Nam Quốc Sơn Hà

Chương 49 : Anh-linh Vạn Đại

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Trong khi Pháp-Minh, Thân Mai giao đấu, thì công chúa Thiên-Ninh truyền hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh lùa binh sĩ Tống về phía chiến lũy Cổ-pháp. Thương thay, những binh sĩ Tống kinh nghiệm chiến đấu có thừa, họ đều là những hán tử đầy sức sống, mà nay trúng độc, chân lê bước như đàn thú theo quân Đại-Việt dẫn giải đi.



Khoảng hơn khắc sau, trên bãi đóng quân chỉ còn năm thần tăng Thiếu-lâm, ba trăm đệ tử, với hơn trăm tướng Tống, đứng quan sát trận đấu. Phía Đại-Việt cũng chỉ còn công chúa Bảo-Hòa, bốn cao thủ Mai, Lan, Cúc, Trúc, hơn ba trăm đệ tử.



Sau khi giao tù binh cho hai hiệu binh Hồng-châu với hoàng nam giải đi; hiệu Ngự-long lấy quân phục của binh tướng Tống mặc vào, lại mang cả cờ xí theo, rồi hướng Như-nguyệt tiến phát. Hiệu Quảng-thánh cũng thay y phục rồi theo sau. Hai hiệu quân âm thầm di chuyển về hướng Bắc.



Tới rừng tre, thì có chim ưng mang thư tới, đó là lệnh mới nhất của Khu-mật viện:



« Phải cẩn thận, dường như nhị vương Trung-Thành, Tín-Nghĩa thất bại, vì Quách Quỳ không rút quân từ Nam sông Như-nguyệt về cứu hậu cứ. Được toàn quyền quyết định tái chiếm Như-nguyệt hay trấn tại Cổ-pháp ».



Công chúa Thiên-Ninh truyền họp chư quân lại, rồi nói:



– Than ôi, mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên. Trong khi nghị kế, triều đình tin rằng hai đạo binh của Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương tiến đánh Nham-biền và hậu cứ của Quách Qùy, như vậy ắt y phải rút quân từ Nam sông Như-nguyệt về để tự cứu viện. Nhưng cho đến nay, tin tế tác báo rằng, dường như hai đạo binh của hai vương Trung-Thành, Tín-Nghĩa gặp điều bất lợi, nên Quách Quỳ vẫn duy trì sáu đạo binh 10, 11, 12, 13, 14, 15 ở phòng tuyến Như-nguyệt. Bên bờ Bắc, Quỳ vẫn để ba đạo 17, 18, 19 làm trừ bị. Với chín đạo này, mà chúng tiến đến đây, thì làm sao chúng ta đương nổi?



Công chúa ngửa mặt nhìn bầu trời lấp lánh đầy sao, rồi tiếp:



– Nếu đúng như ta luận rằng nhị vương thất bại, thì nội ngày mai Triệu Tiết sẽ dẫn bọn Vương Tiến, Bình Viễn, Vương Mẫn đem chín đạo binh đến đây. Với chín đạo này, chúng nghiền ta nát ra như tương rồi tràn về Thăng-long. Mà thảm thay, Thăng-long hiện không còn một hiệu quân nào trấn thủ cả. Làm sao bây giờ?



Phạm Dật đề nghị:



– Nhưng cho đến giờ này Quách Quỳ cũng chưa biết toàn quân của Miêu Lý bị thất bại. Ta lợi dụng đêm tối, lợi dụng chín đạo quân Tống cứ tưởng phía trước là quân Miêu Lý, nên không lập doanh trại, cũng chẳng phòng thủ; thình lình ta tập kích, ắt chiếm được Nam ngạn Như-nguyệt. Chiếm lại được chiến lũy Như-nguyệt rồi, ta củng cố phòng thủ như cũ, Quách Qùy không thể đổ bộ được nữa, vì không còn quân.



Công chúa hỏi chư tướng:



– Kế của Dật để thực là kế hoàn hảo nhất. Ta tái chiếm chiến lũy thì được. Nhưng có điều, một người chúng ta phải đánh với chín địch, như vậy trong chúng ta đây, cái hy vọng sống còn rất mong manh!



Kim-Loan cầm kiếm chỉ về hướng Như-nguyệt:



– Trước mắt bắt buộc ta phải chấp nhận hai điều. Một là ta thủ ở đây, không tái chiếm Như-nguyệt. Hai là tái chiếm Như-nguyệt. Ta phải chọn đường nào? Giả như ta chọn đường lối hành động thứ nhất, thì ngày mai ta phải tử chiến với chín đạo binh Tống. Chiến lũy Cổ-pháp này sẽ bị chiếm, đương nhiên chúng ta chết hết, rồi Thăng-long bị tràn ngập. Hai là chúng ta tái chiếm chiến lũy Như-nguyệt, mà đành phải chấp nhận hy sinh hết. Nhưng hy vọng chiếm được Như-nguyệt, thì Thăng-long còn. Vậy, đằng nào chúng ta cũng chết, thì thà chúng ta tái chiếm Như-nguyệt, có nhiều hy vọng sống còn hơn là ngồi chờ giặc.



Công chúa Thiên-Ninh hỏi chư tướng:



– Chư tướng nghĩ sao? Ta tái chiếm chiến lũy Như-nguyệt, hay trấn tại Cổ-pháp?



Lý Nhị khẳng khái:



– Khải công chúa điện hạ, phàm là tướng, là quân thì phải ra trận. Chiến sĩ ra trận không chết cũng bị thương. Triều đình nghị kế: Đại-Việt còn hay mất là do ta có chiếm lại Như-nguyệt hay không? Nay chúng ta được giao cho nhiệm vụ đánh chiếm lại Như-nguyệt, quả chúng ta lĩnh trọng trách vô cùng trọng đại. Cái thế đã như vậy, ta không thể lùi được. Bọn thần xin quyết chiến.



