Nam Quốc Sơn Hà

Chương 46 : Đã Đem Xương Máu Đền Non Nước, -còn Mãi Tinh Thần Với Gió Trăng

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Tại phía Bắc chiến lũy Như-nguyệt,



Những ngày mùng một, mùng hai, mùng ba tháng giêng, mùa Xuân, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Lý Nhân-tông bên Đại-Việt, bên Trung-nguyên nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077).



Trời phía Bắc sông Như-nguyệt thực đẹp. Nắng mới tỏa trên cây có mới nảy mầm trổ hoa, ngàn chim hót líu lo mừng Xuân. Trong cái cảnh Xuân đẹp ấy, quân Tống ngao ngán nghĩ lại cuộc chiến đêm Giao-thừa, đã cướp đi hơn sáu vạn đồng đội. Bây giờ trong khung cảnh hoa Xuân, khung cảnh Tết, họ đứng nhìn từng toán dân phu đông như kiến; hai người một, ba người một đang khiêng xác đồng đội của họ nằm cong queo, mắt trợn trừng, máu rơi thành những vệt dài trên cỏ.



Họ đành uống cho thực say, rồi ngâm bài Đường thi của Vương Hàn:



Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi,



Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.



Túy ngọa sa trường quân mạc tiếu,



Cổ lai chinh chiến kỷ nhận hồi.



Trần Trọng-San dịch như sau:



Rượu bồ đào, chén dạ quang,



Muốn say đàn đã rền vang dục rồi.



Sa trường say ngủ ai cười.



Từ xưa chinh chiến mấy người về đâu?



Quách Quỳ cho quân mặc giáp trụ, chờ quân Việt trở lại. Nhưng suốt ngày mùng một, mùng hai, mùng ba, quân Việt biệt tăm. Tế tác Tống leo lên cao, nhìn sang Nam ngạn sông Cầu, chỉ thấy ụ đất cao như núi, với hàng rào dày đặc, không một bóng người, không một cụm khói.



Tin tế tác ở Thăng-long gửi về liên tiếp, thuật vụ hai thánh tăng Dương Không-Lộ (Minh-Không), Từ Đạo-Hạnh đúc Nam-thiên tứ đại thần khí. Hai ngài lại làm phép khiến con Kim-ngưu trong núi Thái-sơn chạy về hồ Tây.



Được tin này Quách Quỳ phân vân không ít, nhưng y vẫn phải cố trấn tĩnh, sợ lòng quân loạn. Thế nhưng, không biết ai cung cấp, mà tất cả tướng sĩ Tống đều truyền tụng nhau về Nam-thiên tứ đại thần khí, về con Kim-ngưu bỏ núi Thái-sơn về Thăng-long. Lòng tướng sĩ Tống bắt đầu loạn, người người tụ lại thuật cho nhau nghe những gì mình biết.



Ngày mùng bốn tháng giêng.



Bỗng nhiên vào đêm mùng ba sang ngày mùng bốn, khi trống lệnh vừa điểm ba tiếng, báo hiệu tắt đèn đi ngủ, thì có tiếng từ ngôi đền thờ bên kia sông Như-nguyệt vọng sang rõ ràng, bằng giọng Biện-kinh:



« Chư tướng sĩ Tống nghe đây.



Ta là Đại đương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hống và Tiểu đương giang đô hộ quốc thần vương Trương Hát. Ngọc-Hoàng thượng đế sai chúng ta trấn ở sông Như-nguyệt này. Đêm qua, thiên sứ giáng trần, trao cho chúng ta bộ Thiên-thư nghị chế, truyền ta đọc cho chư tướng sĩ nghe ».



Tiếng thần vang đi rất xa, rõ ràng, lọt vào tai binh tướng Tống. Đến đoạn nói về Nam-thùy Tống, tiếng càng rõ, chậm hơn:



« Đây là nguyên văn Thiên-thư nghị chế »



«...Ta đã sai con thứ làm vua Nam-phương tức Viêm đế. Cương vực Nam, Bắc phân ra mấy nghìn năm có dư. Hóa cho nên người phương Nam biết phận, cung tay quy phục Trung-nguyên, hàng năm tiến cống đầy đủ, không dám xâm phạm cương thổ Trung-nguyên. Chư thiên tử ngồi trấn Hoa-hạ cũng nhân đó mà ban bố ân đức xuống khắp trời Nam. Thế mới đúng là mệnh ta dội xuống, khiến cho cương vực Nam, Bắc phân ra không bị thay đổi. Kẻ nào không tuân mệnh ta, thì ta sẽ sai thiên binh, thiên tướng xuống giết chết không tha ».



