Nam Quốc Sơn Hà

Chương 43 : Cái tình là cái chi chi

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Quách Quỳ trải qua một lần suýt chết, nhưng là người gan dạ, y trở lại bình tĩnh như thường. Cơm trưa xong, y triệu tập chư tướng lại nghị sự.



Yên Đạt từng sang Đại-Việt lâu ngày, rất thông thạo đường xá, cùng phong tục tập quán dân Việt. Y hiến kế:



– Kể ra muốn đánh Quyết-lý thực không khó. Nhưng khổ nột điều, người trấn thủ ải này là Trần Thanh-Nguyên, em út của Kinh-Nam vương. Võ công thị cực kỳ cao thâm, thị lại là người có tài dùng binh bậc nhất, bậc nhì Đại-Việt. Ải Quyết-lý lập ra chỉ với mục đích cản đường ta, nên họ chứa rất nhiều cung tên ở trong. Ải được bao quanh bởi mười lớp hào, mười hàng rào. Giữa các hàng rào đều có cửa lưu thông với nhau. Hôm qua ta đánh suốt ngày, với quân số gấp năm lần, mà chỉ lấp được ba hào, chiếm được ba hàng rào. Khi ta rút về nghỉ đêm, chúng lại củng cố rào, hào như cũ. Tôi nghĩ, ta nên để lại vài vạn quân bao vây là đủ. Giỏi lắm hai tháng sau hết lương, thị phải ra hàng.



Sau trận đột kích hôm trước của quân Việt, ba con trai Hoàng Kim-Mãn đều bị giết thê thảm. Y nghiến răng, đứng lên nói trong nước mắt:



– Thưa nguyên-soái, giữa Bắc-biên với đồng bằng Đại-Việt, chỉ có con đường duy nhất, thì Thân Cảnh-Long đã cho đóng hai ải Quyết-lý, Chi-lăng. Quyết-lý còn có thể đánh được, vì quân thủ là hiệu Kinh-bắc; chứ Chi-lăng do hiệu Quảng-vũ, một hiệu thiện chiến nhất Đại-Việt, ta muốn qua, thì thực là thiên nan vạn nan.



Triệu Tiết cau mày hỏi:



– Không lẽ với một vạn binh thủ, mà ta có tới trăm vạn lại chịu thua sao?



Kim-Mãn chỉ lên bản đồ:



– Thưa phó nguyên soái, cái phòng tuyến Chi-lăng này quá đặc-biệt. Xin phó nguyên-soái thử nhìn xem: Đây, nó nằm giữa hai ngọn núi khép lại, thác nước trên núi đổ xuống tạo thành khu đồng lầy, chỉ có con đường độc đạo xuyên qua. Ta tuy có trăm vạn quân, nhưng hiện đóng dồn cục lại, tại cái kẹt núi này. Nếu ta muốn qua, thì chỉ có thể đưa những toán năm, ba người một, xếp thành hàng dài mà qua, như thế không khác gì bưng tính mệnh dâng cho chúng. Chính vì vậy, mà biết bao lần các danh tướng Thiên-triều đều thất bại tại đây.



Kim-Mãn nhấn mạnh:



– Tên Thường-Kiệt đã sai hai tướng vừa mưu-trí, trung-thành lại có tài dùng binh bậc nhất trong 12 tướng chỉ huy Thiên-tử binh là vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi trấn thủ Chi-lăng. Hai đứa này đã lập tới ba mươi vị trí phòng thủ, các vị trí thông với nhau bằng những con lộ xuyên rừng khúc khủy quanh co. Ví dù ta có thí quân chiếm được hết các phòng tuyến này, thì chúng rút lên núi ẩn thân, chờ tiền quân ta đi qua, rồi đổ phục binh đánh cướp lương thảo, thì nguy lắm.



Tư lệnh đạo quân hữu đệ nhất là Miêu Lý hỏi:



– Hầu hết tất cả tướng soái Bắc-cương đều theo gió đầu Thiên-triều. Vậy ta cũng nên chiêu dụ vợ chồng Thân Cảnh-Long, Tôn Mạnh, Đinh Hoàng-Nghi, hơn là đánh.



