Nam Quốc Sơn Hà

Chương 42 : Kim-cương Thập Bát Hùng

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Ngày Nhâm Thìn, mùa Đông, tháng chạp, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng nguyên niên đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt (10-12– Bính-Thìn. DL. 7-1-1077) nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.



Trời Bắc-biên Đại-Việt đang mưa phùn, gió bấc đột nhiên mây quang, mưa tạnh, nắng ấm. Không khí trở lên khô quạnh, gió heo may rít trên những ngọn cỏ tiêu sơ.



Trên suốt một giải biên giới Hoa-Việt, các đạo quân Tống đóng thành một giải, trại nọ nối tiếp trại kia đến hơn hai trăm dậm. Binh tướng vừa nhận được lệnh:



Ngày 12 bắt đầu tiến đánh vào động Giáp, thủ đô của Bắc-biên.



Tin này, tế tác Bắc-biên thu được, lập tức sai chim ưng chuyển về cho Khu-mật viện. Một mặt Trung-Thành vương vội vã thông báo với Linh-Nhân hoàng thái hậu, Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt. Một mặt sai chim ưng đi mời các tướng trấn thủ về thiết Tinh-triều.



Lễ nghi tất.



Trung-Thành vương trình bầy:



– Trong khoảng thời gian từ tháng ba đến giờ, mới có tám tháng, mà tình thế đã thay đổi gần như hoàn toàn. Trước hết là tình hình Tống. Hy-Ninh với Vương An-Thạch dốc quân nghiêng nước xuống đánh ta. Họ huy động tới bốn mươi vạn binh từ Tây-thùy, từ Bắc-cương, kể cả quân vùng Biện-kinh, vùng Kinh-Hồ, Mân-Triết. Họ lại huy động sáu mươi vạn bảo binh, vừa dùng để chuyển lương, vừa dùng để trấn thủ hậu cứ, trấn thủ vùng đã chiếm được.



Vương nói chậm lại:



– Với lực lượng đó, với quyết tâm của Tống triều, thì dù dân ta có đông gấp ba, quân ta có đông gấp hai, cùng không đủ khả năng chống đỡ. Hy-Ninh lệnh cho Quỳ, Tiết dùng lối đánh Thập kỷ, nhất bỉ, tức hy sinh mười của mình, chỉ để giết một địch. Quỳ cho viên trấn thủ Khâm-châu thí nghiệm lối đánh này ở Vĩnh-an. Quả nhiên đồn Ngọc-sơn thất thủ. Trong trận này, quân trấn thủ của ta có nghìn rưởi, Khởi dùng tới nghìn rưởi hàng binh của Thanh-Nhiên, ba nghìn rưởi hoàng nam của Vi Thủ-An, hai vạn quân Quảng, tức mười lăm người đánh một người. Dĩ nhiên Ngọc-sơn tử thủ, từ tướng tới quân ta đều tuẫn quốc. Nhâm Khởi hy sinh đến một vạn tám nghìn người, tức một đổi mười hai, mà Hy-Ninh vẫn coi là chiến thắng, ban chỉ cổ võ sĩ khí.



Thường-Kiệt tiếp lời Trung-Thành vương:



– Trong nguy cơ diệt tộc đó, Thái-hậu ban chỉ: Trước đây Tống đánh ta bằng Ngũ-lôi. Họ dùng hậu cung làm gian tế, họ dùng Chiêm đánh sau lưng, họ dùng người Việt gốc Hán làm nội ứng thì ta cũng dùng thuật đó đánh lại họ. Việc này xin để Trung-Thành vương phi trình bầy.



Trung-Thanh vương phi Nguyễn-thị Trinh-Dung, phụ tá Linh-Nhân hoàng thái hậu về Khu-mật viện đứng lên:



– Thái-hậu ban chỉ: Tống ra binh như đàn beo, đàn hổ đánh ta, thì ta cũng dùng năm mũi thần tiễn bắn chúng. Mũi thứ nhất quan trọng vô cùng. Mũi này mang tên dĩ hổ trị hổ. Ta dùng quân Tống đánh quân Tống, biến dân Tống thành kẻ thù của quân Tống. Nội dung thi hành như sau: Hồi ta ra quân Bắc-phạt, Thái– hậu ban mật chỉ cho Tín-Nghĩa vương tập hợp tù hàng binh, bắt hết bảo binh vùng Khâm, Liêm, các trại Như-hồng, Như-tích, Để-trạo, Thiên-long thành lập các đạo quân Lĩnh-Nam rồi trao cho Động-đình thất kiệt; vùng Tô-mậu, Tây-bình, Lộc-châu, Ung-châu thành đạo quân Nam-Việt trao cho Tuyết-sơn thập anh; vùng Thái-bình, Hoành-sơn, Ôn-nhuận, Quy-hóa và Dung, Nghi, Bạch châu thành đạo quân Đông-Việt trao cho Trường-bạch ngũ hùng. Sau đó để cho họ tổ chức những vùng này như một nước nhỏ. Nay Tống đem quân xuống, thì bao nhiêu tài nguyên, tráng đinh bị ba nhóm này lấy hết. Ba nhóm này huy động quân cơ hữu, dân chúng kháng chiến đánh Tống. Quỳ, Tiết có dẹp được họ, thì cũng hao tổn tinh lực rất nhiều. Dĩ nhiên khi ba nhóm này bị diệt, quân cơ hữu, bảo binh chết hết, thì vô tình dân Nam-thùy Tống coi quân Tống triều là kẻ thù. Đó là lý do Tống ra quân từ tháng ba, mà giờ này mới tới đây. Đó cũng là lý do, Tống phải dùng bảo binh trấn từ Quế-châu trở xuống, phòng bị đánh tập hậu.