Tướng sĩ Tống kinh hoàng vô cùng, thì lại có tiếng thần đọc thơ:



Nam quốc sơn hà, Nam đế cư,



Tiệt nhiên định phận tại Thiên-thư.



Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,



Nhữ đẳng hành khan, thủ bại hư.



(Nước Nam là nơi vua nước Nam cai trị, điều đó đã chép trong bộ Thiên-thư nghị-chế. Chúng bay là bọn giặc, dám trái mệnh trời đến xâm phạm, thì sao tránh khỏi bị bại?)



Quách Quỳ cũng nghe rất rõ, y triệu Nguyễn Dư đến hỏi:



– Ngôi đền ở bên kia sông thờ thần nào vậy?



– Thưa nguyên soái, đền đó tên là Đại đương giang thần từ, thờ hai thần Trương Hát, Trương Hống. Hai thần là anh em, cùng làm tướng cho Lý Nam-đế (tức Triệu Việt-vương), đánh thắng quân Lương nhiều trận. Sau một tướng trong huyết tộc với vua là Lý Phật-tử đánh bại đế lên làm vua, tức là hậu Lý Nam-đế (571-602). Hậu Lý Nam-đế gọi hai anh em họ Trương đến trao cho quan tước. Hai ngài không nhận, trả lời: « Tôi trung không làm quan với kẻ đã giết chúa mình », rồi ẩn lánh ở Phù-long. Hậu Lý Nam-đế sai sứ gọi nhiều lần, hai ngài đều không ra. Vua ban chỉ: Ai chém được đầu hai ông, thì thưởng cho ngàn vàng. Hai ngài bèn uống thuốc độc tự tử. Đến đời Ngô, Nam-Tấn vương đi đánh giặc Lý Huy ở Tây-long, đêm chiêm bao thấy hai thần xin theo giúp việc quân và nói rằng: Vì có lòng trung, anh được trời cho làm Thần-hà Long-quân phó thần Vũ-lạng nhị giang, em làm Chi-mạn nguyên tuần giang đô phó sứ. Yên giặc, Nam-Tấn vương phong cho anh làm Đại dương giang đô hộ quốc thần vương, em làm Tiểu dương giang đô hộ quốc thần vương, và sai lập đền thờ.



Ghi chú,



Hai thần Trương Hát, Trương Hống được thờ ở rất nhiều nơi. Cho đến nay, trải hơn nghìn năm lịch sử, nhiều đền bị phá hủy. Hiện (1995) những đền sau đây vẫn còn trơ gan với tuế nguyệt:



1. Đình Bích-động,



Ở làng Bích-động, nay là xã Dỉnh-sơn, huyện Việt-yên, tỉnh Hà-bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng.



Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.



2. Đình Châu-xuyên,



Ở thôn Châu-xuyên, xã Thọ-chân, tổng Thọ-xương, phủ Lạng-giang, tỉnh Bắc-giang, nay là tỉnh Hà-Bắc, thờ hai ngài làm thần thành hoàng.



Tài liệu: Bắc-giang tỉnh thần tích.



3. Đại Đương-giang thần từ,



Ở phố Như-nguyệt, xã Tam-giang, huyện Yên-phong, tỉnh Hà-Bắc, chính là nơi lập chiến lũy Như-nguyệt, thời Lý. Nay là thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh.



Thoát-hiên Đặng Minh-Khiêm có thơ vịnh như sau:



Sất mã quân vương nhập thủy tần,



Đệ huynh nhẫn tác sự thù nhân.



Nguyệt-giang thanh dạ cao ngâm hậu,



Nam-quốc càn khôn tận tảo trần.



Ngạn-Xuyên dịch như sau:



Ruổi ngựa nhà vua nhảy biển trầm,



Anh em quyết chẳng chịu vong ân.



Nguyệt-giang đêm vắng thơ vừa dứt,



Trời đất Nam-bang sạch bụi trần.



Tài liệu



– Đại-Việt sử ký toàn thư (Lý kỷ, Nhân-tông kỷ),



– Việt điện u linh,



– Thiên Nam vân lục liệt truyện,



– Hoàng Việt nhất thống địa dư chí,



– Trương tồn thần sự tích,



– Đại Việt địa chí.



Hình chụp tượng thờ hai vị Đại-vương Trương Hát, Trương Hống tại thị xã Đáp-cầu, Bắc-ninh.