Chư quân cùng hô:



– Tử chiến!



– Tử chiến! Nhất định tử chiến.



Phạm Dật, Kim-Loan cùng Thần-vũ lục anh cùng dơ tay thề:



– Bọn thần xin lấy cái chết để đền ơn tri ngộ của Linh-Nhần hoàng thái hậu.



Thấy chư quân tướng cương quyết, công chúa hài lòng:



– Ta cũng mong được chết với chư quân. Nào! Chúng ta lên đường.



Thế là đúng như kế hoạch, hiệu Ngự-long đi trước, hiệu Quảng-thánh đi sau. Những người con yêu nhất của Đại-Việt âm thầm tiến về Như-nguyệt.



Công chúa Thiên-Ninh dẫn ba nghìn nữ thị vệ, đoàn thú binh cùng hai vị thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh đi giữa hai hiệu binh.



Trời tháng giêng, gió bấc thổi lạnh thấu xương, nhưng hai hiệu binh Ngự-long, Quảng-thánh đều được uống thuốc ngự hàn, nên khí hậu không làm cho họ khó chịu. Trời tối xòe bàn tay ra không nhìn thấy gì. Tiền quân chỉ còn cách Như-nguyệt có hơn ba dặm. Phạm Dật, Kim-Loan cỡi ngựa đi cạnh Lý Nhất, Mai Nhất, Nhân, Nghĩa, Lễ. Trong lòng bẩy người hồi hộp vô cùng, vì họ đều biết rằng trận đột kích này thành công, thì Đại-Việt mới mong tồn tại. Còn như họ thất bại, thì e rằng đất nước này sẽ thành quận huyện của Tống.



Tiền quân chỉ còn cách Như-nguyệt hơn hai dặm, xa xa đã thấy ánh lửa của doanh trại Tống lấp lánh trong đêm. Quân Tống vẫn chưa phát giác ra cái nguy gần kề.



Chỉ còn hai dặm, rồi một dặm. Cả bẩy người đều muốn ngộp thở, tim đập thình thình.



Rồi trăm trượng, năm mươi trượng. Phạm Dật đốt chiếc pháo thăng thiên tung lên trời. Hiệu Ngự-long reo hò rồi xung vào trại Tống. Lý Nhất Mai Nhất chỉ huy sư một; Hùng Nhân, Hùng Nghĩa chỉ huy sư hai; Hùng Lễ chỉ huy sư ba; Kim-Loan chỉ huy sư bốn. Bốn mũi lao thẳng vào doanh trại Tống đánh thọc tới trung ương. Đây là nơi đồn trú của đạo quân thứ mười, mười một do Vương Tiến chỉ huy. Quân Tống đang ngon giấc, giật mình choàng dậy, chỉ kịp thấy một « đội quân nhà » đang xung vào chém giết. Thoáng một cái, cả bốn mũi đều thọc tới bờ sông.



Công chúa Thiên-Ninh ra lệnh mở xe chở thú. Đội tượng binh, ngao binh đánh thẳng ra bờ sông. Đội hổ binh đánh sang trái, đội báo binh đánh sang phải. Tiếng thú gầm, tiếng quân reo, tiếng trống thúc hòa lẫn với tiếng vũ khí chạm nhau, tiếng người gào thét vang lên bên bờ sông đầy hoa Xuân.



Đúng lúc đó, hiệu Quảng-thánh cũng chia làm bốn mũi, lao vào vòng chiến. Sau khi cả hai hiệu bắt tay được với nhau, thì hiệu Ngự-long đánh quặt về trái; hiệu Quảng-thánh đánh quặt sang phải.



Trời vẫn tối như mực.



Quân Việt như đánh vào chỗ không người, lại có thú binh yểm trợ. Đao kiếm chém phầm phập, thương mâu đâm vào người như xiên chả, thú binh gầm thét nhảy vào vồ, cắn. Quân Tống chỉ còn biết la hoảng, rồi không kịp mặc quần áo, bỏ chạy tán loạn về phía bờ sông, xô đẩy nhau xuống phù kiều tuôn về Bắc ngạn. Trong cái giây phút tranh sống ấy, tướng không khiến được quân, quân không nghe lời tướng, người người xô đẩy nhau, ngã xuống sông.



Thế là không đầy một khắc, hai đạo binh 10, 11 phần chết, phần rơi xuống sông, phần tháo lui về Bắc ngạn.



Triệu Tiết, Vương Tiến giật mình thức giấc, hai người chưa kịp mặc giáp trụ, thì quân Việt đã đánh tràn tới. Tiết quát tháo, hò hét, nhưng nào có giữ nổi trận tuyến! Không hổ là danh tướng, Tiết rút kiếm đứng cản lại lớp sóng quân Việt, cho binh tướng vượt phù kiều qua sông. Tuy biết rằng đây là đoàn quân Việt giả làm quân Tống, nhưng y không phân biệt được kẻ nào là quân Việt, kẻ nào là quân Tống. Thoáng thấy Phạm Dật, Lý Nhị đang đứng trên lưng ngựa chỉ huy, Tiết bảo Vương Tiến:



– Chúng ta phải bắt sống hai thằng lỏi này, mới mong giải quyết cục diện ngày hôm nay.



Nhưng khi y quay lại, thì Vương Tiến đã bỏ chạy từ bao giờ, đoàn quân Tống giả đang đánh vào doanh trại của đạo binh 12, 13 và 14, 15; còn y thì bị bao vây giữa đội nữ thị vệ Việt. Tiết quát lớn một tiếng, rồi tung mình lên cao. Ở trên cao y đánh xuống hai chưởng như trời long đất lở. Bùng, bùng, bẩy nữ vệ sĩ Việt bị đánh bay tung ra bốn phía. Triệu Tiết tà tà rơi xuống, tay y vung kiếm đánh bay vũ khí của bẩy tám vệ sĩ nữa. Y đang định tháo lui, thì một bóng vàng thấp thoáng, rồi một thiếu niên hùng vĩ, trấn trước mặt y, tung vào người y hai chưởng liền; chưởng lực mạnh kinh nhân. Y vội vận công phát chiêu đỡ. Bình một tiếng, Tiết cảm thấy cánh tay ê ẩm, còn thiếu niên thì bị bay tung lại sau. Y nhìn lại, thì ra Hùng Nhân.