Yên Đạt lắc đầu:



– Đối với ba cặp vợ chồng này, thì dù ta có phong vương cho chúng cũng vô ích mà thôi. Thứ nhất là Thân Cảnh-Long, họ Thân nhà y đã ba đời làm phò mã Lý triều; vợ y, công-chúa Thiên-Thành, là chị ruột vua Giao-chỉ. Còn Tôn Mạnh, thì vợ y là em gái Kinh-Nam vương tên Trần Thanh-Nguyên... mà nguyên soái đã biế rõ.



Quách Quỳ bèn tường thuật lại chi tiết truyện xưa:



« Hồi thơ ấu, y theo sư-phụ với Yên-vương Triệu Nguyên-Nghiễm sang Đại-Việt, khi qua Thanh-hóa đã gặp Thanh-Mai nay là Quốc-mẫu Đại-Việt; Tự-Mai nay là Kinh-Nam vương; Thanh-Nguyên với Tân-quy thất quỷ, sau là Tôn Đản, Tôn Mạnh, Tôn Trọng, Tôn Quý, Trần Anh, Hà Thiện-Lãm, Lê Thuận-Tông »...(xin đọc Anh-hùng Tiêu-sơn của Yên-tử cư-sĩ, do Xuân-thu Hoa-kỳ xuất bản 1990).



Yên Đạt tiếp:



– Còn Đinh Hoàng-Nghi, y là con Đinh Nho-Quan triều Đại-Nam của Nùng Trí-Cao, vợ y là cháu nội của Trần Phụ-Quốc. Y là em nuôi của Linh-Nhân hoàng thái hậu. Vì vậy, chiêu dụ ba người này e còn khó hơn bắc thang lên trời.



Triệu Tiết chỉ Tu Kỷ:



– Hiện Tu tướng quân đã tìm được một đường khác có thể xuống đồng bằng, nhưng phải đánh mạo hiểm mới có thể thành công. Xin Tu tướng quân trình bầy.



Tu Kỷ đem ra một mảnh lụa, vẽ bản đồ Bắc-cương, rồi chỉ về phía Tây Chi-lăng:



– Đây, ngoài con đường chính Chi-lăng ra, còn có con đường thượng-đạo, đi vòng qua phía Tây. Con đường này chỉ bọn thợ săn mới biết. Ta cho quân từ Vĩnh-bình tiến về phía Tây, rồi từ Môn-châu vượt qua hai khe suối, ba cái đèo thì tới châu Vạn-nhai; rời Vạn-nhai tới xã Bình-gia, rồi Vạn-linh. Vạn-linh nằm trên bờ sông Phú-lương, tức thượng lưu phòng tuyến Như-nguyệt. Trên đường đi đó, chỉ ải Đâu-đỉnh là có quân trấn đóng. Ta đánh úp ải này, thì có thể đưa đại quân xuống đồng bằng Phú-lương, rồi tiến về phía Đông, uy hiếp Như-nguyệt, Vạn-xuân.



Miêu Lý hỏi:



– Tại sao cái con sông kia, mà khi thì Tu huynh gọi là sông Phú-lương, khi thì gọi là sông Như-nguyệt, khi thì gọi là sông Nham-biền?



Tu Kỷ giảng giải:



– Con sông chạy dài từ dẫy núi Đông-triều đến Vạn-xuân này có tên là sông Cầu. Nhưng mỗi khúc lại có một tên khác. Như khúc thượng lưu này tên là Phú-lương vì có bến đò Phú-lương cắt con đường Vạn-nhai đi Tam-đảo. Khúc giữa mang tên Như-nguyệt, vì có bến đò Như-nguyệt cắt đôi con đường Chi-lăng đi Thăng-long. Khúc cuối mang tên Nham-biền hay Vạn-xuân, vì con sông này cắt đường Nham-biền đi Vạn-xuân bằng bến đò Vạn-xuân.



Quách Quỳ tính vốn cẩn thận, y phân vân:



– Đường đi ngả đó cheo leo, bộ binh qua thì được, chứ xe, ngựa thì không thể nào đi nổi. Giả như ta đánh úp được Đâu-đỉnh, đưa được đại quân qua, nhưng lấy lương thảo đâu cho quân dùng?



