Nam Quốc Sơn Hà

Chương 50 : Đã Đem Xương Máu Đền Non Nước, -còn Mãi Tinh Thần Với Gió Trăng

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Tại chân núi Nham-biền, nước Đại-Việt.



Ngày 21 tháng giêng, niên hiệu Anh-vũ Chiêu-thắng thứ nhì đời vua Nhân-tông bên Đại-Việt, nhằm niên hiệu Hy-Ninh thứ mười đời vua Thần-tông nhà Tống (Đinh-Tỵ, DL.1077).



Suốt ngày 21, Trung-Thành vương nhìn chim ưng tuần thám trên trời để theo dõi tình hình địch, mà không thấy một dấu hiệu gì. Cho đến trưa, thì chim ưng mang lệnh từ Khu-mật viện đến, vương hồi hộp mở ra đọc. Trong lệnh, nguyên soái Thường-Kiệt cho biết tình hình mặt trận Cổ-pháp Vũ Quang với Võ Kim-Loan tuẫn quốc. Tuy toàn bộ đạo kị binh Tống bị thảm bại, nhưng có lẽ Tống sẽ tràn ngập căn cứ Cổ-pháp bất cứ lúc nào. Tại Yên-dũng, Lý Đoan, Trần Ngọc-Liên đang chống trả với Yên Đạt trong thế tuyệt vọng. Cuối cùng lệnh ban ra:



«... Nhắc lại, đêm nay tiên nương Bảo-Hòa, công chúa Thiên-Ninh sẽ đem hiệu Ngự-long, Quảng-thánh đánh úp căn cứ Như-nguyệt. Bằng mọi giá phải tấn công vào tổng hành doanh Quách Quỳ, nếu không y tung quân sang cứu viện Nam ngạn, thì hai hiệu Ngự-long, Quảng-thánh bị tiêu diệt. Sau khiđánh vào tổng hành doanh Tống, phải lui quân xuống hai hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng kéo về trấn Như-nguyệt ».



Vương than với vương phi:



– Chúng ta đang đối đầu với các đại tôn sư Trung-nguyên. Mộc-tồn hoà thượng với Đại-từ Liên-hoa hoà thượng lúc nào cũng ẩn trong quân Tống rồi, khi chúng ta gặp nguy, thì người sẽ tếp cứu. Duy U-bon vương, không biết vương có tới kịp để dự trận với chú Chiêu-Văn không?



– Em cũng lo điều đó. Ta đành để số phận làm việc.



Cho đến chiều, vương cùng vương phi dùng ngựa duyệt lại doanh trại hiệu Long-đực, Đằng-hải một lượt. Duyệt xong vương lại đến doanh trại của hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược duyệt qua. Vương hỏi Tín-Nghĩa vương:



– Sư thúc Lê Văn tới chưa?



– Chưa.



Vương an ủi em:



– Nhưng dù sao em cũng có ba vị sư bá Côi-sơn tam anh bên cạnh, dư sức đối phó với Liêu-Đông tam ma.



Tín-Nghĩa vương lắc đầu:



– Trong ba sư bá, thì chỉ mình tam sư bá Trung-Đạo ở cạnh em mà thôi. Nhưng người phải trấn trên hạm đội Bạch-đằng mất rồi. Còn đại sư bá Phụ-Quốc, nhị sư bá Bảo-Dân đã giả trang làm Thiên-tử binh đi theo Dương Minh.



Trung-Thành vương kinh hãi:



– Sao? Tại sao có vụ này?



– Tại em lỡ lời. Em nói rằng ba vị sư bá tuổi cao, sức không được như xưa thì nên ở trên chiến hạm hơn là xuất trận. Câu nói này, sư bá Trung– Đạo không để vào tai. Nhưng đại, nhị sư bá thì bực mình ra mặt. Các cụ cùng hơn trăm đệ tử giả làm Thiên-tử binh theo Dương Minh. Em cố cản mà không được.



Vương phi Trinh-Dung tính đốt ngón tay rồi nói:



– Không ngờ các cụ lớn tuổi mà hỏa khí còn mạnh quá. Đại sư bá đã 79 tuổi, nhị sư bá đã 77 tuổi rồi chứ có ít đâu. Đành vậy.



Anh em từ biệt nhau.