Thấy Hùng Nhân lạc bại, Tiết định bỏ chạy, thì Hùng Nghĩa, Hùng Lễ phát chưởng cản lại, rồi Hùng Nhân cũng vọt mình tới tấn công y. Không hổ là đệ nhất cao thủ Trung-nguyên, y bình tĩnh đấu với ba người một lúc. Vừa đấu, y vừa quan sát trận tuyến: Hai mặt trận đạo binh 12, 13 và 14, 15 đang chiến đấu ác liệt. Một số quá kinh hoàng bỏ chạy xuống phù kiều, người người xô nhau xuống sông, la hét ơi ơí. Những người chưa kịp xuống phù kiều, kẻ thì nhảy đại xuống sông, bị nước cuốn đi, người thì xin quy hàng.



Tiết nhìn về Tổng hành doanh: Phía Đông, lửa cháy sáng rực bầu trời, tiếng Lôi-tiễn nổ, tiếng voi rống, tiếng hổ gầm, tiếng beo gào, tiếng sói tru, tiếng ngựa hí, hòa lẫn với tiếng quân reo, tiếng vũ khí chạm nhau. Tiết kinh hoàng:



Dường như tổng hành doanh cũng bị tấn công.



Ghi chú,



Hồi này thuật trận Như-nguyệt của công chúa Thiên-Ninh đánh với Triệu Triết. Hồi sau sẽ thuật trận Nham-biền của Trung-Thành, Tín-Nghĩa nhị vương. Hai trận cùng diễn ra một lúc. Công-chúa Thiên-Ninh đánh mặt Nam sông Cầu. Nhị vương đánh mặt Đông-Bắc sông Cầu.



Biết không thể giữ nổi Nam ngạn Như-nguyệt nữa, Triệu Tiết quát lên một tiếng, dáng xuống người Hùng Nhân một chưởng như sét nổ, cả người ông bay tung lại sau. Y lại dáng hai chưởng nữa, đến lượt Hùng Nghĩa, Hùng Lễ phun máu miệng, lảo đảo lui lại. Vòng vây mở rộng, y vọt người hướng về phù kiều định chạy về Bắc ngạn.



Nhưng, thấp thoáng bóng nâu, một người từ sau đáp xuống trước mặt y như con đại bàng, chặn giữa phù kiều. Người ấy tay cầm cây gậy đồng chĩa vào ngực y. Kinh hãi, y uốn cong người, bật ngửa về sau lộn liền ba vòng, thế là y lại trở lại Nam ngạn. Nhưng khi y vừa đáp xuống đất, thủy chung, cây gậy vẫn chĩa vào cổ. Biết có lui nữa cũng vô ích, y đứng dậy nhìn đối thủ: Đó là một nhà sư, tuổi còn trẻ, đẹp như tượng Thích-ca Mâu-ni. Y chửi tục:



– Đồ hèn hạ, mi đánh trộm mà thành công. Ta không phục. Mi là ai?



Nhà sư mỉm cười:



– Bần tăng pháp danh Đạo-Hạnh.



Triệu Tiết la lên:



– Thì ra Nam-thiên đại thánh tăng. Hèn gì Triệu mỗ thua là phải. Nay Triệu mỗ đã bại dưới tay người, thì người muốn mổ, muốn băm vằm xin cứ ra tay, mỗ không hề hối tiếc.



Nhà sư vung tay phóng một chỉ đến véo một tiếng điểm vào huyệt đản trung của Triệu Tiết, rồi cười:



– Giết Triệu tướng quân thì bần tăng không nỡ. Bần tăng chỉ xin mời tướng quân về Thăng-long chơi ít lâu, chờ hết chiến tranh, sẽ để tướng quân về Tống.



Đạo-Hạnh túm ngực Tiết ném xuống đất cho đệ tử trói lại. Nhưng khi Tiết còn đang lơ lửng trên không, thì có hai chưởng mạnh như bài sơn, đảo hải đánh vào hai bên hông ngài; rồi một chưởng thứ ba hắt Triệu Tiết lên cao, huyệt đạo của y được giải, y lộn một vòng, đáp xuống an toàn.



Bị hai chưởng đánh vào hai bên, Đạo Hạnh tung người lên tránh khỏi. Ở trên cao, ngài đá gió một cái, người bật ra xa đến hai trượng rồi đáp xuống. Bấy giờ ngài mới nhìn lại, xem hai người đánh mình với người cứu Triệu Tiết là ai? Thì trước mặt ngài là năm nhà sư, mặc áo cà sa đại hồng. Ngài chắp tay hành lễ:



– A-di-đà Phật, thì ra năm vị thần tăng Thiếu-lâm giá lâm. Phải chăng năm vị có đại danh Pháp-Tiên, Pháp-Trị, Pháp-Quốc, Pháp-Cách, Pháp-Vật?



– Đa tạ thánh tăng đã nhẹ tay với Triệu tướng quân.



Nói dứt lời, Pháp-Tiên, Pháp-Trị cùng quát lên một tiếng phát chưởng tấn công Đạo-Hạnh. Còn Pháp-Quốc, Pháp-Cách, Pháp-Vật với Triệu Tiết tung mình về phía phù kiều. Đạo-Hạnh thấy kình lực đối thủ mạnh như núi lở, băng tan, vội phát hai chỉ đỡ. Bộp, bộp hai tiếng, hai ngón tay Đạo-Hạnh đau ê ẩm, lồng ngực muốn nổ tung ra; ngài vội lùi lại hai bước để điều tức, thì Pháp-Tiên, Pháp-Trị đã tung mình theo bọn Triệu Tiết xuống phù kiều, sang bên kia sông.