Hoàng Kim-Mãn đáp ngay:



– Vì Thường-Kiệt cho rằng Tống không biết con đường thượng đạo, mà dù có biết cũng không dám mạo hiểm vượt hẻm núi đánh Vạn-nhai, nên Bà-chúa-kho Thiên-Ninh đồn trú tại đây một kho lương đủ nuôi cho hơn vạn quân trong sáu tháng. Thường-Kiệt tin rằng Chi-lăng có thể cầm cự trong sáu tháng, nên phía Nam Chi-lăng, Thiên-Ninh cũng chứa một kho lương đủ nuôi quân trong sáu tháng nữa. Nếu như ta vượt thượng đạo thành công, thì với hai kho lương này, ta đủ nuôi hai vạn quân trong sáu tháng.



Quách Quỳ cau mày:



– Quân ta đổ xuống đâu phải hai vạn, mà ít ra là ba mươi vạn! Chỉ với số lương ít đó thì thấm thía gi?



Triệu Tiết tự chửi thầm: « Con mẹ nó, vì ta nói lỡ một câu, mà nhà vua để tên ngu như lợn này làm nguyên-soái. Không biết ta có toàn thây về tới Trung-nguyên không? Đã vậy ta lên mặt dạy dỗ y trước chư tướng cho bõ ghét ». Nghĩ vậy y nói với Quỳ như nói với thuộc-hạ:



– Khi đại quân qua được, lập tức ta men theo sông Cầu, tiến về Như-nguyệt, Vạn-xuân. Lúc ấy vợ chồng Đinh Hoàng-Nghi đang bị ta đánh ở phia Bắc, chúng quay lưng về Nam chống trả. Bây giờ phiá Nam bị ta chiếm, thì chúng đưa lưng ra cho ta tha hồ mà đâm, mà bắn vào lưng chúng; chỉ một ngày là quân tan vỡ Chi-lăng thất thủ. Lấy Chi-lăng rồi, lập tức ta dùng đường này vận lương chứ khó gì!



Quách Quỳ tức ứa gan, nhưng đành đồng ý để cho Triệu Tiết trách nhiệm mặt trận phía Tây. Trong tâm, Quỳ nghĩ: Nếu Tiết thành công, thì ta là chúa tướng, công lao vẫn thuộc về ta. Nếu Tiết bại, ta có cớ loại Tiết dễ dàng, mà y không than gì được.



Quỳ ban lệnh:



– Phó nguyên soái Triệu Tiết làm chánh tướng, kiểm điểm binh mã, tiến đánh Đâu-đỉnh. Sau khi chiếm Đâu-đỉnh, thì tràn xuống chiếm Bắc-ngạn sông Phú-lương, rồi nhanh chóng tiến về phía Đông, đánh phía sau Chi-lăng. Binh tướng trực thuộc, có đạo tả đệ nhất của tướng Miêu Lý.



Miêu Lý hỏi:



– Thưa nguyên soái, đạo tả đệ nhất có bốn đạo, đó là đạo đệ 7, 8, 9, 10. Vậy mang những đạo nào theo?



– Mang đạo binh đệ thất của Vương Tiến, đạo đệ bát của Bình Viễn, đạo đệ cửu của Lưu Mân. Còn đạo đệ thập thì đặt trực thuộc tướng Yên Đạt công ải Chi-lăng.



Quỳ lại ban lệnh:



– Còn lại, thì tướng Khúc Chẩn chỉ huy các tướng Đào Bật, Diêu Tự công ải Quyết-lý. Yên Đạt chỉ huy các tướng Vương Mân, Lý Hiếu-Tông công Chi-lăng.



Ngày Quý-Mão, tháng Chạp, niên hiệu Thái-Ninh thứ năm, đời vua Nhân-tông nước Đại-Việt (21-12, Bính-Thìn, DL. 18-1-1077), nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ chín đời vua Thần-tông nhà Tống.



Khí hậu mấy ngày cuối Đông sang Xuân tự nhiên ấm áp lạ lùng. Nắng mới êm nhẹ tỏa xuống khắp rừng núi Bắc-biên. Những nụ hoa căng thẳng, đang muốn nứt ra thì gặp nắng, lập tức nở tung, toả ra muôn mầu nghìn sắc, hương thơm ngào ngạt.