Vương phi tiếp:



– Mũi tên thứ nhì mang tên Tôn nho diệt tả tức dùng Nho giáo đánh Tân-pháp của Vương An-Thạch. Trước ta đã dùng tiền bạc khích các bậc chính Nho, danh nhân, văn thi sĩ chống Tân-pháp; tức chống Hy-Ninh, Vương An-Thạch. Điều này các vị đều biết. Cho đến nay các đại thần chống đối trở thành lực lượng được dân chúng, hậu cung cảm tình. Họ gồm Phó Tể-tướng Ngô Sung, Vương Khuê, Binh-bộ thượng thư Phùng Kinh. Ngoài các châu thì có hàng trăm đại thần chống Tân-pháp bị đầy, trong đó có các danh sĩ Tư-mã Quang, Tô Thức, Tô Triệt, Tần Quan, Trình Hiệu, Hoàng Đình-Kiên.



Ghi chú,



Sau này Hoàng Đình-Kiên soạn bộ Thần-tông thực lục, tức bộ sách chép tất cả sự kiện diễn ra dưới thời Hy-Ninh (1067-1077) và Nguyên-Phong (1078-1084), là một trong những tài liệu chính yếu để viết bộ Nam-quốc sơn hà này. Niên hiệu Thiên-Thánh nguyên niên (1094), Tân-pháp của Vương An-Thạch lại được tái dụng. Ông đang làm chức Bí-thư thừa kiêm biên tu quốc-sử, Tể-tướng Chương Đôn thuộc Tân-đảng vu cáo rằng trong bộ Thần-tông thực lục ông cố ý chép sai sự thực. Ông bị vua đầy ra Phù-châu (Tứ-xuyên ngày nay). Những điều Chương Đôn cáo ông chép sai chỉ có ba phần chính: Một là phe đảng của Vương An-Thạch quá khích; hai là các tướng Việt quá anh hùng, quân Việt quá thiện chiến; ba là sự vội vã đem quân đánh Đại-Việt thay vì đánh Liêu. Đem so sánh với Quách-thị Nam chinh, Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký, các bia ở đền thờ Tống ngũ đại vương từ tại Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp là Quách Thủ-Tiết, Ôn Nguyên-Dụ, Trương Biện, Hứa Dự, Vương Trấn...Tôi thấy trong ba vấn đề mà Chương Đôn nói rằng ông chép sai sự thực đó, thì trại lại quá sơ lược, gần như lướt qua mà thôi.



Mọi người đều gật đầu công nhân mũi này khá độc.



– Mũi thứ ba là dùng hậu cung chống Hy-Ninh, Vương An-Thạch. Mũi này mang tên Trung thứ bại tặc Nho, tức ta dùng lòng ngay thẳng, sự hiếu kính của ta, đánh tên tặc Nho Vương An-Thạch. Nguyên thời hàn vi, Thái-hậu được vua Anh-tông và Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu bên Tống tặng vàng, dạy võ thu làm đệ tử. Từ ngày người nhập cung, hàng năm vẫn sai sứ sang dâng lễ vật lên sư phu, sư mẫu vào dịp sinh nhật, vào dịp tết Nguyên-đán. Nay nhân dịp sinh nhật Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu; người sai hai quận chúa Trần Ngọc-Liên, Trần Phương-Quỳnh đi sứ, để kết thêm tình thân, và trình bầy tất cả thảm trạng chiến tranh do Hy-Ninh, Vương An-Thạch gây ra.



Vương-phi đưa mắt nhìn Phương-Quỳnh rồi tiếp:



– Mũi thứ tư là giết chết Vương An-Thạch. Mũi này mang tên Viêm-đế sát Bắc cẩu. Mũi thứ năm là dùng xác chết, hồn ma quân Tống, đánh vào tâm quân Tống, mang tên Xử ma bại quỷ. Mũi này xuất phát trong Võ-kinh Phù dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng; công thành vi hạ. Tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ. Nghã là: Phàm đạo dùng binh thì đánh vào tâm giặc là thượng sách; đánh vào thành giặc là hạ sách. Tâm chiến là thượng sách; binh chiến là hạ sách». Kết quả ba mũi tên này đều có liên hệ với nhau. Xin để quận chúa Phương-Quỳnh trình bầy.



Phương-Quỳnh đứng lên thuật lại: Khi hai nàng đến Biện-kinh, vào cung Bảo-từ yết kiến Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu dâng lễ mừng. Ngọc-Liên là người có giọng nói ngọt như cam thảo, rất dễ lọt tai. Nhân thái hậu là người Hào-châu, hai nàng cố luyện giọng nói, mặc y phục vùng này mà bái kiến. Cho nên vừa gặp hai nàng, Tuyên-Nhân hoàng thái hậu đã hài lòng. Hai nàng trình bầy đức hiếu kính của Linh-Nhân hoàng thái hậu lên sư mẫu; lại xin được đến điện Linh-thiên để dâng lễ, cùng bái yết di dung vua Anh-tông là sư phụ của Thái-hậu. Ngọc-Liên tâu với Tuyên-Nhân hoàng thái hậu: Khi thần lên đường, Linh-Nhân hoàng thái hậu dặn dò đủ điều. Người nhớ đến tình yêu vô bờ bến của tiên đế với Thái-hậu ban cho hồi ở Từ-quang tự, mà khóc đến hết nước mắt. Tuyên-Nhân Thánh-liệt nghe đến đây hồi tưởng lại lúc bà với vua Anh-tông rời chùa Từ-quang, bấy giờ Thái-hậu còn là Minh-Đệ gục đầu vào ngực bà mà khóc nức nở, không muốn xa; nay nghe Ngọc-Liên kể, bà chợt nhớ truyện xưa rồi cũng bật lên tiếng khóc.