Công chúa Thiên-Ninh cho trấn tại đầu Nam mười hai phù kiều, mỗi phù kiều bốn thớt voi, hai chục chó sói, với hai dàn thần nỏ đặt xế với hai hông cầu nổi. Còn đoàn nữ thị vệ thì dàn xung quanh voi của công chúa, để bảo vệ chúa tướng. Nhìn về hướng Đông, thấy doanh trại Tống bốc lửa, lẫn với tiếng quên reo, thú gầm, công chúa Thiên-Ninh chỉ cho tướng sĩ:



– Chư tướng, chư quân nhìn coi! Hai đạo quân của Trung-Thành, Tín-Nghĩa đang đánh vào tổng hành doanh Quách Quỳ đấy.



Cuộc chiến bên bờ Nam ngạn, khiến cho các đạo binh ở Bắc-ngạn tỉnh giấc, chỉnh đốn lại đội ngũ. Triệu Tiết trở về Bắc, thì quân chỉ về phía Đông:



– Đại lực lượng Giao-chỉ tấn công vào đệ tam doanh. Nguyên soái cùng với chư tướng đang dồn hết lực lượng ra chống giặc.



Tiết hoang mang cùng cực. Y ra lệnh cho Vương Tiến:



– Quân Giao-chỉ có hai hiệu binh Ngự-long với Quảng-thánh. Chúng đang đánh quặt về phía phải với trái, chỉ để rất ít quân trấn ở mười hai phù kiều. Người đợi cho chúng đang giao chiến ác liệt với đạo 12, 13, 14, 15 thì lập tức đem hai đạo 16, 17 vượt phù kiều đánh vào sau lưng hiệu Ngự-long. Còn ta sẽ đem hai đạo 18, 19 đánh tan đội thú binh, bắt con lỏi Thiên-Ninh, rồi đánh vào sau lưng hiệu Quảng-thánh.



Vương Tiến vâng lệnh chuẩn bị sẵn.



Tiết nói với năm nhà sư chữ Pháp:



– Bên kia bờ sông, giặc cho trấn ở đầu mười hai phù kiều, mỗi phù kiều có hai dàn thần nỏ đặt xiên hai hông; chúng lại còn bố trí đội binh sói, voi. Xin năm vị đại sư cầm mộc, dùng đao gạt tên, xử dụng khinh công thượng thừa dẫn đầu năm đội quân vượt sông. Sau khi tới Nam ngạn, các vị giết bọn xạ thủ thần nỏ, cho quân đổ bộ.



Pháp-Tiên cau mặt lại, tỏ vẻ lo lắng:



– Tướng quân ban lệnh, dĩ nhiên anh em bần tăng phải tuân. Nhưng tướng quân thử nghĩ xem, nếu như hai dàn thần nỏ cùng tác xạ, bần tăng có thể dùng mộc đỡ được tên của dàn bên trái; còn dàn bên phải, chỉ với thanh đơn đao, thì sao có thể đạt được hàng ngàn mũi tên? Thôi! Biết vậy, nhưng anh em bần tăng xin tuân lệnh.



Trong khi đó, tại Nam ngạn, cuộc chiến diễn ra cực kỳ khốc liệt:



Từ chỗ đóng quân của đạo binh 10, 11 đến đạo 12, 13 và 14, 15, khoảng hơn hai dặm. Khi quân Việt tấn công vào đạo 10, 11 thì quân sĩ hai khu kia đã tỉnh giấc. Binh, tướng vội mặc giáp trụ, chỉnh đốn hàng ngũ chuẩn bị ứng chiến. Bốn mũi của bốn sư thuộc hiệu Ngự-long tiến đến sát trại của đạo 12, 13 thì tên từ trong trại bắn ra như mưa. Phạm Dật rúc hai tiếng tù và. Quân Việt lùi lại hơn ba trượng, ngoài tầm tên. Ông phất cờ đỏ lên, lập tức hàng triệu thần phong từ mười chiếc xe đậu phía sau bay lên, nhào xuống trại Tống mà đốt. Các đội tiễn thủ Tống bị bất ngờ, vất cung tên chống ong. Bốn sư Việt chỉ chờ có thế, các tướng xua hổ lao vào hàng ngũ Tống, rồi Thiên-tử binh tiến theo.



Nói thì chậm, chứ Phạm Dật ra lệnh cho quân ngừng, ong bay lên, thú lao vào, Thiên-tử binh xung phong, phối hợp nhịp nhàng, thoáng một cái quân Việt với đội hổ đã tràn ngập trại Tống. Đội tiễn thủ Tống bị diệt. Quân Tống, quân Việt cùng một thứ y phục lẫn vào nhau. Quân Tống không còn phân biệt được bạn hay thù nữa, trong khi quân Việt vốn thuộc mặt nhau, nên cứ thấy lạ mặt là chặt.



Tướng chỉ huy khu này là Bình Viễn, y là người cực kỳ tinh minh, mẫn cán. Biết quân mình không phân biệt được bạn hay thù, y hô lớn:



– Chư quân nghe đây, thấy người trước mặt, cứ hô bằng tiếng Biện-kinh « Thiên-triều » người nghe đáp lại « Sát Nam-man ». Kẻ nào không hô, không đáp đúng thì là giặc.



Biện pháp này quả nhiên lợi hại. Quân Tống nhờ đó phân biệt được bạn hay thù, quân Việt bị chặn lại. Hai bên giao chiến ác liệt. Đám quân Tống thuộc đạo 12, 13 kinh hoảng bỏ chạy về Bắc ngạn, đã được chỉnh đốn, lại vượt phù kiều sang Nam ngạn tiếp cứu đồng đội.