Sau trận phục kích đêm, làm cho Quách Quỳ, Khúc Chẩn (11-12 tháng Chạp)phờ phạc, Đinh Hoàng-Nghi vội viết biểu sai chim ưng tâu về triều, và bản doanh nguyên soái Thường-Kiệt. Hầu cũng gửi một bản cho phò mã Thân Cảnh-Long với công chúa Trần Thanh-Nguyên. Ngay ngày hôm sau (13 tháng Chạp), một nữ sứ giả cùng với năm nữ binh phi ngựa đem chỉ dụ của Linh-Nhân hoàng thái hậu tới phòng-tuyến Chi-lăng, cùng với một hộp đựng bảo vật ban cho Đinh Hoàng-Nghi. Nữ sứ giả nói:



– Thưa thượng tướng quân, Thái-hậu ban dụ rằng tướng quân không phải quỳ gối lĩnh chỉ, mà nhận chỉ như em nhận thư của chị.



Hầu cảm động tiếp thư mở ra, đó là tời giấy hoa tiên mầu hồng, in mờ mờ hình Quan-thế-âm đứng trên lưng con rồng. Hương ngọc lan của nước hoa mà Thái– hậu quen dùng bốc lên mũi, hầu nghĩ thầm:



– Bà chị Yến-Loan ban thưởng gì cho mình đây?



Hầu vẫy phu nhân lại cùng đọc:



« Tiếp được biểu của Nghi, chị không ngạc nhiên về chiến thắng Nghi đạt được. Tài của Nghi đâu chỉ có vậy? Mưu trí của Nghi đâu có giản dị như thế? Này Nghi! Hồi ở chùa Từ-quang, chị đã từng làm bếp cho Nghi ăn, giặt quần áo cho Nghi mặc; bẹo tai khi Nghi không gội đầu, rồi phải điệu Nghi ra ao gội đầu... Nếu Nghi nhớ những kỷ niệm ấy, thì hãy nghe chị dặn đây »



Dù đã là thượng tướng quân, xung sát có dư trăm trận, nhưng khi đọc những giòng ấy, nước mắt hầu chảy xuống hai gò má xạm nắng gió:



– Em nguyện tuân theo lời dạy dỗ của chị.



« Một là, quân của Nghi quá ít, so với quân Tống. Nhờ tướng Tống khinh địch, quân Tống lạ địa thế, Nghi ra quân bất thần mà thành công; chứ thực lực tướng Tống toàn những kẻ tài trí siêu việt, võ công cao cường, thuật dùng binh bỏ xa Nghi. Vậy từ nay, tuyệt đối Nghi không ra khỏi ải Chi-lăng, dù chỉ để bắt một tên tế tác giặc.



Hai là, nếu như Chi-lăng bị tràn ngập, thì lập tức Nghi rút quân về hướng Đông, ẩn trong rừng, chờ dịp đánh tập hậu, chứ không nên tử chiến vô ích.




Nói rồi y gọi tên hướng đạo:



– Người dẫn ta đến chỗ chôn bọn tội đồ.



Tên hướng đạo chỉ về phía chân núi:



– Kia! Mộ bọn tội đồ chôn ở chỗ kia. Tiểu nhân xin đi trước dẫn đường.



Triệu Tiết gọi hơn trăm thiết-đột theo tên hướng đạo đi trước. Y với Quạch Quỳ, Chúc Chẩn theo sau. Tới gần chân núi, xa xa hiện ra những nấm mồ xây bằng đá lớn như những căn nhà. Càng gần chân núi, con đường càng hẹp, quân thiết-đột chỉ đi được hàng hai mà thôi. Hai bên là lau sậy.



Bỗng từ sườn núi có bốn người cỡi trâu lững thững đổ đồi, rồi đi theo con lộ, ngược chiều với đội thiết đột. Trong bốn người, thì hai người ngồi ngang trên lưng trâu, còn hai người lại ngồi xếp bằng tròn. Họ đều mặc áo tơi, đội nón lá che mất đầu. Một người ngồi xếp bằng tròn tay cầm ống tiêu, tấu nhạc rất nhu hòa êm ái. Một người ngồi ngang, để cây đàn bầu trên đùi, tay bật những âm thanh huyền ảo. Tiếng tiêu, tiếng đàn hợp với nhau thành một âm thanh êm đềm, dìu dặt như muôn ngàn chim hót trong buổi sáng mùa Xuân.



Viên đội trưởng thiết đột hô lớn:



– Chúng ta là binh Thiên-triều. Bọn nhà quê mau tránh ra!