Nhờ hai nàng nói giỏi, thông thạo kinh, sử, tử, tập Trung-quốc, nên được Tuyên-Nhân Thánh-liệt hoàng thái hậu giữ chơi hơn tháng ở trong cung để giảng kinh sách, lễ nghi cho. Hai nàng đã được bà thu làm đệ tử. Chính vì vậy mà hai nàng biết Thái-hậu rất ghét Tân-pháp, bởi Tân-pháp đi ra ngoài Nho. Hai nàng lại trình bầy: Đại-Việt đã lập Văn-miếu đắp tượng thờ Không-tử, bẩy mươi hai vị tiên hiền để thờ. Nhân lúc Tuyên-Nhân thái hậu vui lòng, hai nàng trình bầy rõ: Linh-Nhân hoàng thái hậu là người xuất thân dân dã, Thái-Ninh đế tuổi còn thơ, Long-thành ẩn-sĩ Tôn Đản không thích công danh, Lý đại tư mã là quan thị; chả ai có can đảm gây chiến với Thiên-triều. Tất cả chỉ mong ơn mưa móc của Thiên-triều xuống, mà khốn thay Vương An-Thạch muốn đánh Đại-Việt để giải làn sóng chống đối trong triều, ngoài trấn. Nay quân Thiên-triều hơn trăm vạn sang, Linh-Nhân hoàng thái hậu nhờ hai nàng tâu với sư mẫu rằng, nếu như Đại-Việt không giữ nổi, thì sẽ dùng thuyền vượt biển sang nương nhờ sư mẫu. Tuyên-Nhân thái hậu nổi lôi đình, người hứa sẽ tìm cớ cách chức Vương An-Thạch.



Trong khi ở trong cung Bảo-từ, hai nàng biết rất nhiều tin tức về Tống triều, đặc biệt việc An-Thạch kinh lý phương Nam. Ngọc-Liên vội báo cho hệ thống tế tác của ta do Trần Bảo-Dân điều khiển. Hệ thống tế tác gồm có Côi-sơn tam anh, Thần-vũ thập anh, thêm hai đại sư Minh-Không, Đạo-Hạnh đang nghiên cứu cách giết Vương An-Thạch. Ngặt vì từ khi phò mã Thân Thiệu-Thái, vua bà Bình-Dương, U-bon vương... đại náo Sùng-chính điện, thì từ trong cung, cho đến tư dinh đều bố trí thị vệ, võ sĩ rất cẩn mật, ta không có cách nào giết Thạch. Côi-sơn tam anh nhờ Kinh-Nam vương giúp đỡ. Nhưng Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu đều từ chối rằng: Tuy Thạch cùng Hy-Ninh đế kiếm cớ để đến nỗi vương với công-chúa phải rời quân-lữ thực; nhưng đó là cớ có thực. Bình tâm mà xét, Thạch là đại thiên tài, là đại công thần của Tống, vương không thể, và không nên giết Thạch. Côi-sơn tam anh nhờ đến Quốc-mẫu, Mộc-tồn hòa thượng, tiên nương Bảo-Hòa, vua bà Bình-Dương, U-bon vương can thiệp, vương cũng lắc đầu, khoanh tay đứng ngoài cuộc: Ai giết Thạch được thì cứ giết, vương không cản; ngược lại vương không giúp ta giết y.



Mọi người đều gật đầu công nhận Ưng-sơn song hiệp có lý: Đối với luật pháp, đạo lý Tống; quả Thạch vô tội, lại có đại công. Hơn nữa y là một thiên tài.



Phương-Quỳnh tiếp:



– Nhân ngày sinh nhật chín mươi lăm của quốc-trượng Tự-An. Quốc-mẫu xin quốc trượng can thiệp, bắt Kinh-Nam vương giết An-Thạch. Không những quốc trượng không can thiệp, mà lại còn dạy: Bất cứ người Việt nào cũng có thể giết An-Thạch, trừ Tự-Mai. Vì An-Thạch là thiên tài, là đại công thần Tống, trong khi Tự-Mai là phò mã là Kinh-Nam vương của Tống. Nếu ta hay Tự-Mai là An-Thạch, ta cũng hành xử như y. Cuối cùng công chúa Huệ-Nhu đồng ý giúp Côi-sơn tam anh làm cho Thạch tiêu ma chí khí, hóa khùng hóa điên, bị cách chức, chứ không giết y.



Thế rồi nàng thuật chi tiết việc Kinh-Nam vương sai chân tay của người là Đô Kinh, làm gia tướng cho An-Thạch giúp đỡ Côi-sơn tam anh để lọt vào dinh An-Thạch, hậu cung; làm rối loạn dinh An-Thạch, hậu cung. Chính Đô Kinh bầy ra vụ Thần-vũ thập anh mãi võ, rồi tuyển làm vệ sĩ của Thạch; cố tình đánh xe cho Thạch qua vùng Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, thay vì đi đường khác. Cuối cùng y bị tiêu ma chí khí, bị cách chức, suýt nữa tự tử ở bờ sông Trường giang. Đúng lúc đó Ưng-sơn song hiệp xuất hiện cứu y, và cho y biết rõ: Đáng lẽ y bị giết, song hai vị nhớ công, thương tài mà cứu cho. Nếu muốn sống thì phải ở yên Giang-ninh.



Công-chúa Côi-sơn hỏi:



– Phương-Quỳnh, thế còn mũi tên thứ năm, dùng quân Tống chết, đánh quân Tống sống ra sao?



– Trình thái sư thúc.