Hình dưới là cổng đền thờ. Cổng này là cổng chung, phía trong còn thờ bà sinh mẫu của Thánh-Gióng. (Hình chụp tháng 8-2001)



4. Tam-giang thần từ,



Tại xã Loa-lâu, huyện Tư-nông, tỉnh Thái-nguyên, nay là tỉnh Bắc-thái.



Tài liệu



– Bắc thành địa dư chí,



– Đại-Nam nhất thống chí.



Quỳ cho Nguyễn Dư về, trầm ngâm không nói gì, mặc cho tướng sĩ bàn tán xôn xao. Tiếng người đọc Thiên-hư tiếp tục cho đến hết canh hai mới dứt.



Trước khi khởi hành Nam chinh, Vương An-Thạch sai bộ Lễ cho in bộ Thiên-thư nghị chế ra hàng vạn bản, truyền phát cho tướng sĩ, để họ biết rằng vua Trung-quốc là con trời, nay Giao-chỉ đem quân phạm cảnh, triều đình mang quân đi chinh tiễu là đúng với Thiên-thư. Cho nên sách này binh tướng Tống đã đọc thuộc làu. Bây giờ nghe thần nhắc, họ mới kinh hoàng:



– Thôi rồi! Hy-Ninh đế nghe lời Vương An-Thạch bắt họ Nam chinh, vượt cương giới Thiên-thư định, thì trước sau gì rồi cũng bại.



Sang ngày thứ tư, các tướng Tống đem quân đi đẵn tre, đẵn nứa, đẵn gỗ, cắt dây đem về bờ sông đóng bè. Theo tế tác loan báo, thì quân Việt ở Nam ngạn được chia thành từng tốt (100 người), trấn xung quanh một ụ phòng thủ; cần đổ bộ mỗi đơn vị năm trăm người một lúc, mới đủ sức đàn áp một tốt. Vì vậy phải đóng loại bè có khả năng chở năm trăm người một lúc.



Đêm đó, chư thần lại đọc Thiên-thư, lại đọc thơ. Lòng binh tướng Tống càng căng thẳng, mà Quách Quỳ cũng không biết giải quyết ra sao.



Tướng Yên Đạt nghiên cứu binh thư cùng kinh nghiệm các đời về phương thức vượt sông. Y đã tìm thấy phương pháp vượt sông Độ-khẩu của Hán-trung vương Đào Kỳ thời Hán là toàn vẹn. Nay y đem ra giảng giải cho chư tướng. Đầu tiên cho thủy quân cùng trăm bè chở năm vạn quân vượt sông, ào ạt leo lên chiến lũy đánh với quân thủ. Dĩ nhiên trận đánh sẽ rất khủng khiếp.(Xin xem Anh-hùng Lĩnh-Nam, quyển 4, của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris xuất bản).



Sau khi đổ quân lên, lập tức dùng trăm bè nhanh chóng kết thành ba cái cầu nổi, các cánh quân khác nhất tề vượt cầu nổi tiếp viện cho đạo quân tiên phong; còn thủy quân dàn ra bảo vệ cầu nổi, cùng các đầu cầu.



Chư tướng đem phương pháp này giảng giải rất kỹ cho binh tướng. Trong khi bảo-binh bắt tay vào việc đóng bè. Ngay ngày đầu, quân Tống đã đóng được hơn hai mươi bè. Sang ngày thứ nhì đóng được bốn mươi bè. Ngày thứ ba đóng được bốn mươi bè nữa, như thế là đủ số một trăm như Quách Quỳ muốn.



Chỉ còn chờ thủy quân tới nữa là đổ bộ.



Ngày mùng bẩy tháng giêng.



Nguyên-soái Quách Quỳ được phúc trình rằng bè đã đóng xong, quân sĩ luyện tập cách chèo, chống, tập đổ bộ rất thuần thục. Quỳ mừng lắm, sai họp chư tướng bàn định kế hoạch chi tiết việc vượt sông phá chiến lũy Như-nguyệt.



Ôn Cảo trình bầy tình hình quân Việt:



– Tên Lý Thường-Kiệt quả thực tài không thua Kinh-Nam vương. Y phối trí quân rất cẩn thận. Đầu tiên là chiến lũy cao tới ba trượng, mười lớp rào. Trấn lớp rào là một hiệu Thiên-tử binh của bọn Tây-hồ thất quái, bọn này rất giỏi thủy chiến. Nếu như ta phá được mười lớp rào, đánh tan được hiệu binh trấn ở đây, tiến vào sâu một chút lạo gặp một hiệu Thiên-tử binh khác của bọn Giao-chỉ ngũ-kiêu chặn đường. Ngoài ra, y còn phối trí bốn hiệu binh, cũng do bọn Tây-hồ thất quái chỉ huy, lưu động dọc sông với hạm đội Thần-phù. Nếu như tiền quân ta vượt sông, bọn này sẽ đánh cắt ngang lưng ta.