Trong khoảng hơn một khắc, phần thắng nghiêng về phía hiệu Ngự-long. Trong bốn doanh trại Tống, thì hai doanh trại bị tràn ngập.



Đúng lúc đó bên bờ Bắc ngạn, Triệu Tiết hô lên một tiếng, bốn đạo binh 16, 17, 18, 19 do chính y cùng năm nhà sư chữ Pháp dẫn đầu tràn xuống phù kiều. Khinh công năm nhà sư đã đến trình độ siêu phàm, nên chỉ nhấp nhô mấy cái, năm ông đã tới bờ Nam ngạn. Thần nỏ trấn tại 12 đầu phù kiều lập tức tác xạ. Năm nhà sư dùng mộc đỡ, dùng đao gạt. Nhưng mỗi đầu cầu có hai dàn thần nỏ đặt chéo với phù kiều, ba nhà sư Tiên, Trị, Quốc gạt được hết tên, đáp chân lên Nam ngạn, vung đao cản đội sói, voi rồi tấn công xạ thủ nỏ thần. Còn hai nhà sư Cách, Vật, mỗi người bị đến ba bốn mũi tên lọt lưới đao, xuyên thủng áo, làm xước da. Hai thần tăng kinh hoàng, nhưng cả hai vẫn nghiến răng, tung mình đáp xuống bờ sông chống với thú, đánh giết xạ thủ thần nỏ.



Đội nữ thị vệ vây lấy hai nhà sư Pháp-Cách, Pháp-Vật, thần nỏ lại tác xạ, binh tướng Tống bị bắn ngã từng loạt, phải lùi về Bắc ngạn.
Trong ngày 19 tháng giêng, khi mặt trận Như-nguyệt, Phú-lương diễn ra, thì Tín-Nghĩa vương đại phá quân Tu Kỷ, Đào Bật ở Vạn-xuân, rồi đổ bộ lên Bắc-ngạn sông Cầu, đánh phá hậu quân Tống ở đây.



Cũng đúng lúc đó, Trung-Thành vương đánh phá quân Tống đóng ở ngã ba sông Thương, sông Lục-Nam.



Trung-Thành vương gửi cho Tín-Nghĩa vương loan báo quân tình:



«... Trong khi truy kích địch, Tuyên-vũ đại tướng quân, Tín-tâm hầu Triệu Thu với phu nhân Phàn Phương-Liễu tuẫn quốc. Giết chết phản tướng Lưu Báo, cầm tù tướng Giới Định, bắt năm vạn tù binh. Tất cả đều đưa về Thiên-trường. Đã đem hiệu Thần-điện về trấn Vạn-xuân, để hiệu Long-đực xuất chiến. Vậy ngày mai hiền đệ cho hai hạm đội tiến về gần Như-nguyệt hơn, rồi cho đổ bộ hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp lênBắc-ngạn sông Cầu, cách xa tổng hành doanh Quách Qùy 50 dặm. Ta đã tiến quân tới gần. Phải cố hư trương thanh thế, khiến Quỳ rút quân từ Cổ-pháp, Nam Như-nguyệt về ».



Sau khi gửi thư đi, vương họp chư tướng, rồi ban lệnh:



– Chúng ta lập tức tiến binh đến chân núi Nham-biền chiếm ngự núi này. Từ chân núi đến kho lương Quách Quỳ không xa. Như vậy thế bắt buộc y phải tung quân đánh ta. Ta lợi dụng địa thế cố thủ, trong khi y bắt đầu đánh ta, thì Tín-Nghĩa vương sẽ đổ bộ đánh vào sau lưng y.



Vương trầm tư một lúc rồi tiếp:



– Từ chân núi Nham-biền có con sông nhỏ chảy về hướng Nam. Vậy Trần Ninh, Ngọc-Hương đem hiệu Đằng-hải vượt sang phía Tây sông. Sau khi sang sông thì hai người cho đạo tả đóng đựa vào chân núi Nham-biền. Lý Ngũ, Mai-Ngũ đem đạo Đằng-hải hữu đóng trên sườn núi làm thế ỷ dốc. Dương Minh, Phương-Cúc đem hiệu Long-dực đóng bên bờ Đông con sông, rồi cho đạo tả đóng dưới chân núi. Còn đạo hữu thì cho Lý Lục, Mai-Lục chỉ huy đóng ở trên sườn núi.



Vương đứng dậy:



– Ta sẽ đi giữa hai hiệu binh. Thôi, ta lên đường.



Hai hiệu binh theo thứ tự lên đường. Đến giờ Dậu thì Trần Ninh sai chim ưng báo cho vương biết hai hiệu binh đã vượt sông, đang đóng trại. Vương thúc hiệu Long-dực tiến mau, để đóng trại trước khi trời tối.



Giữa lúc đó, có chim ưng đem lệnh của nguyên soái Thường-Kiệt:



«... Phải tối cẩn thận, tại bản doanh của Quách Qùy hiện có Hoa-sơn tứ lão với đội võ sĩ hơn trăm người. Tứ lão kiếm thuật, võ công cao siêu không biết đâu mà lường. Đã cầu Mộc-tồn, Viên-Chiếu hòa thượng để đối phó với tứ lão. Lại được tin Liêu-Đông tam ma cùng mấy trăm ma đầu cũng có mặt. Đã cầu U-bon vương Lê Văn ».



Vương vội loan báo cho các tướng biết, rồi cùng vương phi dùng ngựa duyệt một vòng khu vực đóng quân của hai hiệu Đằng-hải, Long-dực. Thấy doanh trại đã hoàn tất, vương hỏi hai Đô-thống chỉ huy Ngao-binh, Ưng-binh:



– Các em phòng thủ như thế nào?