Phương-Quỳnh trình: Sau trận đánh Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu; phu nhân với chồng huy động quân Việt thu nhặt tử thi quân Tống chôn riêng từng người một, suốt dọc đường Bắc-Nam từ Côn-lôn xuống Ung-châu. Trên mỗi mộ đề rõ tên tuổi, đơn vị, quê quán. Nay quân Tống từ Tây, Bắc xuống, khi qua hàng chục vạn nấm mồ ấy, dù can đảm đến đâu cũng tan nát chí khí. Một điều may mắn nữa, khi ban chỉ thiết kế thái hậu không ngờ tới: Đó là bố mẹ, vợ con, anh em tử sĩ nhân thấy quân Tống chiếm lại vùng đất bị ta đánh, đã theo xuống cải táng tử thi mang về nguyên quán. Vì xác chết mới chôn được hơn sáu tháng, nên khi đào lên hôi thối cùng cực, dòi bọ lúc nhúc, ruồi nhặng sinh ra hợp với lam chướng, khiến quân Tống chết vì bệnh không biết bao nhiêu mà kể.



Ghi chú,



Ngày nay quân đội các nước đều mang một tấm thẻ kim khí đeo ở cổ, để khi chết dễ dàng tìm ra căn cước. Còn đời Tống, quân sĩ đều phải dùng chàm xâm vào người các chi tiết: Họ tên, quê quán, ngày giờ tháng năm sinh. Có lẽ Đinh Hoàng-Nghi sai Thiên-tử binh căn cứ vào đó mà viết lên những mảnh gỗ cắm trên mộ, cho thân nhân dễ tìm kiếm.



Trung-Thành vương trình bầy tiếp:



– Bây giờ tới tình hình mặt trận Bắc-cương. Tên Vi Thủ-An với hai mươi trang động hàng giặc; tên Trần Thanh-Nhiên, Nguyễn Văn-Khan làm phản, vì vậy đồn Ngọc-sơn thất thủ, trại Như-hồng về tay giặc. Nhờ hạm đội Âu-Cơ yểm trợ, đô thống Lê Huy với quận chúa Chu Thúy-Phương vẫn cố thủ được ở Tiên-yên. Thế là mặt trận Bắc-cương bị hở cánh Đông-Bắc. Bây giờ vua bà Thiên-Thành cho biết tình hình cánh Tây-Bắc.



– Tâu Thái-hậu, kính Hoàng-thúc, kính đại huynh.



Công-chúa Thiên-Thành trình: Trong hai tên cầm quân đánh ta, thì tên Triệu Tiết là ngưới mưu lược hơn hết. Y tận dụng bọn trang trưởng, động-chủ thuộc vùng Tả-giang, Hữu-giang của Tống, vùng Tô-mậu của ta, vốn có giao hảo với các trang-động chủ thuộc quyền Lưu Kỷ; sai chúng dẫn bọn tướng Tống biết nói tiếng Việt như Tu Kỷ, Yên Đạt, Khúc Chẩn đi chiêu hàng. Có trang động ham danh mà theo, có trang động vì cô lập mà theo, cũng có trang động cương quyết chống, nhưng bị chúng đem quân ép mà phải nép. Cuối cùng, Lưu Kỷ mất hết các trang động trực thuộc đành phải hàng. Tiết biết Kỷ có uy tín, bất đắc dĩ mà khuất, nên sau khi hàng, chúng đưa Kỷ với cả gia quyến về Biện-kinh.



Thường-Kiệt hỏi:



– Còn Hoàng Kim-Mãn, xưa nay y thù hận Tống ghê lắm, mà sao y đầu hàng dễ dàng như vậy?



– Thưa đại huynh.



Phò-mã Thân Cảnh-Long trình: Từ lâu rồi, giữa 40 trang động của Môn-châu với ba mươi trang động của Vĩnh-bình thù hận, chém giết nhau khủng khiếp lắm. Khi Tống mạnh thì Vĩnh-bình dựa hơi chém giết người thuộc Môn-châu. Khi Việt mạnh thì Môn-châu dựa hơi chém giết người của Vĩnh-bình. Hồi tháng chín năm trước, ta đem quân Bắc-phạt, Hoàng Kim-Mãn với các trang động thuộc Môn-châu tàn sát các khê động của Vĩnh-bình khủng khiếp lắm, đến như sư thúc Tôn-Đản Cẩm Thi mà cũng không ngăn cấm được. Sau nhờ Kinh-Nam vương sai sứ lên bắt phải ngừng, bấy giờ cuộc chém giết mới hết. Từ ngày ấy, người của Môn-châu chia nhau cai trị các trang động Vĩnh-bình. Sau khi Yên Đạt, Tu Kỷ thu phục được các trang động thuộc Lưu Kỷ, y đem quân ép phía Tây Môn-châu; Khúc Chẩn đem quân ép phía Bắc, rồi Triệu Tiết sai sứ đến dụ rằng: Nay các thủ lãnh của khê động thuộc Vĩnh-bình bị Mãn giết hết rồi, nếu Mãn hàng thì không những vẫn cho cai quản trang ấp thuộc lãnh thổ Việt, mà còn cho tiếp tục cai quản các khê động Tống mà Mãn đang cai trị nữa. Thế là Hoàng Kim-Mãn đầu hàng.



Lý Thường-Kiệt thấy công chúa Thiên-Thành gọi mình là đại huynh, ông cũng dùng ngôn từ bình dân đáp lại:



– Thiên-Thành đừng lo. Mục đích của ta là dùng các trang động kéo dài thời gian, làm cho Tống hao tốn tiền của. Với mấy trang động, ta cản được quân Tống tới chín tháng, thì quả thực vượt ra ngoài điều ước muốn rồi; huống hồ ta còn nguyên 117 trang động thuộc Lạng-châu.



Ông nói với Trung-Thành vương:



– Hiền đệ hãy trình bầy tình hình mặt trận trên biển cho Thiên-Thành, Cảnh-Long biết đi.