Khúc Chẩn hỏi:



– Trong ba nút chặn, thì tên Thường-Kiệt phối trí các hiệu ra sao?



– Đối diện với Nham-biền có hai hiệu, thì hiệu Long-dực trấn ở chiến lũy trên bờ sông; hiệu Đằng-hải trấn phía sau. Đối diện với Phú-lương có hai hiệu, thì hiệu Vũ-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông, hiệu Bổng-nhật trấn phía sau. Đối diện với Như-nguyệt có bốn hiệu. Hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng trấn ở chiến lũy trên bờ sông; Ngự-long, Quảng-thánh, Phù-đổng trấn ở dọc đường về Thăng-long. Còn lưu động có ba hiệu Hùnglược, Vạn-tiệp, Thần-điện.



Khi Ôn Cảo nhắc đến tên ba hiệu Thần-điện, Bổng-thánh, Hùng-lược là những hiệu đã đột kích vào doanh trung-ương; trên mặt chư tướng đều đều hiện ra nét cau có, vì hình ảnh những Thiên-tử binh lăn xả vào chém giết như bầy sư tử lại hiện ra trong trí nhớ.



Quách Quỳ trầm tư một lúc, rồi đập tay lên án thư:



– Ta nhất định phải qua sông. Phương thức đánh như sau: Đầu tiên cho quân dùng dao, câu liêm mà cắt mà chặt các lớp rào kiếm chỗ đặt chân, chỗ nào kiên cố quá ta dùng rơm tẩm dầu mà đốt. Các tướng phải đi tiên phong, dùng đội võ sĩ đánh cảm tử, sao cố đục thủng một lỗ thì quân, tướng ào ạt tràn vào trong, đánh tỏa ra hai bên thì quân ngoài rào không bị cản trở nữa; chiến lũy sẽ bị tràn ngập.



Quỳ nhấn mạnh:



– Về việc sang sông, bằng mọi giá, trong đợt đầu, ta đưa chín đạo binh triều tinh nhuệ đánh phá lũy lấy chỗ đặt chân. Trong khi đó ta kết bè thành phù kiều, bấy giờ các đạo khác ào ạt đổ sang sau. Chiến lũy tuy chắc, tuy cao, nhưng ta chấp nhận hy-sinh để lọt vào trong. Lọt vào rồi, thì chỉ cần hai giờ là ta tới Thăng-long.



Quỳ yên lặng một lúc, rồi tiếp:



– Ta vượt sông bằng cả ba mặt trận: Phú-lương, Như-nguyệt, Nham-biền. Nhưng Nham, Phú là hư, chỉ với mục đích cầm chân bốn hiệu Thiên-tử binh tại đây. Còn Như-nguyệt là thực, ta cần đánh tan hiệu Bảo-thắng, Bổng-thánh trấn lũy. Chiếm được lũy rồi khi đại quân ồ ạt sang, thì hai hiệu trấn dọc đường về Thăng-long là Ngự-long, Quảng-thánh nghiền ta nát ra như tương trong chốc lát. Chỉ có hiệu kị binh Phù-đổng là đáng ngại. Tướng tổng chỉ huy chiến lũy Như-nguyệt là ai?



Ôn Cảo đáp:



– Y tên là Nguyễn Căn, tuổi còn trẻ, võ công bình thường, nhưng y là người kinh nghiệm xung phong hãm trận. Y từng tham dự trận đánh Chiêm. Vợ y tên Vũ Thanh-Thảo, bạn thân của Linh-Nhân hoàng thái hậu, học trò Tôn Đản, Cẩm-Thi. Võ công thị rất cao thâm. Cả hai vợ chồng đều thuộc loại gan lỳ, sẵn sàng thí mạng chứ không chịu lui hay đầu hàng đâu.




– Thằng lỏi con này, võ công kém ta xa, nó có điên không mà dám bắt đao của ta?



Nhưng khi đao Vi gần tới cổ thiếu niên, thì một mùi hương thơm ngát xông vào mũi y, rồi cánh tay y mất hết kình lực; đao của y bị thiếu niên bắt lấy rồi đưa vào ngực y. Máu từ ngực y vọt ra, y ôm ngực lảo đảo, miệng quát lên:



– Tại sao tay ta lại liệt? Ai đánh trộm ta?



