiếu, quân ít; các tướng vội vã nên mới bị thất bại. Còn lần này, ta ra quân có chính nghĩa, quân đông gấp đôi, lương thực dư thừa, lại do triều đình đứng chủ động, thì há sợ bọn Giao-chỉ kia sao? Trước kia ta ra quân chỉ với mục đích nhắm vào triều đình chúng, nên bỏ qua các khê động. Lần này ta chiếm Giao-chỉ, đặt làm quận huyện, nên phải thanh toán cái nút chặn này trước.



An-Thạch đem tấu chương của Triệu Tiết ra dọc, rồi phân tích:



– Nay Triệu Tiết hiến kế: Trước hết phải giải quyết xong 207 khê-động của Việt đã. Bằng không, quan quân tiến xuống Chi-lăng, chúng có thể thừa hư đánh sang Ung-châu, hay chặn đường vận lương. Đầu tiên ta dùng lợi nhử chúng: Họ nào đầu hàng, thì động trưởng được phong chức tước, dân chúng năm năm miễn thuế, binh dịch. Còn động nào chống lại, thì sẽ giết đi vài động để thị oai.



Y nhìn nhà vua:



– Thấy rằng nếu ty Chiêu-thảo chiêu dụ được khê động nào, rồi tâu về triều để phong chức tước, e lâu quá. Nên năm trước, triều dình gửi cho Quách Quỳ một trăm bằng để trống tên. Hễ động trưởng nào đầu hàng, thì điền tên vào, rồi nói rằng, đã tâu về triều, được triều đình cấp bằng phong thưởng. Hiện các tướng Đào Bật, Khúc Chẩn, Yên Đạt, Tu Kỷ là những tướng biết nói tiếng Việt đã đi cùng những người của ta đến tận các khê động chiêu dụ chúng.



Y nhìn Ngô Sung:



– Cái khó khăn nhất là tụi thủ lĩnh. Thủ-lĩnh Quảng-nguyên là Lưu Kỷ cai quản 50 khê động, thủ lĩnh Môn-châu là Hoàng Kim-Mãn cai quản 40 khê động, thủ lĩnh Lạng-chậu Thân Cảnh-Long cai quản 117 khê động, thủ lĩnh Tô-mậu là Vi Thủ-An cai quản 20 khê động. Vi Thủ-An đã theo hàng, rồi cùng với Nhâm Khởi đánh Ngọc-sơn, nhưng y tử trận.



Ngô Sung nhăn mặt:



– Tôi biết, vừa rồi những bọn này từng mang quân sang phạm cảnh, mà bây giờ ta chiêu dụ chúng. Liệu chúng có theo không?



– Không khó! Trước hết ta chiêu dụ từng khê động nhỏ, như tằm ăn dâu. Khi các khê động nhỏ theo ta, thì tụi thủ lãnh trơ như con cá thối, chỉ còn bộ xương. Bấy giờ chúng không hàng cũng không xong. Khi giải quyết xong 207 khê động rồi, ta dùng đại quân đánh thẳng vào Chi-lăng, Bạch-đằng, trả cái thù từ thời vua Thái-tông.



Tuyên-Nhân hoàng thái hậu tỏ vẻ lo lắng:



– Ta nghe người trấn Lạng-châu là phò-mã Thân Cảnh-Long với vợ là công-chúa Thiên-Thành, thì không hy-vọng gì họ đầu hàng đâu. Nếu quân ta đánh Thăng-long, chỉ có con đường độc nhất để tiến quân, mà con đường này phải qua Lạng-châu, thì trận chiến sẽ khủng khiếp lắm. Sau Lạng-châu là ải Quyết-lý, do em gái, em rể Kinh-Nam vương tử thủ. Ta sợ giờ này, có khi vương đang ở bên cạnh em gái để chỉ dạy cho ả cách chống quân ta, mới là điều đáng sợ.



Nghe nói đến Kinh-Nam vương, trên từ Hy-Ninh đế cho tới văn võ bách quan đều cảm thấy phát ớn da gà, bất giác mọi người cùng đưa mắt nhìn nhau, rồi nhìn xung quanh; người người đều có cảm giác như Ưng-sơn đang vung kiếm chặt đầu, giết cả nhà, cho đến con chó, con mèo cũng không từ.