– Về mặt trận trên biển.



Trung-Thành vương giảng giải: Tống có hai hạm đội. Hạm đội Tương-giang hồ Động-đình thường được gọi tắt là hạm đội Kinh-Tương do đô đốc Hứa Ngạn-Tiên, Lưu Sơ chỉ huy. Theo chỉ dụ của Khu-mật viện Tống, hạm đội này chạy ra thực xa bờ biển, rồi đổi hướng Nam vào giúp Chiêm đánh chiếm lại Nhật-lệ, kéo vào đánh sau lưng ta ở Thanh-Nghệ. Hạm đội thứ nhì là hạm đội Mân-Triết di xuống Khâm-châu. Hạm đội này do đô đốc Dương Tùng-Tiên, Tô Tử-Nguyên chỉ huy. Hạm đội có nhiệm vụ chuyển lương từ Giang-tô, Triết-giang, Phúc-kiến xuống Khâm-châu. Đợi sau Quách Quỳ tiến tới sông Như-nguyệt, thì phải vượt biển chở lương xuống tiếp tế, cùng chở quân bộ qua sông.



Vương ngừng lại uống chung trà, rồi tiếp:



– Tin này ngư dân ta thu được, báo cho đại đô đốc Lý Kế-Nguyên. Đô-đốc phái đô-đốc Trần Lâm đem hạm đội Động-đình, đô-đốc Trần An đem hạm đội Bạch-đằng ra khơi đánh tan hạm đội Kinh-Tương. Hứa Ngạn-Tiên, Lưu Sơ chỉ còn hai chiến thuyền chạy thoát về Quảng-châu. Đô-đốc Lý Kế-Nguyên lại sai đô đốc Trần An dùng tù binh Tống, chiến hạm Tống bắt được, giả thủy binh Tống cập bến Thi-nại đón quân Chiêm đi chiếm Nhật-lệ. Quân Chiêm không đề phòng, bị đánh tan ở cửa Thi-nại.



Linh-Nhân hoàng thái hậu hỏi phò-mã Thân Cảnh-Long:



– Từ tháng ba đến giờ, bọn Triệu Tiết, Ty Kỷ, Yên Đạt, chiếm được hết các trang động của Lưu Kỷ, Hoàng Kim-Mãn. Cánh tả của ta, bị hở. Trong khi cánh hữu, Vi Thủ-An hàng, đem quân trợ giặc đánh Ngọc-sơn. Lạng-châu hoàn toàn bị cô lập, chỉ còn hai ngày nữa quân Tống tiến đánh, vậy phò-mã ứng chiến ra sao?



– Tâu thái hậu:



Phò mã Cảnh-Long đáp: Hiện nay đại lực lượng quân Tống đang dồn vào khu hẹp, mà chỉ có con đường duy nhất tiến về Nam thì bị bốn tướng khạc ra lửa, mửa ra khói của ta trấn nhậm; đó là công-chúa Côi-sơn, phò mã Tôn Mạnh trấn ở Quyết-lý; Quán-quân thượng tướng quân Hoàng-Nghi với Phương-Quỳnh trấn ở Chi-lăng. Tình thế bắt buộc Tống phải nhổ hai ải này. Vậy lực-lượng hoàng nam của Lạng-châu sẽ cố thủ trong các trang động, để làm chậm bước tiến của giặc, đánh tập hậu. Nếu Quách Quỳ muốn đánh hai ải Quyết-lý, Chi-lăng, thì phải tốn ít nhất từ ba tới năm vạn nhân mạng.



Quán-quân thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi đề nghị:



– Quân Tống đang đóng trại liên tiếp nhau như vậy, lại khinh thường ta không dám trực diện đối chiến. Thần xin đề nghị: Ta đem quân bất thần trong đêm cướp trại, đốt lương, khiến chúng kinh hoàng, trở thành e dè. Như vậy còn hơn ngồi chờ chúng đến đánh.



Linh-Nhân hoàng thái hậu đưa mắt cho Đại-tư mã Lý Thường-Kiệt, rồi tuyên chỉ:



– Cách đây ít lâu, đệ tử của sư bá Mộc-tồn là Thập-bát Kim-cương từ Chiêm về để dự cuộc chống Tống cứu nước. Cô phụ đã trao cho Binh-bộ thượng thư cứu xét tài năng, rồi bổ nhiệm. Mới đây Binh-bộ tâu rằng, về võ công, cả mười tám vị đều cao thâm không thua Thần-vũ thập anh làm bao. Về tài dùng binh, thì chỉ thua Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt chút kinh nghiệm mà thôi. Cô phụ với đại tư mã Thường-Kiệt quyết định bổ nhiệm như sau.



Mười tám Kim-cương bước ra quỳ gối nghe chiếu chỉ:



– Tất cả các Kim-cương vì sinh đẻ ở Xiêm, mang họ Tha-ma-đạt, Lôi-ki-đa, Vong-si-vít, U-bộc than-na rất khó cho binh tướng Việt gọi, nên triều đình quyết định ban cho nam quốc tính Lý, còn tên thì vẫn giữ nguyên. Riêng nữ, đều xinh đẹp, dáng điệu thanh nhã, nên ban cho chữ mai. Tất cả chín người đều được giữ chức Đô-thống. Lý Nhất với vợ là Mai-Nhất chỉ huy phó hiệu Ngự-long. Lý Nhị, Mai Nhị chỉ huy phó hiệu Quảng-thánh. Lý Tam, Mai Tam chỉ huy phó hiệu Quảng-vũ. Lý Tứ, Mai Tứ chỉ huy phó hiệu Bổng-nhật. Lý Ngũ, Mai Ngũ chỉ huy phó hiệu Đằng-hải. Lý Lục, Lý Thất, Mai Lục, Mai Thất theo Trung-Thành vương. Lý Bát, Ly Cửu, Mai Bát, Mai Cửu theo Tín-Nghĩa vương.