Trước khi ngã xuống, y cũng còn kịp thấy một thiếu nữ xinh đẹp đang chống kiếm nhìn y. Thiếu nữ chắp tay lễ phép chỉ vào thiếu niên:



– Vi tướng quân, tôi là Mai-Cửu vợ của anh Lý Cửu. Vì chồng tôi sắp mất mạng về tay tướng quân, nên tôi phải tung viên thuốc Đoạn-cân hoàn vào huyệt khúc trì của tướng quân. Vì vậy tay tướng quân mới bị mất lực.



Quản Vi than:



– Hỡi ơi! Ta nghe Giao-chỉ có Thần-vũ thập anh, Thập bát Kim-cương là đệ tử của Mộc-tồn hòa thượng. Không ngờ ta bị mất mạng vì cặp Kim-cương thứ chín.



Nói rồi, y gục xuống, mắt trợn ngược.



Hai cặp vợ chồng Lý Bát, Lý Cửu chỉ huy đội võ sĩ Đông-a vây kín Tu Kỷ, Quản Vi lại. Hai người tả xung hữu đột, nhưng không thoát ra được. Biết có đánh nữa, thì cũng đến mất mạng vô ích. Tu Kỷ quát lớn:



– Khoan!



Đội võ sĩ Đông-a cùng ngừng tay, lùi lại. Tu Kỷ hướng Tín-Nghĩa vương:



– Vương gia! Họ Tu này nghe vương gia học nghề với ngoại tổ là Côi-sơn đại hiệp Trần Tựï-An, nức tiếng thiên hạ. Thế sao vương gia không thể tứ giáo cho tại hạ mấy chiêu, mà lại dùng số đông vây phủ? Võ đạo Đại-Việt như thế ư?



Sợ chồng tha cho Tu Kỷ, vương phi cười nhạt:



– Này Tu tướng quân. Chỉ vì xưa kia quốc công Thân Thiệu-Cực tha cho tướng quân trên núi Tản; Đại tư mã Thường-Kiệt tha cho Tư tướng quân trong trận Phong-sa-trang; mới đây công chúa Kim-Thành tha cho Tu tướng quân trong dịp họ Dương nổi loạn, mà ngày nay mấy trang động Bắc-biên bị tướng quân tàn sát. Hiện giờ chúng ta đối trận với nhau, chứ không phải đấu võ mà phải tuân theo lề luật võ lâm. Đã đối trận thì phải dùng quân.



Vương phi hô:



– Tấn công!



Tu Kỷ, Đào Bật kinh hãi, vội phóng liền ba chưởng về bên phải, rồi cả hai tung mình nhảy xuống sông. Vương phi Ngọc-Nam rút kiếm phóng theo Tu Kỷ. Hai người rơi ùm xuống nước. Tu Kỷ phóng chưởng đánh vào đầu vương phi. Phi lặn xuống dưới nước. Chưởng của Kỷ làm nước bắn tung lên thành cột.



Trong khi ấy, một người từ chiến lũy Nam ngạn tung mình nhảy ùm xuống sông. Vừa rơi xuống, người đó lại vọt lên cao như con cá. Cứ như thế, người đó vọt hơn mười lần thì đến bên Đào Bật, tay rút kiếm đâm y. Đào Bật vội lặn xuống nườc. Người đó cũng lặn theo y.



Tín-Nghĩa vương nhận ra người đó là Dương Minh.



Cuộc chiến dưới nước giữa Ngọc-Nam, Tu Kỷ; Dương Minh, Đào Bạt diễn ra ác liệt trước mắt hàng mấy vạn người. Sau hơn khắc, Tu Kỷ, Đào Bật đã cảm thấy mệt mỏi lắm rồi. Hai người lặn xuống dưới nước, chuồn sang Bắc ngạn. Ngọc-Nam, Dương Minh cũng lặn theo. Không biết những gì xẩy ra dưới nước, chỉ thấy sóng cuồn cuộn nổi lên. Hơn khắc sau, từ giữa giòng sông « ầm » một tiếng, vương phi Ngọc-Nam tay túm tóc Tu Kỷ vọt lên khỏi mặt nước, tà tà đáp lên sàn chiến hạm. Phi ném y xuống mặt chiến hạm đến bộp một tiếng. Chư quân thấy mắt y mở trừng trừng, bụng chương lên như cái trống.



Võ sĩ trói y lại. Còn vương phi vào khoang chiến hạm thay y phục.



Tiếp theo, Dương Minh túm tóc Đào Bật tung lên chiến hạm, người y bị ba bốn vết thương, máu chảy đầm đìa.