– Phía sau Quyết-lý là Chi-lăng.



Thái-hậu tiếp: Ải hiểm trở này do vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi trấn thủ. Y là người mưu trí, có tài dùng quân khiến cho đối thủ không biết đâu mà lường. Dưới quyền hai người là hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ. Ta nghe, trong trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, mỗi Thiên-tử binh này chiến đấu như một con sư tử. Vậy triều đình phải tìm kế sách vẹn toàn, chứ không thể tin vào việc chiêu hàng, mà hỏng việc.



Tuyên chỉ xong, Thái-hậu hồi cung.



Nhà vua ban chỉ:



– Trong khi ta tìm kế vạn toàn, thì hãy tạm cho quân xuống Nam đã. Đại quân hiện ở Quế-châu, vậy hãy ban chỉ cho Quách Quỳ rằng: Hãy chuyển đại quân xuống Ung-châu ngay.



Đến đó, bãi triều.



Nhà vua vẫy tay gọi An-Thạch theo vào nội cung. Khi không có ai bên cạnh, nhà vua tuyên chỉ:



– Vương tể tướng. Khanh hãy tuyển lấy mấy võ sĩ, âm thầm xuống Ung-châu duyệt xét tình hình, rồi về tâu lại cho trẫm. Nhớ, phải tuyệt đối giữ bí mật, đến vợ con cũng không cho biết. Thôi khanh lui, nội trong ba ngày phải lên đường ngay.



Nhà vua tưởng dụ cơ mật này chỉ có mình với Vương biết. Ông quên mất viên Tổng-lĩnh thị-vệ Lý Hiến theo hộ vệ bên cạnh. Từ lâu rồi Lý Hiến căm thù Vương An-Thạch, chỉ chờ dịp trả thù. Ngay chiều hôm đó, y đến cung Tuyên-Nhân, mật tấu với Tuyên-Nhân hoàng thái hậu (Vợ vua Anh-tông).



Nguyên do Hiến thù Thạch như sau: Vốn có võ công cao siêu, lại lầu thông binh pháp, nên trước đây Lý Hiến từng được Tần-vương Triệu Thự với vương phi Cao Thái-Vân cho tháp tùng sang Đại-Việt. Sau khi nhà vua lên ngôi, y nghiễm nhiên trở thành người hiểu các vấn đề Nam thùy bậc nhất trong hậu cung, cùng bàn bạc với hoàng hậu. Nay nhà vua băng, hoàng hậu thành thái hậu, y được thái hậu dùng làm tai mắt riêng. Vì vậy, y hy vọng được cầm quân đánh Đại-Việt, khi trở về sẽ được lĩnh tước hầu, tước công. Nào ngờ y bị Vương An-Thạch bênh Triệu Tiết, tâu với nhà vua bãi chức y, gạt y ra khỏi việc cầm quân. Từ đấy, y tìm đủ mọi cách trả thù Thạch. Y bỏ ra không biết bao nhiêu tiền bạc để thu nhặt tin tức xấu về Tân-pháp, rồi tâu lên Tuyên-Nhân hoàng thái hậu.



Hôm nay y thu được khá nhiều tin đặc biệt, trong đó có việc nhà vua sai An-Thạch mật công cán Nam thùy, y đem tâu với thái hậu. Y đâu ngờ trong khi y tâu, lẫn trong đám cung nga phục thị thái hậu, lại có sự hiện diện của hai nữ sứ giả do Linh-Nhân hoàng thái hậu sai sang dâng lễ vật mừng sinh nhật ngài.