Mười tám Kim-cương lạy tạ, rồi về chỗ.



– Xin sư huynh điều quân.



Nghe Thái-hậu tuyên chỉ, Thường-Kiệt để kiếm lệnh lên trước mặt:



– Tổng chỉ huy phòng tuyến chặn giặc ở Bắc-cương là phò mã Thân Cảnh-Long với vua bà Thiên-Thành. Ngay bây giờ hai vị về Bắc-cương, cùng công chúa Côi-sơn, phò mã Tôn Mạnh; Quán-quân Thượng tướng quân Đinh Hoàng-Nghi, quận chúa Phương-Quỳnh, đô thống Lý Tam, Mai Tam... xử dụng hoàng nam, hiệu binh Kinh-Bắc, hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ cướp trại giặc, đánh cho chúng kinh hoàng. Sau đó phò mã, công chúa dùng hoàng nam 117 trang động làm chậm bước tiến của chúng, cướp lương đánh tập hậu, khiến chúng phải chia quân phòng vệ khắp nơi. Còn công chúa Côi-sơn với tướng quân Hoàng-Nghi cố thủ trong ải Quyết-lý, Chi-lăng.
Trong khi trên đường đem quân xuống Nam, thì Vương An-Thạch bị cách chức. Ngô Sung chủ hoà lên làm Tể-tướng. Ngô viết thư cho Quỳ dặn: Hãy tiến quân chậm chậm, đóng tại biên cương, chờ đợi xem sao. Chính vì vậy, mà bây giờ Quỳ còn đóng quân ở đây.



Quỳ hỏi Khúc Chẩn:



– Trên đường xuống Nam, qua chiến trường Côn-lôn, Đại-giáp, Ngọc-tuyền, Hỏa-giáp, Ung-châu, thì từ tướng cho đến quân đều mất hết chí khí chiến đấu. Chính vì vậy mà đêm qua quân Việt cướp trại, phục binh đánh quân truy kích thành công.



Chẩn đề nghị:



– Hôm qua, ta đã vào được đến lớp rào thứ ba. Nếu như ngày mai, ta quyết đánh nữa, thì có thể tràn ngập được ải này.



– Ta thực không nỡ. Ta mới vào lớp thứ ba, mà đã chết hơn vạn. Nếu như muốn đánh đến lớp thứ mười, rồi cận chiến chiếm đồn, e phải hao hụt gấp đôi, thì thực là phí nhân mạng sĩ tốt quá đáng.



Khúc Chẩn an ủi:



– Nhưng... hôm trước một chỉ dụ trong kinh đưa ra về vụ đánh đồn Ngọc-sơn: Nếu cần một đổi mười, thì vẫn được coi là chiến thắng. Vì vậy tiểu tướng thấy các tướng Triệu Tiết, Tu Kỷ, Yên Đạt, Diêu Tự, Đào Bật đều nhất quyết đánh Chi-lăng. Dù tổn thất, ta cũng đành hy sinh vậy.



Hai người bàn cho đến giờ Dậu, trong quân đánh trống báo hiệu tắt đèn đi nghỉ. Y vừa chợp mắt một lúc thì có tiếng la:



– Cháy! Cháy! Cháy!



Rồi có tiếng trống báo động. Quách Quỳ, Khúc Chẩn cũng vùng dậy, thì trước mặt hai người hiện ra một biển lửa: Xung quanh khu đóng quân, lau sậy bốc cháy ngùn ngụt. Chẩn hô quân dập tắt lửa, nhưng ở giữa rừng lau sậy, lấy đâu ra nước, ra dụng cụ cứu hỏa?



Binh sĩ đạo đệ lục này, một nửa lấy từ các đạo khác, một nửa lấy từ bảo binh, mới tái lập, nên tổ chức còn lộn xộn, trên dưới chưa thuộc mặt nhau; lệnh ban ra không được thi hành nghiêm minh. Tướng quát tháo mặc tướng quát tháo, binh sĩ la hét mặc binh sĩ la hét.



Lửa mỗi lúc một bốc cao, chỗ sậy bốc cháy, mỗi lúc một thu hẹp, quân sĩ bỏ chạy hỗn độn, không còn phân biệt đội ngũ nữa. Quách Quỳ ra lệnh chém đầu hơn mười người, mới chính được đội ngũ.



Quỳ bàn với Chẩn:



– Khi bọn Nam-man thiết kế dùng hỏa công, chúng nghĩ rằng gặp lửa cháy, ta sẽ bỏ chạy về phía Bắc. Vì vậy chúng đốt ba phía Đông, Tây, Nam rất kỹ. Còn phía Bắc, y để hở khu thông với con đường lớn. Như vậy rõ ràng chúng dụ ta chạy về phía đó, rồi phục binh chận đánh. Đã vậy, ta cố dập tắt lửa, rồi đóng quân tại đây, cho chúng biết ta không ngu như chúng tưởng.



Hai tướng ra lệnh cho binh sĩ dùng đao phát quang một khu xung quanh một bãi lớn, rồi truyền quân rút vào đó. Quả nhiên, biện pháp này, khiến lửa không lan đến chỗ trú quân.



Quỳ cho quân sĩ ngồi dựa vào nhau mà qua đêm, chờ trời sáng sẽ có quân tiếp viện. Mọi sự vừa xong xuôi, thì bỗng có hàng chục tiếng rít xé gió trên không. Hàng chục vệt lửa xanh-đỏ-vàng bay vọt lên cao, trông rất đẹp mắt, rồi những vệt đó phát nổ, biến thành trái cầu lửa nổ chụp xuống chỗ đóng quân. Hoàng thạch, mã não, nhựa cháy chụp xuống đầu binh tướng Tống. Binh tướng Tống la lớn:



– Lôi tiễn! Lôi tiễn!