Tín-Nghĩa vương dùng mưu bắt được hơn ba vạn quân triều, hơn vạn quân tân-đằng-hải rồi, vương nhìn lại bờ Bắc: Hiệu Hùng-lược, thủy quân tuy ít hơn quân Tống, nhưng đã chọc thủng chiến tuyến khiến hàng ngũ quân Tống rối loạn. Tướng Lý Thật với đội võ sĩ cận vệ vẫn can đảm đứng chỉ huy chống trả. Vương cho hạm đội Thần-phù kết bè làm phù kiều, rồi ra lệnh:



– Dương Minh, Phương-Cúc với hiệu Long-dực trấn chiến lũy, bảo vệ phù kiều. Trần Ninh, Trần Ngọc-Hương, Lý Ngũ, Mai Ngũ đem hiệu Đằng-hải vượt sông đánh ngược trở lên, tiếp viện Ngô Ức, Phương-Dược.



Trần Ninh, Ngọc-Hương phi ngựa dẫn đầu cánh tả; Lý Ngũ, Mai Ngũ dẫn đầu cánh hữu. Binh sĩ hiệu binh Đằng-hải như đoàn sư tử đói reo lên rung động mặt sông, thoáng một cái đã vượt phù kiều đánh vào hông trận tuyến của Tống. Trận Tống bị cắt làm ba làm bốn. Các chỉ huy tân-đằng-hải chưa có kinh nghiệm chiến đấu, chưa quen phối hợp, thì đấu sao lại Thiên-tử-binh? Thế là trận Tống bị vỡ. Quân Việt xung vào chém giết, không đầy một khắc, bao nhiêu quân Tống còn lại, hoặc đầu hàng, hoặc bị giết.



Biết thế nguy Lý Thật cùng đội võ sĩ tung mình chạy về hướng Bắc. Nhưng một người mặc quần áo nâu, tóc đã bạc, chỉ huy một đội võ sĩ dàn ra trấn trước mặt y. Kinh hoàng, y kêu lên:



– Phải chăng người là Phụ-quốc thượng tướng quân, tổng lĩnh thị vệ Vương Văn?



– Đúng thế, Vương Văn là tên giả. Tên thực của ta là Trần Phụ-Quốc. Dường như người có quen ta?



– Trước đây tiểu nhân từng là thị vệ dưới quyền tướng quân. Xin tướng quân tha cho tiểu nhân.



Phụ-Quốc đưa mắt nhìn Trần Ninh, Ngọc-Hương như hỏi ý kiến. Trần Ninh lắc đầu:



– Xin sư bá tha lỗi. Y là bộ hạ cũ của sư bá, nhưng nay y là kẻ đi chiếm nước của đệ tử. Đệ tử không thể tha cho y.



Phụ-Quốc lắc đầu, cùng đội võ sĩ rút ra phía bờ sông. Trần Ninh hô lên một tiếng, đội cung thủ thuộc hiệu Đằng-hải buông tên, đám võ sĩ Tống không kịp phản ứng, bị bắn ngã gần hết. Lý Thật tung mình chạy, Lý Ngũ đưa mắt cho vợ; Mai-Ngũ bắn theo hai viên thuốc, kình lực kêu lên tiếng véo. Lý Thật đang lơ lửng trên không, bị hai viên thuốc Đoạn-cân hoàn trúng đầu gối. Hai chân y bị tê liệt, y rơi xuống như trái mít rụng. Thiên-tử binh định trói y lại. Biết thế nguy, tay y rút kiếm đưa lên tự đâm vào ngực tự tử.



Thế là trận chiến ở Nam ngạn, Bắc ngạn Vạn-xuân chấm dứt.



Trên suốt một giải đất Bắc ngạn sông Cầu, xác người, xác ngựa, xe cộ, quân trang, vũ khí nằm la liệt dài đến hơn mười dặm.



Tín-Nghiã vương ra lệnh:



– Trần Ninh, Ngọc-Hương, Lý Ngũ, Mai Ngũ mau đem quân tiến về Nham-biền bắt tay với Trung-Thành vương, rồi tiến về Tây đốt phá hậu cứ quân Quách Qùy.



– Ngô Ức đem hiệu Hùng-lược, xuống hạm đội Thần-phù cũng ta tiến về Như-nguyệt.



Giữa lúc đó có tiếng quân reo, tiếng ngựa hí tiếng vũ khi chạm nhau từ xa vọng lại, rồi lửa từ căn cứ Tống ở Nham-biền bốc cháy ngùn ngụt.