Nguyên trước đây, khi vua Anh-tông còn là thái tử, tước phong Tần-vương. Vương cùng vương phi Cao Thái-Vân nam du mật nghiên cứu tình hình Đại-Việt. Trong lần đó vương với vương phi đã dạy võ, ban vàng cho cô thiếu nữ cùng khổ Lê-thị Minh-Đệ ở chùa Từ-quang. Khi Minh-Đệ thành Ỷ-Lan thần phi, thì vua Anh-tông băng hà. Phi tưởng nhớ đến việc nhà vua với hậu chiếu cố tới phi. Phi xin vua Thánh-tông cho chịu tang, làm lễ tế vọng. Từ đấy, hàng năm, đến ngày giỗ vua Anh-tông, ngày sinh nhật của Thái-hậu, Ỷ-Lan đều gửi sứ sang dâng lễ vật. Nay Ỷ-Lan thành Linh-Nhân hoàng thái hậu, đang bận rộn điều khiển cuộc chiến giữ nước, nhưng hậu vẫn không quên ngày sinh nhật của sư mẫu. Hậu sai phu nhân của Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh là Trần Ngọc-Hương làm chánh sứ; phu nhân của Quán-quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi là Trần Phương-Quỳnh làm phó sứ sang dâng lễ vật. Thái-hậu thấy hai nữ sứ giả xinh đẹp, võ công cao thâm, lầu thông kinh, sử, tử tập của Trung-quốc, ngài cực kỳ yêu mến. Hậu giữ hai phu nhân ở trong cung đàm đạo mấy ngày.



Ngay chiều hôm đó, Trần Ngọc-Hương xin phép Tuyên-Nhân hoàng thái hậu ra ngoài kinh thành để tìm mua một số sách Trung-quốc. Sợ Khu-Mật viện Tống cho người theo dõi, phu nhân đi khắp các hiệu, mua không biết bao nhiêu sách mà kể, rồi âm thầm ra bến sông. Ở bến sông có con đò chờ sẵn, chở phu nhân ra giữa giòng rồi áp vào con thuyền lớn. Trong con thuyền đó đã có mười người ngồi chờ. Mười người đó là đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh; đại hiệp Trần Bảo-Dân, phu nhân là Khấu Kim-An; sáu người trong Thần-vũ thập anh là vợ chồng Hoàng, Thanh, Huyền. Ngọc-Hương trình bầy tỷ mỉ từ những xung đột của các đại thần Tống cho đến việc Tuyên-Nhân hoàng thái hậu vốn sùng Nho, yêu thơ văn. Thái hậu muốn hủy bỏ Tân-pháp, cách Vương An-Thạch và đồng bọn; dùng Ngô Sung, Vương Khuê, Phùng Kinh. Hậu lại muốn gọi các văn thi sĩ danh tiếng của Tống như Tô Thức, Tô Triệt, Tần Quan, Hoàng Đình-Kiên đang bị lưu đầy về triều.



Trần Bảo-Dân cùng hai đại sư, Thần-vũ lục anh, Ngọc-Hương bàn kế hoạch chi tiết, sao khiến cho Vương An-Thạch mệt mỏi, đưa đến tâm thần hỗn loạn, rồi nhà vua cách chức y. Xong việc, Ngọc-Hương trở về cung Tuyên-Nhân với hàng trăm bộ sách.



Hôm sau, Vương An-Thạch nhập triều bàn việc Nam thùy với Hy-Ninh đế, qua giờ Ngọ mới lên xe về dinh. Phía trước y có năm mươi kị mã, phía sau có năm mươi võ sĩ cầm đao hộ vệ. Xe vừa ra khỏi Hoàng-thành, thì thình lình có tiếng kêu rắc, rắc rồi bánh xe bên trái văng ra xa. Xe lật nhào. Viên gia tướng Đô Kinh nhấp nhô một cái, đã nhảy lên ôm lấy Thạch. Y dùng một thức khinh thân vọt mình như chiếc pháo thăng thiên, rồi đáp xuống vệ đường an toàn.



Chiếc xe lật nhào, đè lên người tên mã phu. Hai con ngựa cất cao vó trước hí lên inh ỏi. Đám vệ sĩ vội lật xe lại, cứu tên mã phu ra, rồi lấy ngựa cho Thạch cỡi.



Về tới dinh, Thạch nổi lôi đình, truyền gọi viên gia tướng Đô Kinh hỏi:



– Người đã điều tra xem tại sao trục xe lại gẫy không?