Nhiều người bị cháy như cây đuốc.



Hàng loạt Lôi-tiễn tiếp tục bắn tới. Lôi-tiễn tuy không làm chết nhiều người, nhưng làm quân Tống kinh hoàng, vì nhựa cháy, hoàng thạch rơi trúng người, bị phỏng. Một vài mũi trúng khu cỏ khô, lại làm lửa bốc cháy ngùn ngụt. Quân-sĩ bị Lôi-tiễn bắn chụp lên đầu, muốn bỏ chạy, nhưng vì sợ bỏ chạy sẽ bị chém đầu, nên đành ngồi trơ thân ra chịu trận, miệng la hét, kêu khóc.



Khúc Chẩn bàn:



– Cơ chừng này, đến sáng, quân sĩ bị phỏng sẽ chết hết. Chi bằng ta rút lui thì hay hơn.



Quách Quỳ ra lệnh:



– Binh pháp có câu: Tìm chỗ sống ở chỗ chết. Bọn Nam-man đốt bốn phía, để hở phía Bắc, vậy chắc chúng phục binh ở đây chờ ta. Nay ải Chi-lăng ở phía Nam, tức chỗ chết của ta, chúng sẽ không phục binh tại đây. Vậy ta cho quân âm thầm rút về phía Nam, sau đó vượt con đường ở chân núi vòng lên Bắc.



Lệnh vừa ban ra, lập tức quân Tống rời chỗ trú quân, rút theo con đường cái, hướng về Chi-lăng. Khi người lính cuối cùng ra khỏi khu vực, thì Lôi-tiễn cũng ngưng bắn. Đoàn quân âm thầm rút lui. Vừa được khoảng bốn dặm, thì có ba tiếng thanh la, rồi thiếp theo trống thúc vang dội, tên từ bên vệ đường bắn ra như mưa. Trong đêm tối, quân Tống không biết ai bắn, bắn từ đâu, mà chỉ thấy đồng đội trúng tên kêu thét lên, lăn ra chết.



Quách Quỳ hô lớn:



– Nằm xuống hai bên lề đường để tránh tên. Đề phòng phục binh tấn công.



Biện pháp này quả nhiên hữu hiệu, không thấy tên bắn ra nữa, lại cũng không thấy trống thúc quân reo. Rừng núi trở lại yên tĩnh, chỉ còn tiếng thương binh rên rỉ.



Thời gian trôi qua khoảng hơn khắc, thì lình có tiếng tù-và rúc lên thê lương:



– Úúú, uuu, úúú, uuu!



Rồi tiếng hổ gầm, tiếng sói rống, tiếng sói tru. Tiếp theo, hổ, báo, sói trong rừng nhảy ra. Quân Tống kinh hoàng, bỏ hàng ngũ chạy tứ tán. Đến trình độ này, thì Quách Quỳ, Khúc Chẩn cũng đành buông xuôi. Hai người tập họp được đội võ sĩ cận vệ binh xung quanh; cố thủ, chờ trời sáng, sẽ có viện quân.



Sau đợt tấn công của thú binh, rừng núi lại trở về yên tĩnh. Quách Quỳ, Khúc Chẩn cùng đội quân còn sống sót đành ngồi xuống đất chờ đợi, trong khi lòng rối như tơ vò.



Trời sáng dần, trong màn sương dày đục, Quách Quỳ đứng dậy quan sát: Trên con đường dài hun hút, ngổn ngang tử thi, cái thị bị tên xuyên qua đầu, qua ngực; cái thì bị thú vồ nát thây; cái thì nằm ngửa mắt mở thao láo nhìn trời.



Quách Quỳ hỏi Khúc Chẩn:



– Theo như Khúc tướng quân đoán, thì bọn nào bắn Lôi-tiễn, phục binh đánh ta đêm vừa qua?



– Thưa nguyên soái, với kế phục binh để trống phương Bắc, khiến ta rút phương Nam, thì Tôn Mạnh với Thanh-Nguyên không thể nghĩ ra được. Tiểu-tướng đoán là Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh, Lý Tam, Mai Tam.



– Ta cũng nghĩ vậy.



Khúc Chẩn hỏi:



– Bây giờ ta rút về, hay chờ viện quân?



– Chờ viện quân biết đến bao giờ? Ta rút thôi!



– Còn thương binh? Không lẽ để chúng lại? Trong khi ta chỉ còn không quá năm trăm người toàn vẹn!



– Đành vậy!



Quỳ cùng Chẩn thất thểu đi trước, đoàn quân không cờ, chẳng hàng lối lê bước theo sau. Đi được khoảng sáu dặm, thì có tiếng trống thúc, rồi một đội quân Việt hùng tráng dàn ra chặn mất lối đi. Phía trước có hai cây cờ. Cây thứ nhất cờ nền mầu vàng, trên thêu con rồng mầu đen với hàng chữ Thiên-tử binh Quảng-vũ, cấy thứ nhì nền xanh có hàng chữ Quán-quân thượng tướng quân, Chính-Tâm hầu, Đinh, một đôi nam nữ cỡi... cọp đứng song song chặn mất lối đi. Quỳ đưa mắt nhìn: Nam thì hùng vĩ uy nghi, nữ thì sắc nước, hương trời, dáng điệu ôn nhu văn nhã.