– Cách doanh trại bốn dặm, bọn thần đều cho bố trí ba phía ba đội Ngao-binh, trên trời một đội Ưng-binh. Cách hai dặm, lại cũng bố trí như vậy.



Vương yên tâm, nói mấy câu khen ngợi đám Ngao-binh, Ưng-binh, bởi chúng đều còn rất trẻ.



Giờ Hợi ngày 20 tháng giêng.



Trung-Thành vương với vương phi trở về trướng. Hai vị chưa kịp cởi giáp trụ, thì lại có chim ưng mang lệnh của Khu-mật viện tới báo tình hình Phú-lương, tình hình ở rừng tre, tình hình chiến lũy Cổ-pháp. Vương chú ý nhất đoạn:



«... Đêm 21 sang ngày 22 tháng giêng, tiên nương Bảo-Hòa, công chúa Thiên-Ninh sẽ xử dụng hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đột kích, tái chiếm Như-nguyệt. Vậy bằng mọi giá phải đem quân đến gần tổng hành doanh vào ngày 21 tháng giêng, uy hiếp, khiến Quỳ phải rút bớt quân ở Nam Như-nguyệt về. Trong đêm 21 rạng 22 đánh thẳng vào hành doanh Tống, để cầm chân Quách Quỳ, khiến y không thể tiếp viện cho Nam Như-nguyệt. Nếu không thể thực hiện được những điều này, để Quách Quỳ đem quân cứu Nam Như-nguyệt thì đạo quân của tiên nương Bảo-Hòa với công chúa Thiên-Ninh sẽ bị diệt. Tống chỉ việc thẳng đường tới Thăng-long... »



Vương nói với vương phi:



– Từ đây tới bờ sông Cầu không xa, ta phải thân đến bàn với chú Chiêu-Văn rồi mới quyết định được. Vậy em ở nhà đốc thúc Ngao, Ưng binh canh phòng cẩn thận.



Vương gọi Trần Ninh, Ngọc-Hương, Dương Minh, Phương-Cúc, Lý Ngũ, Mai-Ngũ, Lý Lục, Mai-Lục, đem theo đội Ưng-binh, Ngao-binh đi theo để liên lạc, rồi lấy ngựa lên đường. Khoảng hơn khắc sau, thì sông Cầu đã hiện ra trước mặt. Hai hạm đội dàn ra thành một hàng dài, đèn sáng như sao sa. Tín-Nghĩa vương đã được Ưng-binh báo trước. Vương thân lên bờ đón anh xuống soái hạm của hạm đội Thần-phù. Trong soái hạm đã có Côi-sơn tam anh, hai đô đốc Trần An, Trần Hải cùng Ngô Ức, Phương-Dược; Tạ Duy, Phương-Quế cùng vợ chồng Lý Thất, Lý Cửu.



Trung-Thành vương đọc lệnh của Khu-mật viện cho Tín-Nghĩa vương với cử tọa nghe. Trần Trung-Đạo cau mày:



– Trong lệnh này tôi thấy có một điều khó hiểu. Như triều đình đã nghị kế rằng quân ta chỉ bằng một phần mười quân Tống, nên ta phải đối phó bằng ba phương thức. Một là đóng trong chiến lũy kiên cố, lấy khỏe chống mệt, một người thủ, địch phải dùng mười để tấn công, chấp nhận tổn thất gấp mười ta. Hai là ta nhân họ không phòng bị, mà đột kích, tập kích, phục kích. Ba là tuyệt đối ta không nên tấn công địch. Hôm rồi, trong buổi nghị kế cuối cùng, triều đình giao cho chúng ta nhiệm vụ kéo đến đây hư trương thanh thế, để Quách Quỳ phải mang quân về giữ tổng hành doanh. Sau đó ta đổ bộ lên chiếm lại Nam ngạn Như-nguyệt. Thế mà bây giờ Khu-mật viện lại lệnh cho ta đánh vào tổng hành doanh Tống là điều nguy hiểm.



Ông nhấn mạnh:



– Tại hậu cứ Bắc ngạn chiến lũy Như-nguyệt, Tống còn tới mười lăm vạn binh, nhất là hơn vạn kị binh cực kỳ tinh nhuệ. Nếu ta tấn công Tống, thì không khác gì tự tử. Tôi nghĩ, tướng ngoài mặt trận không nhất thiết phải nghe lệnh vua. Ta chỉ cho dàn quân hư trương thanh thế mà thôi. Chiều mai, dù Quách Quỳ có rút quân từ Nam ngạn về hay không, ta cũng dùng hai hạm đội này phá phù kiều, rồi đổ bốn hiệu Đằng-hải, Long-dực, Hùng-lược, Vạn tiệp lên đánh chiếm lại chiến lũy Như-nguyệt.



Tín-Nghĩa vương rùng mình:



– Thưa sư bá, tại Nam Như-nguyệt, Tống có sáu đạo binh 10, 11, 12, 13, 14, 15. Lại thêm cánh quân của Miêu Lý ở Cổ-pháp có sáu đạo 4, 5, 6, 7, 8, 9 với đạo kị binh; dù rằng sau hai đợt tấn công Cổ-pháp, Miêu Lý bị thiệt hại nặng. Cả hai cánh quân hợp lại đông gấp ba ta, làm sao ta địch lại chúng?



Trung-Thành vương đứng dậy, vương đưa mắt nhìn cử tọa một lượt rồi cất tiếng trầm trầm:



– Thế nước đang chông chênh như trứng trồng trên đá, lập lờ như ngọn đèn hết dầu. Vậy chư tướng có kế gì không?