– Trình quốc công, tiểu tướng đã xem xét rất kỹ: Gỗ làm trục xe là loại gỗ trắc còn mới, không có vết tích bị chặt, bị cưa, thế mà một khúc bị nứt ra mới kỳ lạ. Tiểu tướng thẩm vấn tên mã phu, thì từ sáng đến giờ, không có ai lại gần xe cả. Kết lại, chẳng may trục xe của quốc công làm bằng gỗ, trúng phải một miếng bị mục.



Viên gia tướng ra rồi, thì người tỳ thiếp thứ năm mà Thạch cực kỳ sủng ái là Hương-Lan sai bưng trà với bánh, mứt, hoa quả dâng cho Thạch. Thấy người tỳ thiếp, cơn giận của Thạch hạ xuống liền. Hương-Lan thỏ thẻ:



– Tướng-công ơi! Hôm nay nhà mình có nhiều sự lạ xẩy ra, biết tướng công cần lao chính sự nhiều, nhưng thiếp vẫn phải trình tướng công.



– Đó là những sự gì vậy?



– Trước hết, là con chó xinh đẹp của tướng công bị mất tích hôm trước, nay đã thấy rồi.



– Thế nó đâu?



– Nó rơi xuống giếng chết đã mấy ngày, hôm nay mới nổi lên. Vì vậy nước giếng hôi thối, nên quản gia phải cho tát giếng. Còn nước dùng trong dinh hôm nay là nước gánh từ sông về.



– Đáng tiếc. Còn sự gì khác nữa không?



– Tin này thực khủng khiếp, kinh thiên động địa.



An-Thạch lo lắng:



– Trong nhà có ai chết ư?



– Hơn thế nữa. Tướng công ơi! Tin từ cố lý đưa về rằng, ngôi mộ hiển khảo (bố đẻ), tỷ khảo (mẹ đẻ) bị kẻ trộm đào lên, mang xương mang đi mất.



An-Thạch nổi giận hét be be:



– Ta phải đem tên lý dịch, cùng đám bảo binh trong làng chém hết để trị tội. Mộ của song thân ta xây bằng đá ong lớn như vậy. Nếu muốn đào lên, thì phải hàng chục người, đào trong hơn ngày. Hơn ngày mà lý dịch, bảo binh không biết, thì giả như giặc đến, sẽ ra sao?



Giận quá, y ném chung tra trên tay xuống nền nhà vỡ tan tành.



Chính thê của An-Thạch bước vào:



– Tướng công ơi! Khi tướng quân được đắc dụng, thiếp chẳng từng nói rằng: Nho học có từ mấy nghìn năm, đã ăn vào xương tủy Thiên-hạ rồi. Nay tướng quân muốn thay đổi hẳn, thì chỉ là dã tràng xây cát biển Đông mà thôi. Thiếp cho rằng trục xe gẫy, con chó chết, mộ hai thân bị đào, chắc cũng vì thù hằn mà thôi. Cổ nhân nói:




–???



– Hà hà! Khi ông cầm quyền, thì hét ra lửa, mửa ra khói, bây giờ thất thế, cũng không hơn gì gã ăn mày như ta, thui thủi như con chó cụt đuôi vậy.



Lão ăn mày bắt con sâu ở bụi cây gần đó, bỏ lên mui xe An-Thạch, rồi cầm cục than viết bài thơ như sau:



Thanh-miêu, Trợ-dịch lưỡng phương nông,



Thiên hạ ngao ngao oán tướng công.



Độc hữu hoàng trùng thiên cảm đức,



Hữu tùy xa giá quá Giang-Đông.



Dịch



Thanh-miệu trợ dịch hại nhà nông,



Thiên hạ xôn xao oán tướng công.



Độc hữu sâu vàng còn cảm đức,



Tháp tùng xa giá quá Giang-Đông.



Chữ của lão đẹp như rồng bay, phượng múa. An-Thạch biết đây là một dị nhân, giả làm ăn mày trêu mình. Y cung tay:



– Chẳng hay tiên sinh cao danh, quý tính là gì, có thể cho ta biết được không?