Quách Quỳ đã được Khu-mật viện Tống cung cấp đầy đủ tình hình trận liệt quân Việt, tiểu sử các tướng: Tài năng, sư thừa, sở thích, gia cảnh. Vì vậy nhìn lá cờ, y biết ngay người đối diện với y là Đinh Hoàng-Nghi Phương-Quỳnh. Y nghĩ thầm:



– Chỉ với hiệu Thiên-tử binh Quảng-vũ, mà vợ chồng tên nhóc con này đánh tan đạo binh đệ lục ngày hôm qua. Ta đã tái lập, hôm nay chúng lại đánh tan một lần nữa. Đau đớn cho ta, một danh tướng Thiên-triều, mang đại quân bình man, chưa được đánh một chiêu võ, bắn một mũi tên, mà bị thất bại như thế này.



Vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi ngồi yên trên mình cọp, miệng tủm tỉm cười, rồi nghiêng mình:



– Quán-quân thượng tướng quân nước Đại-Việt, trấn thủ Chi-lăng, xin kính chào Tuyên-huy Nam-viện, kinh lược Nam-thùy sứ Quách đại tướng quân, và Vũ-dương đại tướng quân Khúc.



Quách Quỳ nổi cộc lên chửi:



– Bọn Nam-man các người chỉ giỏi đánh trộm. Mi có giỏi, đem cả hiệu binh Quảng-vũ ra đối trận với ta, ta có thua, cũng đành cam chịu. Chứ mi đánh trộm như thế này, thì không đáng mặt nam nhi đại trượng phu.



Đến đây có tiếng trống thúc pha với tiếng quân reo, tiếng vũ khí chạm nhau từ xa vọng lại. Phương-Quỳnh đưa mắt cho một nữ binh tế tác, nữ binh này đi liền. Bà cười rất tươi nói với Quách Quỳ:



– Quách nguyên soái ơi! Người đem quân đốt kho lương Lộc-châu là tiểu nữ chứ có phải phu quân tiểu nữ đâu? Rồi phục quân diệt đạo quân đệ lục cũng là tiểu nữ, với sư tỷ Mai Tam. Trận bắn Lôi-tiễn, dùng thú binh, cùng băn tên đêm rồi lại cũng là tiểu nữ với sư tỷ Mai Tam cả, chứ phu quân tiểu nữ nào đã ra tay! Bọn tiểu nữ là đàn bà, chứ có là đàn ông đâu mà nguyên soái bảo nam nhân đại trượng phu?



Hoàng-Nghi chỉ tay về phía Chi-lăng:



– Quách nguyên soái! Tiểu tướng được lệnh nguyên soái Thường-Kiệt trấn thủ ải Chi-lăng. Tiểu tướng nghe nói, thời niên thiếu nguyên soái từng sang Đại-Việt, hẳn biết nhiều về địa danh này. Tiểu tướng cũng được biết xưa kia tổ phụ của nguyên soái là Quách Quân-Biện từng theo nguyên soái Hầu Nhân-Bảo đánh Đại-Việt; trận ấy Hầu bị giết, còn tổ phụ của nguyên soái bị bắt cầm tù. Nay tiểu tướng cũng chuẩn bị một căn nhà thực đẹp, trồng đủ hoa thơm cỏ lạ ở bờ hồ Tây, đợi khi nguyên soái qua Chi-lăng, sẽ rước nguyên soái về đó ở. Nguyên soái nghĩ sao?



Ghi chú,



Trong Triệu-thị chinh tiễu Giao-chỉ ký chép rằng: Tuy Hoàng-Nghi nói đùa, nhưng Quách Quỳ vốn úy kị địa danh Chi-lăng; vì vậy sau này Triệu Tiết, Tu Kỷ đề nghị bỏ đường Chi-lăng, dùng đường thượng đạo Đâu-đỉnh đánh xuống Phú-lương, Quỳ tuy ghen tài, ghét Triệu Tiết, nhưng cũng phải nghe theo. Chính vì vậy, mà có trận đánh đẫm máu ở Phú-lương, Vạn-xuân, Như-nguyệt, sau này.



Trong khi Hoàng-Nghi đối đáp với Quách Quỳ, thì nữ binh tế tác trở lại báo với Phương-Quỳnh:



– Bốn đạo quân Tống lại đánh Quyết-lý rất hung hãn. Có hai đạo thiết kị Tống đang tiến lại đây.



Đến đó tiếng vó ngựa phi lộp cộp tới gần. Biết bản lĩnh cả hai vợ chồng với đội nữ binh có vây bắt Quách Quỳ với Khúc Chẩn cũng không nổi, mà phía sau viện binh của chúng đã tới. Hoàng-Nghi nghiêng mình vái Quách Quỳ hai vái, rồi nói với vợ:



– Bây giờ Quách, Khúc nhị vị chẳng may sa cơ, lỡ thế, mà vợ chồng mình bắt người, thì không phải là anh hùng hảo hán. Thôi, mình để hai vị về chỉnh đốn lại quân mã, rồi sẽ gặp nhau ở Chi-lăng cũng không muộn. Bấy giờ em muốn trói hai vị lại, đâu có khó?



Hai người hô lên một tiếng, đôi cọp thủng thẳng tến vào khu rừng cây rậm rạp, đội nữ binh cũng theo sau, phút chốc mất dạng.



Vừa lúc đó, một đạo thiết kị Tống phi đến như bay. Tướng dẫn đầu là Trương Thế-Cự. Y thấy Quách Quỳ, Khúc Chẩn trong tình trạng thê thảm, thì kinh ngạc vô cùng:



– Nguyên soái! Cái gì đã xẩy ra?



Khúc Chẩn đáp:



– Đêm qua chúng ta bị thú binh, Thần-nỏ, Lôi-tiễn đánh suốt đêm. Người mau thu nhặt xác tử sĩ, rồi đem về bên đất Trung-nguyên chôn cất.