Vân-ma thượng tướng quân Trần Ninh đứng dậy nói lớn:



– Thưa vương gia, điều quan trọng là ta phải làm sao cho Tống rút từ Cổ-pháp, từ Nam ngạn Như-nguyệt về Bắc ngạn, rồi ta tái chiếm chiến lũy. Bấy giờ chỉ cần hai hiệu binh trấn ở đấy, cũng khiến Tống không thể đánh nổi. Vì đánh thì phải hy sinh mười vạn quân, muôn ngàn lần Quách Quỳ không dám. Ví dù y tàn nhẫn, cứ hy sinh thì sau khi chiếm được Như-nguyệt lần nữa, y không còn quân đánh Thăng-long.



Trung-Thành vương gật đầu công nhận lý luận của Trần Ninh. Trần Ninh tiếp:



– Theo đệ thì chúng ta chỉ cần một đạo quân đánh cảm tử, đột kích vào hậu cứ Tống. Đường lối này, chỉ cần một mạng Việt đổi năm mạng Tống, cũng khiến Tống mất năm vạn quân. Như vậy ắt y phải rút quân về để củng cố tổng hành doanh.



Trần Trung-Đạo nhíu mày lại:



– Phải tìm ra kế khác, hơn là đem cả vạn người chết một lúc ta thấy ghê quá. Không nên.



Trung-vũ đại tướng quân, Kính-Tâm hầu Dương Minh đứng dậy nói:



– Thưa sư bá! Thiếu-bảo Bùi Hoàng-Quan với phu nhân dám đem một đổi mười ở Ngọc-sơn. Quang-lộc đại phu Nguyễn Căn, với phu nhân Vũ Thanh-Thảo; Mai Cầm, Phương-Đơn; Quách Y, Phương-Liễu; đã hy sinh ở Như-nguyệt để đổi một lấy mười một. Phò mã Hoàng Kiện, công chúa Động-Thiên; Trần Di, Phương-Lý đã hy sinh ở Phú-lương để đổi một lấy tám. Vũ Quang, Võ Kim-Liên đã hy sinh ở Cổ-pháp để đổi một lấy mười ba. Triệu Thu, Phương-Lý đã hy sinh ở Nham-biền để đổi một lấy bẩy. Hơn thế nữa Đinh Hoàng-Nghi, Phương-Quỳnh dám đột kích ở Khâm-châu, đốt lương thảo, làm rúng động triều đình Tống. Không chừng giờ này Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên sắp hy sinh ở Yên-dũng để đổi một lấy mười bốn. Công chúa Thiên-Ninh, Phạm Dật, Lê Kim-Loan cũng sắp hy sinh ở Như-nguyệt để đổi một lấy mười lăm. Người trước hy sinh được, không lẽ bọn cháu lại lùi bước trong trận này?



Nói xong hầu ngồi xuống.



Ninh-viễn đại tướng quân, Dũng-Tâm hầu Tạ Duy đứng dậy tiếp lời bạn:



– Khải vương gia! Thưa sư bá. Sự thể cần phải hy sinh, thì ta phải hy sinh. Nếu như ta không đánh cảm tử, thì đạo quân của tiên nương Bảo-Hòa sẽ bị diệt. Đạo quân này bị diệt thì nước mất. Nước mất thì chúng ta chẳng còn mặt mũi nào nhìn trăm họ, rồi cũng đến tự tử mà chết. Vậy chi bằng ta chết trước, mà nước còn, hơn là chết sau, mà nước mất.



Chư tướng cùng vỗ tay hoan hô lý luận của Tạ Duy.



Trung-Thành vương đưa mắt nhìn em. Chỉ nhìn nét mặt em, vương biết rằng em mình đồng ý những gì đám tướng trẻ đề nghị. Vương gõ tay xuống án thư để cho cử tọa chú ý rồi nói:



– Thế bắt buộc chúng ta phải chấp nhận đường lối hành động của Tạ Duy. Muốn một mạng đổi mười mạng, thì ta không thể tấn công vào trại Tống, mà ta phải dụ cho Tống tấn công ta. Vậy thì thế này: Ngay đêm nay tôi cho hai hiệu Long-dực, Đằng-hải củng cố lại vị trí cho thực chắc. Sáng mai hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp cũng đổ bộ lên, tiến về Nham-biền hư trương thanh thế. Như vậy thế bắt buộc Tống phải xuất trại giao chiến với ta.



Trần Trung-Đạo hỏi:



– Nhược bằng Quách Quỳ không cố thủ trong trại, không chịu xuất quân thì sao?



– Bấy giờ ta mới dùng một hiệu đánh cảm tử vào trại Tống như Tạ Duy đề nghị.



Tín-Nghĩa vương hỏi:



– Trong bốn hiệu Long-đực, Đằng-hải, Vạn-tiệp, Hùng-lược, hiệu nào sẽ lĩnh nhiệm vụ đánh cảm tử?



Cả bốn tướng Trần Ninh, Dương Minh, Tạ Duy, Ngô Ức đều dơ tay xin lĩnh nhiệm một đi không trở lại này. Vương-phi Tín-Nghĩa Lê Ngọc-Nam là người cùng quê với Long-biên ngũ hùng. Thời thơ ấu, ngũ hùng cùng phi sống với nhau ở Thổ-lội, bề ngoài thì là chị em, nhưng tình cảm như mẹ với con. Vương-phi đưa mắt nhìn Vân-ma thượng tướng quân Nhu-tâm hầu Trần Ninh... trong lòng phi muốn cho em mình được lĩnh cái nhiệm vụ vinh dự này. Đúng lúc đó hầu cũng đưa mắt nhìn phi. Chị em cùng hiểu ý nhau. Vương-phi nói với Trung-Thành vương:



– Thưa vương huynh, theo muội nghĩ thì hiệu Đằng-hải hiện đóng gần trại Tống nhất, ta nên để hiệu Đằng-hải lĩnh nhiệm vụ đánh cảm tử vào trại Tống là hợp lý.