Lão mở to mắt nhìn An-Thạch, hai mắt An-Thạch gặp luồng nhãn quan của lão làm y rùng mình, hồn phách cảm thấy u u mê mê; y chỉ muồn nằm lăn ra ngủ một giấc. Tiếng lão ăn mày như rót vào tai An-Thạch:



– Biết để làm gì? Này tướng công. Xưa kia Hạng vương anh hùng là thế, khi qua sông này mang tám nghìn đệ tử, vào Trung-nguyên đuổi hươu. Lúc sự không thành, về qua bến Ô-giang, lủi thủi một mình. Vương nghĩ lại xấu hổ, không còn mặt mũi nào gặp phụ huynh của con em tử đệ đã chết, mà tự ải, nên danh lưu muôn thủa. Nay tướng công bầy ra Tân-pháp, oai phong biết mấy, rồi bị đàn bà, trẻ con Giao-chỉ đánh bại. Ôi đau biết bao, nhục biết bao? Sao tướng công không tự tử để lưu danh như Hạng-vương xưa???



Nghe lời lão ăn mày nói, An-Thạch cảm thấy mắt buồn ngủ muốn dí lại, tâm hồn mơ mơ tỉnh tỉnh. Y nghĩ thầm: Ừ ta còn sống làm gì nhỉ? Chết đi cho khỏi mệt thân, khỏi lao tâm khổ tứ.



Tiếng lão ăn mày vẫn như thiết như tha:



– Thời không đến! Vận đi qua. Tự tử đi thôi! Tự tử đi thôi.



Trong khi đó tếng tiêu từ đâu đưa đến, lọt vào tai y buồn đến đứt ruột ra được. Y rùng mình vẫy tay gọi Vương Phúc. Vương Phúc tiến tớ, tay rút kiếm, trở chuôi trao cho An-Thạch. Tiếng lão già vẫn thiết tha:



– Kiếm đó! Kiếm đó, tự tử đi thôi!



An-Thạch từ từ đưa kiếm lên cổ, lòng trù trừ chưa quyết. Tiếng lão già ăn mày càng thúc dục khẩn cấp hơn:



– Đâm kiếm vào ngực đi! Đâm ngay đi! Còn chờ gì nữa.



An-Thạch nghiến răng thọc kiếm vào ngực.



Bỗng có tiếng quát thanh thoát:



– Ngừng lại! Không nên!



Rồi một trái cam bay đến, đánh bay kiếm của An-Thạch đi. Thanh kiếm rời khỏi tay y đến hai trượng, rồi rơi xuống đất đến choang một tiếng. An-Thạch ngơ ngơ, ngác ngác nhìn người ném cam không cho y tự tử: Đó là một đôi nam nữ cỡi ngựa thủng thỉnh tiến tới. Bất giác y rùng mình, vì chính là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai với công chúa Huệ-Nhu.



Y mơ mơ màng màng cung tay hành lễ:



– Thần Vương An-Thạch xin tham kiến đại vương và điện hạ. Thời hết! Vận hết! Hôm nay thần nhất định tự kết liễu đời mình ở đây.



Công chúa Huệ-Nhu chĩa ngón tay điểm vào trán y đến véo một tiếng. Y rùng mình tỉnh lại. Chợt hiểu mọi sự, y chỉ mặt lão ăn mày, ba nhạc công:



– Thì ra các người định hại ta. Trọn đời ta, ta chỉ biết đem tài lương đống ra thờ vua, việc của ta không đụng chạm gì đến các người. Hà cớ các người muốn giết ta?



Y khom mình trước công chúa Huệ-Nhu:



– Đa tạ điện hạ cứu mạng.



Công chúa Huệ-Nhu cười nhạt:



– Kinh quốc-công cũng còn nhớ đến ta ư?



Kinh-Nam vương hướng lão già ăn mày:



– Tam sư huynh! Vương quốc công nay đã cùng đường, xin tam sư huynh tha mạng cho y một lần.



Vương An-Thạch kinh hãi hỏi lão già ăn mày:



– Người là người Việt ư?



Lão ăn mày vuốt mặt một cái, tay lột bộ râu giả ra rồi cười:



– Vương tiên sinh có nhận ra ta chăng?



An-Thạch rùng mình:



– Thì ra người là Kinh-châu tư mã Trần Trung-Đạo đấy ư?