Trời nhá nhem tối, thì các hiệu binh bắt đầu di chuyển Lôi-tiễn tới vị trí ấn định. Dương Minh họp chư tướng lần cuối, để nhắc lại nhiệm vụ:



– Lệnh ban cho chúng ta đánh vào doanh ba. Doanh ba là nơi đồn trú của năm đạo quân triều, lực lượng trừ bị của Quách Qùy dùng để đánh Thăng-long, tổng số khoảng năm vạn người. Ta cần phải giết ít nhất phân nửa số quân này, hay ít ra cầm chân không cho chúng tiếp cứu Nam ngạn Như-nguyệt.



Hầu ngừng lại để cho chư tướng theo kịp, rồi tiếp:



– Quân Tống tuy đông, nhưng ta không sợ, bởi vì một là ta ra quân bất ngờ. Hai là ta lợi dụng đêm tối dùng Thần-nỏ, Thạch-xa, thú binh làm chủ lực chính. Ba là chúng ta đều quyết tử một đi không về.



Hầu ban lệnh:



– Sư huynh Lý Lục đem đội hổ, mười dàn Thần-nỏ với sư một đi bên trái. Sư tỷ Mai-Lục đem sư hai, mười dàn Thần-nỏ với đội báo đi bên phải. Phương-Cúc đem sư ba, đội Thạch-xa với sư ba đi chính giữa. Chúng ta di chuyển tới gần trại Tống chờ đợi. Khi trong trại Tống tắt đèn một lúc, thì ta cùng tấn công. Quân Tống kinh hoàng thức giấc, thì ta dùng Thạch-xa, Thần-nỏ bắn mở đường, rồi cho thú binh tiến trước, Thiên-tử binh tiến sau. Khi vào tới trung ương, thì sư huynh đánh quặt sang trái, sư tỷ đánh quặt sang phải. Khi có lệnh thì đổi tiền đội làm hậu đội rồi rút lui.



Một bữa tiệc khao quân đã được chuẩn bị: Thịt nướng, giò, chả, rượu đem ra. Tướng mời binh, binh mời tướng cùng uống chung rượu vĩnh biệt.



Người ngậm tăm, thú buộc mõm, âm thầm lên đường. Tới giờ Dậu, thì các đoàn quân chỉ còn cách trại Tống hơn sáu dặm. Quân tướng cùng dừng lại nghỉ ngơi. Sang giờ Tuất, trống trong trại Tống đánh ba hồi, báo hiệu sang canh, tắt đèn đi ngủ. Đèn đuốc tắt hết. Dương Minh ra lệnh cho các đội quân lên đường. Sang giờ Hợi thì tới doanh trại Tống.



Một tiếng hú lảnh lót vang lên, đó là hiệu lệnh tấn công. Ba đội quân cùng nã Thạch-xa phá tan các hàng rào, các cổng, rồi Thần-nỏ đi giữa, hai bên là thú binh, phía sau là Thiên-tử binh reo hò xung vào trại Tống. Quân Tống đang riu riu ngủ, choàng thức dậy, thì bốn phía toàn quân Việt lố nhố, Thạch-xa nã, Thần-nỏ bắn, thú xông vào mà vồ, mà cắn, mà quật. Thoáng một cái quân Việt đã xông vào tới trung ương trại. Bấy giờ quân Tống mới đốt được đèn đuốc lên, thì hai trong năm trại đã bị đánh phá.



Không hổ là những binh đội tinh nhuệ nhất của Tống, bị tấn công bất ngờ, nhưng chỉ hơn khắc sau ba trại còn lại đã dàn ra phản công, bao vây hiệu Long-dực vào giữa.



Lại nói ngày 21 tháng giêng, Quách Quỳ cùng chư tướng nhận được tin Yên Đạt chiếm Phú-lương, giết được các tướng Việt như phò mã Hoàng-Kiện, công chúa Động-Thiên; Trần Di, Bùi Phương-Lý. Hiện Đạt đang phá chiến lũy Yên-dũng. Lại được tin đạo quân của Miêu Lý công phá Cổ-pháp, giết được Vũ Quang; Võ Kim-Liên tử tử theo chồng. Quỳ sai quân chấp pháp gửi lệnh cho hai cánh quân:



«... Nội ngày 22 tháng giêng, Yên Đạt phải phá cho được Yên-dũng; Miêu Lý phải nhổ cho được cái gai Cổ-pháp... Rồi hai đạo cùng tiến về Thăng-long... »