Nhưng bốn người dường như không biết tiếng Việt, trâu vẫn thủng thẳng tiến tới. Tiếng tiêu, tiếng đàn vẫn hoà nhịp. Tên hướng đạo quát bằng tiếng Việt:



– Bọn nhà quê, tránh ra mau!



Nói rồi y vung côn đập vào đầu trâu của người thổi tiêu. Ai cũng tưởng chiêu đó trúng đầu trâu, ắt con trâu sẽ lồng lên, hắt tên mục đồng xuống. Không ngờ, chát một tiếng, cây côn gẫy làm đôi, một nửa bay ngược lên xuyên qua ngực tên hướng đạo. Y ngã lộn về sau, nằm thẳng cẳng, mắt mở trừng trừng, trong khi máu trong miệng, trong mũi ứa ra.



Cả đội thiết đột không hiểu tại sao cây côn lai gẫy, rồi một nửa bay trở lại, xuyên qua ngực tên hướng đạo; nhưng ở phía sau, bọn Quách Quỳ lại nhìn rất rõ: Gã mục đồng phát một chỉ đánh gẫy côn, rồi phất tay một cái, đẩy khúc côn gẫy về sau. Có điều gã ra tay nhanh quá, nên bọn thiết đột không nhìn thấy.



Quách Quỳ chưa kịp ra lệnh, thì tên đội trưởng thiết-đột vọt lên trước, y vung đao chặt đầu trâu. Gã mục đồng lại phát chỉ, ánh thép lấp loáng một cái, thanh đao bay ngược trở lại tiện đứt đầu viên đội trưởng. Cái đầu rơi xuống đất, trong khi cổ phun máu lên cao, rồi thân ngã úp sấp xuống. Kỳ diệu ở chỗ tên mục đồng ra tay, mà khúc tiêu vẫn không bị đứt đoạn. Đám thiết đột hô lên một tiếng, bao vây bốn mục-đồng vào giữa.



Khúc Chẩn tung mình lên cao, nhấp nhô mấy cái, y đã lên trước hàng quân thiết đột quan sát bốn tên mục đồng, nhưng cả bốn người đều đội nón, nón che mất mặt. Khúc Chẩn biết đây là những đại cao nhân, y cung tay:



– Hoa-sơn Khúc Chẩn xin ra mắt bốn vị. Xin bốn vị cho biết cao danh quý tính?



Bốn người vẫn im lặng, ngồi im trên mình trâu. Hai người vẫn tấu nhạc. Khúc nhạc dứt, hai người ngồi xếp bằng tròn vung tay một cái, bốn tên thiết-đột bay tung lên cao, rơi xuống bãi lau cách đó đến bốn trượng. Vòng vây hở một khoảng trống. Bốn con trâu lại thủng thẳng đi.



Khúc Chẩn không đừng được, y quát lên một tiếng, rồi phát chưởng. Chưởng của y mạnh đến nghiêng trời lệch đất, hướng mục đồng thổi tiêu. Gã mục đồng cầm ống tiêu điểm vào giữa chưởng của Khúc. Bộp một tiếng, Khúc cảm thấy đau nhói ở ngực. Y vội hít một hơi phát chưởng nữa tấn công vào hạ hàn con trâu của gã mục-đồng. Gã mục đồng không đỡ chưởng của Khúc, mà dùng một chỉ tấn công vào ngực y. Khúc kinh hoảng, vội thu chiêu, rồi nhảy lên cao tránh chiêu chỉ. Véo một tiếng, chỉ trúng vào thanh kiếm của Khúc đeo bên hông, dây đeo kiếm bị đứt, khiến thanh kiếm rơi xuống. Gã mục đồng ra chiêu ưng-trảo, thanh kiếm bay vọt tới trước mặt gã; gã bắt lấy.



Qua mấy chiêu, Khúc đã nhận ra hai mục đồng ngồi ngang trên mình trâu là đàn bà, một người mặc quần áo tím, một người mặc quần áo vàng. Hai người cùng đi hài mầu đen, trên hài có thêu kim cương óng ánh. Còn hai người ngồi xếp bằng tròn là đàn ông, thì người thổi tiêu mặc quần áo xanh, người còn lại mặc quần áo nâu. Trong khi Khúc Chẩn chiết chiêu với người quần áo xanh, thì tùy tùng đã đi gọi quân tới. Hơn năm trăm võ sĩ Tống dàn ra, vây lấy bốn người mục đồng vào giữa. Gươm đao, cung tên chĩa ra tua tủa. Chỉ cần một mệnh lệnh là chúng buông tên, rồi xông vào băm vằm bốn người ra như băm chả.