Trần Ninh, Ngọc-Hương cầm cờ phất lên dẫn đầu cánh tả; Ly Ngũ, Mai ngũ dẫn đầu cánh hữu. Hiệu binh Đằng-hải thiện chiến anh hùng nhất Đại-Việt, từng làm mưa làm gió trong trận Hỏa-giáp, Ung-châu vượt phù kiều như đàn sư tử đói, vừa reo vừa tiến. Trống thúc nhịp nhàng.



Tín-Nghĩa vương bảo Ngô Ức, Phương Dược:



– Hai em cho cho quân lên sàn chiến thuyền phất cờ, reo hò, thúc trống, hư trương thanh thế làm như tiến về Như-nguyệt.



Ngô Ức hỏi:



– Vương gia! Tại sao ta phải làm thế?



– Ta ước tính giờ này, quân Quách Quỳ đã phá vỡ phòng tuyến Như-nguyệt đang tiến về Thăng-long. Cho nên ta hư trương thanh thế, để y sợ mà rút quân về Bắc Như-nguyệt. Bấy giờ công chúa Thiên-Ninh sẽ tái chiếm chiến lũy Như-nguyệt. Còn chúng ta sẽ dàn ra không cho Tóng tái đổ bộ Như-nguyệt nữa.



Ngô Ức y lệnh thi hành. Một đoàn chiến thuyền dàn ra tới mấy dặm, phất cờ, thúc trống, quân reo hò từ từ tiến về hướng Tây.



Tín-Nghĩa vương với vương phi Lê Ngọc-Nam ngồi trên sàn một soái thuyền. Vương thấy vương phi luôn bồn chồn nhìn về hướng Tây thì hỏi:



– Em có gì không yên tâm?



– Em lo quá, nếu Như-nguyệt thất thủ thì Thanh-Thảo ắt lành ít dữ nhiều. Trong Hồng-hà ngũ long, thì Ngọc-Huệ đã hy sinh ở Ngọc-sơn rồi. Không lẽ trận này đến Thanh-Thảo?



– Em có lo cũng vô ích thôi. Buổi họp ngày mùng một Tết, chúng ta đã khẳng định rằng trấn ở Như-nguyệt là cầm chắc cái chết trong tay. Giờ này e Thanh-Thảo đã hy sinh rồi cũng nên.



Quân sĩ đã băng bó cho Đào Bật, dốc ngược đầu cho nước ra khỏi bụng Tu Kỷ, rồi giải tới trước mặt vương với vương phi. Tu Kỷ vẫn không khuất phục:



– Vương phi! Đánh nhau dưới nước, thì vương phi thắng mỗ, chứ đánh nhau trên cạn thì mỗ nhất định thắng vương phi. Nghĩ lại, một đời Tu mỗ, anh hùng cái thế, mà bị bắt ở đây như thế này, thì cũng đáng tiếc thực.



Vương phi Ngọc-Nam là người ôn nhu văn nhã bậc nhất trong Hồng-hà ngũ long. Nghe Tu Kỷ tỏ ý bất khuất, phi cười:



-Tu tướng quân nói đúng. Bản lĩnh Tu tướng quân cao thâm hơn ta nhiều.



Phương-Dược ngồi cạnh vương phi Ngọc-Nam, bà lên tiếng hỏi:



– Tu tướng quân! Tướng quân có biết vương phi biệt hiệu là gì không?



–???!!!



– Hồi niên thiếu vương phi cùng bốn người bạn nữa nổi danh là Hồng-hà ngũ long.



– Thế ngũ long là những ai?



– Hoàng-long là Linh-Nhân hoàng thái hậu. Bạch-long là Nhu-mẫn, Đoan-duệ, Anh-văn công chúa Trần Ngọc-Huệ. Thanh-long là vương phi Trung-Thành vương nhũ danh Nguyễn-thị Trinh-Dung. Hồng-long là Hòa-huệ, Ninh-tĩnh, Ôn-văn công chúa Vũ Thanh-Thảo.



Tu Kỷ thở dài:



– Như vậy vương phi đây là Hắc-long?



– Không, Huyền-long chứ không phải hắc. Này tướng quân! Tướng quân được võ lâm tướng sĩ, Tống đặt cho mỹ danh là Xích-ô có đúng thế không?



Tu Kỷ kêu lên:



– Ta bại là phải! Ta bại là phải! Hỡi ôi! Con quạ lửa mà nhảy xuống nước, đấu với rồng đen, thì kết quả đã thấy rõ rồi.



Phương Dược hỏi Đào Bật:



– Đào tướng quân! Nếu đánh nhau trên cạn, anh Dương Minh của chồng tôi thực không đỡ nổi ba chiêu của tướng quân. Nhưng tướng quân có biết biệt hiệu của anh Dương Minh là gì không?