Ba tướng Dương Minh, Ngô Ức, Tạ Duy cùng lắc đầu, xua tay tỏ ý phản đối. Định-viễn đại tướng quân, Huệ-Tâm hầu Ngô Ức nói:



– Thưa vương phi, chúng em đều cầm quân như nhau, đều là con cháu vua Hùng như nhau, tại sao anh Trần Ninh lại được lĩnh nhiệm vụ này, mà không phải là Dương Minh, Tạ Duy hay em. Để công bằng, chúng em xin cho được rút thăm.



Tín-Nghĩa vương đưa mắt nhìn vương phi, như ngụ ý rằng: Anh cũng muốn chiều em. Nhưng, vụ này thì không thể.



Trần Phụ-Quốc được chỉ định làm thăm. Ông sang khoang bên cạnh, lấy ra bốn mảnh giấy. Ông dùng bút viết vào một mảnh chữ:



« Xã tắc lao tưởng,



Anh linh vạn đại »,



Còn bốn mảnh để trắng, rồi gấp lại, đem ra trước cử tọa.



Trần Bảo-Dân hú lên gọi một chim ưng vào. Ông chắp tay hướng lên trời khấn:



– Xin liệt tổ Đại-Việt chọn cho chúng con một trong bốn tướng vì nước quên mình, giết giặc bảo vệ đất tổ.



Con chim ưng dùng mỏ gắp một thăm đưa đến trước mặt Trần Ninh. Hầu run run bóc ra. Thăm của hầu là thăm trắng. Hầu xịu mặt xuống nhìn vương phi Ngọc-Nam rồi lắc đầu. Chim ưng lại mổ một thăm đem đến trước mặt Tạ Duy. Hầu mở thăm ra, lại cũng thăm trắng. Cử tọa nhìn Ngô Ức, Dương Minh trong lòng cực kỳ hồi hộp.



Phụ-Quốc lại ra lệnh cho chim ưng, nó mổ một thăm đưa đến cho Trung-vũ đại tướng quân, Kính-Tâm hầu Dương Minh. Phu nhân là Phương-Cúc tiếp lấy thăm. Trong khoang thuyền có tới hơn trăm người, mà không một tiếng động, mọi người đều mở to mắt nhìn Phương-Cúc. Vì quá cảm động, tay phu nhân run run. Thăm vừa mở, hầu reo lên:



– Ha! Ha! Ha!



Phương-Cúc cầm lấy thăm có chữ « Xã-tắc lao tưởng. Anh linh vạn đại » trao cho Trung-Thành vương. Cử tọa đều lên tiếng chúc mừng Dương Minh, Phương-Cúc.



Dương Minh, Phương-Cúc hỏi Trung-Thành vương:



– Thưa vương gia, hiện sư huynh Lý Lục, sư tỷ Mai-Lục làm phó thống lĩnh hiệu Long-đực. Vậy trong trận này, sư huynh, sư tỷ có được đi theo không?



Trung-Thành vương cười:



– Liệt tổ chọn là chọn hiệu Long-dực chứ đâu có chọn em với Phương-Cúc? Sư huynh Lý Lục, sư tỷ Mai-Lục là phó thống lĩnh hiệu Long-dực thì đương nhiên cũng được đi chứ.



Trong Thập-bát kim cương, thì vợ chồng Lý Lục thâm trầm, nhiều mưu trí nhất, võ công cao thâm nhất. Không ai hiểu tại sao, hai người còn trẻ như vậy mà Trung-Thành vương lại gọi là sư huynh, sư tỷ?



Cử tọa lại chúc mừng vợ chồng Lý Lục.



Tín-Nghĩa vương ban lệnh cho Dương Minh, Phương-Cúc:



– Trong Long-biên ngũ hùng, Tây-hồ thất kiệt thì vợ chồng em là người thâm thầm, mưu trí nhất. Nay liệt tổ đã chọn các em để vào hang hùm giết giặc. Ta không thể không chấp thuận. Phàm đột kích thì phải nhẹ nhàng. Vậy khi lên đường, Dương đệ truyền cho hiệu Long-dực bỏ hết vũ khí, dụng cụ kềnh càng, chỉ mang theo đoản đao, lá chắn thôi. Trong thuật đột kích cần nhiều thú binh. Vậy ngay bây giờ trở về, Trần Ninh giao tất cả đội Hổ, Báo, Sói, Voi, Thạch-xa, Nỏ-thần trực thuộc tăng viện cho Dương Minh. Ngược lại Dương Minh trao đội Lôi-tiễn nặng nề cho Trần Ninh.



Vương ngừng lại cho chư tướng theo kịp:



– Nội ngày mai, ta cho hai hiệu Hùng-lược, Vạn-tiệp đổ bộ lên bờ, rồi đóng trại liên tiếp với hiệu Đằng-hải. Tế-tác Tống ắt báo cho Quách Quỳ biết. Nếu y đem quân xuất trại đánh ta, thì là điều ta mong mỏi. Còn như y không chịu xuất quân, thì đêm mai Dương Minh sẽ đột kích vào trại chúng. Khu trại Tống gần ta nhất là doanh ba. Nhớ khi vào trại Tống rồi, thì đánh như vũ bão, đánh nhanh như chớp, xuyên từ Đông sang Tây. Khi đánh tới trung ương, lại đánh tỏa ra hai hướng hướng Nam, Bắc rồi rút lui.



Vương ra lệnh cho Trần Ninh, Ngô Ức, Tạ Duy:



– Trong khi Dương Minh đột kích vào trại giặc, thì các em đem Lôi-tiễn đến gần trại Tống. Lúc thấy trong trại Tống có tiếng quân reo, thì nã Lôi-tiễn vào doanh một, doanh hai, để gây rối loạn, khiến chúng không thể xuất quân truy kích. Nhược bằng chúng truy kích, thì ta mở cổng trại cho hiệu Long-dực vào, rồi cố thủ ở trong.



Buổi họp chấm dứt.