Triệu Tiết tiến lên cung tay:



– Triệu Tiết phái Hoa-sơn xin tham kiến tứ vị. Xin tứ vị cho biết cao danh quý tính? Tại sao tứ vị lại cản trở, rồi giết binh của Thiên-triều?



Người đàn bà quần áo xanh nói với Tiết như chủ nói với đầy tớ:



– Người không cần xưng danh, ta cũng biết người là Triệu Tiết. Ta còn biết rõ người đến chân núi này để đào mả giòng họ Thân hầu trả cái thù trước ây người bị Thân Thiệu-Cực làm nhục ở đỉnh Tản-lĩnh. Này Triệu Tiết, người đường đường là đệ tử phái Hoa-sơn, một danh môn bậc nhất Trung-nguyên. Người từng đậu tiến-sĩ, hiện tước tới Hầu. Người lại đang lĩnh trọng trách đánh Đại-Việt, nắm trong tay trăm vạn mạng tướng sĩ. Thế nhưng người là một gã đốn mạt, hèn hạ.



Nói đến đây bà ta chỉ tay và mặt Tiết:



– Hèn hạ, vì xưa kia mi bị Thiệu-Cực làm nhục, mi không chống nổi. Bây giờ Thiệu-Cực chết rồi, mi lại đi đào mả trả thù. Đốn mạt, vì hiện có bao nhiêu việc cần làm, thế mà dân động Giáp theo gió đầu Thiên-triều; đáng lẽ mi phải phủ dụ, rồi làm những việc cần thiết ngay... thế mà mi lại đi vào cái hẻm núi này để quật mồ trả thù. Mi không xứng đáng làm con người chứ đừng nói là làm tướng.



Triệu Tiết quát lớn:



– Con mụ kia, mi là ai? Mi hãy mở nón ra cho ta xem mặt đã. Bằng không mi đừng có trách ta.



Thấp thoáng một cái, gã mục đồng quần áo nâu từ lưng trâu tung mình xuống, tát vào mặt Triệu Tiết. Tiết đang mải nói, không đề phòng, mà người áo nâu lại ra tay quá thần tốc, nên y chỉ biết lộn người về sau tránh đòn. Người áo nâu di chuyển thân mình theo như bóng với hình. Tiết kinh hoảng, y lộn liền bốn vòng về sau, nhưng người kia cũng di chuyển theo. Đám cung thủ Tống thấy vậy hướng người áo nâu buông tên. Người áo nâu như không để ý, y vẫn di chuyển theo Tiết. Bốp, bốp hai tiếng, Tiết bị tát hai cái nảy đom đóm mắt. Còn người kia tát Tiết xong, mới vòng tay ra sau lưng quơ một cái, y đã bắt được tất cả đám tên bắn y. Y nhảy gật lùi ba bước, lại trở về mình trâu.



Nói thì chậm, chứ kẻ tát, người tránh đều nhanh như điện chớp.



Người đàn bà quần áo xanh lại chỉ tay vào mặt Quách Quỳ:



– Còn người! Người là nguyên-soái. Người không ngăn cấm tên Triệu Tiết, đã không xứng đáng làm nguyên-nhung rồi; đây người lại nhắc nhở y trả thù, rồi theo y đi đào mả. Ôi! Thực là nhục nhã thay.



Người đàn bà đó chỉ tay vào đám võ sĩ Tống:



– Người đường đường là đệ nhất cao thủ, đi theo người còn có Triệu Tết, Khúc Chẩn, Ôn Cảo... đều là cao thủ bậc nhất bậc nhì, mà đối phó với mấy mục đồng không xong! Đẹp mặt ông Tuyên-huy Nam-viện sự, An-Nam đạo hành doanh mã bộ đô tổng quản, chiêu-thảo sứ, kiệm tuyên phủ sứ chư lộ Kinh, Hồ, Quảng-Nam phải đem năm trăm võ-sĩ để đối phó với bốn mục đồng!