–???!!!



– Phu quân tôi là người đứng hàng thứ sáu trong Tây-hồ thất kiệt. Anh Dương Minh đứng hàng thứ nhì. Sau trận đột kích đêm Giao-thừa, nguyên soái Quách Quỳ gọi Tây-hồ thất kiệt là Giao-long thất quái. Phó nguyên soái Triệu Tiết gọi là Giao-chỉ thất long. Đào tướng quân có biệt hiệu là Trầm-hà cư sĩ phải không?



– Đúng thế.



– Trầm là con sông Trầm, nhưng cũng có nghĩa là chìm. Hà là sông, nhưng cũng có nghĩa là con tôm. Con tôm, mà gặp giao-long, thì sống sao nổi? Vậy tướng quân có muốn nói gì nữa không?



– Bại tướng thì chỉ có chết mà thôi. Phu nhân giết ta đi cho rảnh.



– Được! Lát nữa chúng ta sẽ đem hai người về Ngọc-sơn tế công chúa Trần Ngọc-Huệ với tướng quân Bùi Hoàng-Quan.



Một con thuyền nhỏ áp mạn vào chiến hạm, rồi một người tóc bạc như cước, nhưng mặt đẹp vô cùng tung mình nhảy lên. Người đó là Trần Phụ-Quốc. Tín-Nghĩa vương với vương phi cung tay:



– Đại sư bá.



Đào Bật thấy Phụ-Quốc thì kêu lên:



– Người! Người! Phải chăng người là đô đốc Tương-giang hồ Động-đình, sau làm Phụ-quốc thượng tướng quân tổng lĩnh thị vệ chăng?



Phụ-Quốc không nhận ra Đào Bật, ông hỏi:



– Dường như người có quen biết ta?



– Tiểu nhân là Đào Bật, trước đây làm sư trưởng ngự lâm quân dưới quyền tướng quân.



Lòng Phụ-Quốc nhũn ra, ông đưa mắt nhìn Tín-Nghĩa vương, mà không dám nói một câu. Hiểu ông bác thi sĩ nhiều tình cảm của mình hơn ai hết. Vương cung tay:



– Việc Tu, Đào tướng quân xin để sư bá phát lạc.



Phụ-Quốc nói với Tu, Đào bằng giọng ôn tồn của kẻ cả:



– Hai tướng quân là những anh tài của đất Hoa-hạ, trí dũng có thừa. Hai chục năm qua, vào sinh ra tử biết bao phen, mong có chút công danh. Thế mà cho đến nay, cái tước hầu cũng chưa thấy đâu. Trong khi bọn thư sinh mặt trắng ngồi ở Biện-kinh gây chiến với lân bang, rồi bắt chư tướng lăn mình vào chỗ chết. Nếu như việc thành, thì Hy-Ninh cho là công của chúng. Còn thất bại, chúng đổ lên đầu chư tướng, rồi đem giết cả nhà. Hỡi ôi! Nam nhi đại trượng phu da ngựa bọc thây là truyện thường, nhưng đầu bị chém vì bại trận; thây mình, đầu mình; thây vợ, thây con... dĩ chí thây cha mẹ bị đem phơi ở chợ cho dân chúng coi. Nhà cửa, ruộng đất bị tịch thu thì thực là thảm thương.



Phụ-Quốc bấu tay hai cái, dây trói hai người dứt rời, ông lại lấy bầu rượu bên hông đưa cho Tu, Đào:



– Uống đi, rồi ta đưa vào bờ. Sau trận này, ví dù Quách Quỳ có chiếm được Đại-Việt, thì hai tướng quân cũng không thể được thăng quan tiến chức. Vậy từ nay, hai tướng quân nên cáo bệnh, chẳng nên xuất trận nữa, nhớ không?



– Dạ.



Bấy giờ là tháng giêng, tiết trời lạnh giá, mà hai người ở dưới nước khá lâu, rồi bị trói với quần áo ướt, người run lập cập. Bây giờ được rượu thì mừng chi siết, hai người vội đưa lên miệng uống hết sạch; rồi cung tay vái Phụ-Quốc, Tín-Nghĩa vương, vương phi, sau đó theo võ sĩ đội Giao-long xuống con thuyền nhỏ bơi vào bờ.



Ghi chú,



QTNC, TTCTGCK chép rằng: « Đào Bật, Tu Kỷ là hai tướng tài, thế mà sau khi bại trận, được giặc tha cho về, cáo ốm cho đến ngày lui quân ».



(Xin cáo lỗi, bạn CDDLT không "scan" được hình)