– Chính thị. Ta với người không thù không oán. Tân-pháp của người thực là cổ kim chưa thánh nhân nào bằng. Giả như người thi hành Tân-pháp mưu cho dân giầu, nước mạnh, thì ta cũng khom lưng kính phục người. Nhưng người lại mưu đồ gây chiến, Nam xâm, thì ta phải giết người; để dân Hoa, dân Việt không tàn sát nhau, không thù hận nhau.



Kinh-Nam vương vẫy tay gọi vợ chồng Phúc, Lộc, Thọ lại, rồi mỉm cười:



– Thôi, việc của các con như vậy là xong rồi. Các con mau trở về cầm quân đi thôi. Quách Quỳ đang vượt biên vào Đại-Việt đấy.



An-Thạch ngơ ngơ ngác ngác như người trong mộng. Vương nói với y:



– Xin giới thiệu với quốc-công, đây là sáu sư điệt của ta. Ba đứa con trai đều họ Hùng có tên Nhân, Nghĩa, Lễ. Ba đứa con gái đều họ Âu có tên Hoàng, Thanh, Huyền. Trước đây chúng là trưởng lão Hồng-thiết giáo Chiêm đấy. Hiện chúng đều là tướng cầm quân bên Đại-Việt, võ công rất cao cường.



An-Thạch kinh hãi hỏi:



– Thì ra sáu người là gian tế của Giao-chỉ đấy ư? Đáng chết thực. Đáng lẽ ta phải biết từ trước mới phải. Ta trúng kế các người suốt mấy tháng qua mà chưa chết, cũng là điều lạ.



Hùng Nhân chỉ Kinh-Nam vương:



– Chính sư thúc của bọn tiểu nhân tuyên chỉ rằng không những không được giết tướng công, mà còn phải bảo vệ tướng công nữa.



Sáu người tới trước Vương An-Thạch cung tay:



– Cùng nhau qua chuyến đò cũng nên nghĩa. Huống hồ ba tháng qua, sáu chúng tôi được quốc công đãi ngộ, tin dùng. Nay chúng tôi trở về cố quốc, xin quốc công nhận lấy một vái, gọi là lễ tạ ơn.



Sáu người vái An-Thạch rồi cùng Trung-Đạo, ba nhạc công cùng nhập bọn ra đi. Thình lình Hùng Nhân quay lại vỗ tay vào cái trục xe ngựa của An-Thạch, lập tức rắc một tiếng, cái trục bị gẫy, bánh xe văng ra xa. Trong khi đó gã nhạc sĩ gảy độc huyền cầm, để tiêu liên miệng thổi một hơi. Tiếng tiêu làm cho An-Thạch, cùng tất cả gia thuộc đều không tử chủ được, chân tay múa may quay cuồng. Gã nhạc sĩ ngừng thổi tiêu, quay lại cười:



– Ta là ma sống, quỉ sống đây.



Rồi cả bọn phơi phới xuống con thuyền ở bên sông. Thuyền phu kéo buồm lên, con thuyền từ từ xa bến. Đâu đó, tiếng tiêu, tiếng phách, tiếng đàn vọng lại lẫn trong gió dìu dặt, thê lương như khóc như than.



Bằng ấy sự kiện, làm Vương An-Thạch như người trong cơn mê chợt tỉnh: Thì ra khi quân Việt đánh trận Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp cố tình thu lượm thây tử sĩ đem chôn, lại đề tên trên mộ, chỉ với mục đích dùng binh Tống chết, cướp hồn binh Tống sống. Việc xe gẫy trục, việc chó chết quẳng xuống giếng, việc hồn ma, bóng quỷ kêu khóc, việc tiếng tiêu ma quái làm chết người, việc hai thánh tăng... đều do Đại-Việt tạo ra để đánh triều Tống ngay tại Biện-kinh. Bất giác y rùng mình:



– Giả như ba cặp Phúc, Lộc, Thọ mà ra tay, thì giờ này ta còn đâu? Kinh-Nam vương là đấng anh hùng, bằng như vương trả thù ta, thì liệu gia thuộc ta, bản thân ta đâu có còn đến ngày nay?



Nghĩ vậy, lòng y nguội như tro tàn, bao nhiêu chí khí tiêu ma hết, y cùng với gia thuộc xuống đò sang sông.