Ôn Cảo quát lên, y chỉ tay vào người đàn ông áo nâu:



– Vừa rồi gã kia đánh trộm mà đắc thế. Bây giờ gã có gan thì đường đường đối chiêu với chúng ta xem nào?



Người đàn ông áo nâu không trả lời, y tung mình khỏi mình trâu, tay phóng chưởng tấn công Ôn Cảo. Chưởng của y chưa ra hết, mà Ôn Cảo muốn nghẹt thở. Ôn quát lên một tiếng phát chưởng đỡ. Ầm một tiếng, người y bật lui về sau ba bước liền, miệng ri rỉ ứa máu ra. Trong khi y chưa đứng vững thì người kia đã phát chiêu thứ hai. Biết rằng nếu Cảo đỡ chiêu đó ắt nát thây ra, Quách Quỳ vội phát chiêu đỡ. Rầm một tiếng, y phải lùi liền ba bước mới đứng vững. Tai y phát ra tiếng vo vo không ngừng.



Người kia cười nhạt, phát chiêu thứ ba. Quỳ vận đủ mười thành công lực đỡ. Binh một tiếng, người áo nâu cười nhạt đánh tiếp chiêu thứ tư. Cứ thế, khi người áo nâu đánh đến chiêu thứ mười tám, thì Quách Quỳ lảo đảo đứng không vững.



Người đàn ông áo xanh hô lên:



– Ngừng tay!



Người áo nâu cười nhạt, rồi nhảy lùi lại ba bước, y tung mình cỡi lên mình trâu. Người đàn bà áo tím nói với Quách Quỳ:



– Không ngờ công lực người lại cao thâm đến như thế. Khắp Tây-Hạ, Bắc-Liêu không ai đỡ nổi của anh sáu nhà ta quá mười lăm chiêu, mà mi đỡ được mười tám chiêu, kể cũng đáng mặt anh hùng. Hôm nay chúng ta tha cho bọn mi sống, nhưng tự hậu mi phải nhớ ba điều. Một là không được để cho binh-sĩ cướp của, hãm hiếp giết người vô tội. Hai là không được trả thù cá nhân. Ba là, hễ để cho chúng ta thấy mặt, thì chúng ta sẽ giết ngay tức thời.



Quách Quỳ hỏi:



– Nếu ta không tuân ba điều đó thì sao?



Nói rồi y đưa mắt cho Khúc Chẩn.



Khúc Chẩn hô võ sĩ xông vào vây bắt bốn người. Cả bốn người tung nón, tung áo áo tơi ra. Bất giác đám binh Tống cùng bật lên tiếng kinh ngạc, rồi vứt vũ khí quỳ mọp xuống đất khấu đầu:



– Bọn hạ thần xin khấu đầu trước đại-vương và công-chúa điện hạ.



Bọn Quách Quỳ, Triệu Tiết, Khúc Chẩn thấy bốn người đó thì bở vía, chúng cùng chắp tay vái ba vái rồi tung mình chạy về động Giáp.



Nguyên người mặc quần áo nâu là Kinh-Nam vương Trần Tự-Mai, người mặc quần áo xanh là U-bon vương Lê Văn, người đàn bà mặc quần áo xanh là công chúa Huệ-Nhu, người đàn bà mặc quần áo tím là công chúa Nong-Nụt.



Công chúa Huệ-Nhu vẫy tay ra hiệu cho đám võ sĩ Tống:



– Miễn lễ! Các người trở về đi thôi.



Nói dứt bà mở cái túi trên lưng ra, luồn tay vào, rồi vung lên như gieo mạ. Mỗi cái vung, trên không có những thỏi bạc óng ánh hướng đám binh sĩ Tống, rồi chui tọt vào cái túi trước ngực chúng, mỗi người được một nén bạc.



Chúng cùng hướng công-chúa chắp tay, miệng hô::



– Đạ ta điện hạ ban thưởng.



Bốn vị lên mình trâu thủng thẳng đi về phía chân núi. Tiếng tiêu, tiếng đàn lại vang lên trong cảnh rừng Xuân đây hoa thơm, cỏ biếc.



Hình chụp cửa ải Chi-lăng, và bia kỷ niệm (8-2001) nơi mà năm 1076, anh hùng Đinh Hoàng Nghi cùng phu nhân trấn ngự.