Quỳ họp chư tướng, lần này có cả Liêu-Đông tam ma, Hoa-sơn tứ lão rồi quyết định:



– Tên yêm hoạn Lý Thường-Kiệt với tên Nho sinh mặt trắng Lý Kế-Nguyên bị mắc mưu ta. Chúng cho rằng cánh quân mặt biển với Như-nguyệt của ta là thực, nên chúng để tới hai hạm đội trấn ở Nam-hải. Lại để hai hiệu Bổng-thánh, Bảo-thắng trấn Như-nguyệt; ba hiệu Ngự-long, Quảng-thánh, Phù-đổng trấn Cổ-pháp. Ta cũng giả hư trương thanh thế đánh Như-nguyệt, Cổ-pháp, nhưng thình lình diệt Phú-lương, Yên-dũng. Quả Phú-lương bị ta chiếm. Yên-dũng chỉ có một hiệu binh Bổng-nhật thì mười lăm vạn binh của Yên-đạt sẽ nghiền nát trong nửa ngày rồi tiến về Thăng-long. Bây giờ ta cho cả hai mặt Cổ-pháp, Yên-dũng là thực. Tên Thường-Kiệt tưởng ta ngu như nó, nó sai hai tên Hoằng-Chân, Chiêu-Văn với hai hạm đội tiến về đây để ta tưởng mặt Nham-biền là thực, rồi rút quân về.



Chư tướng đều cười khoan khoái. Quỳ tiếp:



– Còn lâu ta mới mắc mưu chúng. Ta không rút quân về. Nếu chúng muốn tự tử thì cứ đánh vào bản doanh ta. Vậy ta chỉ để lại hai đạo binh triều, hai mươi chỉ huy tân-đằng-hải trấn ở Nam-Bắc chiến lũy Như-nguyệt. Với quân số này đông hơn chúng, lại thủ trong đồn, thì Hoằng-Chân, Chiêu-Văn không thể nào đánh được. Ngay sáng mai chúng ta di chuyển tổng hành doanh theo đạo quân Miêu-lý tiến về Thăng-long.



Ôn Cảo vội xuống lệnh cho quân sĩ nhổ trại, thu xếp quân trang, lừa ngựa, để sáng hôm sau lên đường vào giờ Mão.



Nhưng đúng lúc đó thì ngựa lưu tinh loan báo một tin khủng khiếp:



– Toàn bộ cánh quân Nham-biền bị đánh tan, hai đạo quân của Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương đang tiến về tổng hành doanh.



Quỳ hơi chột dạ. Nhưng Liêu-Đông tam ma trấn an:



– Chúng hư trương thanh thế đấy. Từ hôm khởi cuộc chiến đến giờ bọn Giao-chỉ luôn ẩn trong hang, trong ổ, nên Thiên-binh phải khó nhọc lắm mới đánh được. Bây giờ chúng ra khỏi ổ chó của chúng, với hai cánh quân này chưa tới 4 vạn người. Bố bảo chúng cũng không dám đánh vào tổng hành doanh. Có lẽ chúng chỉ hư trương thanh thế, hầu ta phải rút quân ở Cổ-pháp, Yên-dũng về mà thôi.



Ôn Cảo, Vương Mẫn cũng đồng ý với Liêu-Đông tam ma. Ôn Cảo nói:



– Chỉ nội ngày mai, chúng ta đánh Thăng-long, thì hai tên ôn con Hoằng-Chân, Chiêu-Văn mất đường về. Bấy giờ một là quân của chúng tan, hai là chúng phải đầu hàng.



Vừa lúc đó thì có tiếng quân reo ở phía Như-nguyệt và tiếng Lôi-tiễn nổ ở phía Đông. Rồi có quân báo:



– Quân Giao do công chúa Thiên-Ninh đánh chiếm Như-nguyệt. Phó nguyên soái Triệu Tiết cùng chư tường đang chống trả rất khó khăn.



Quỳ hỏi:



– Thế bọn Miêu Lý, Trương Thế-Cự, Đặng Trung, Lưu Mân đâu?



– Có tin tất cả đều bị bắt hay giết rồi.



– Vô lý, không thể dễ dàng như vậy, nhất là đạo kị binh của Trương Thế-Cự.



Lát sau lại có tin:



– Quân Giao chọc thủng tuyến giữ Như-nguyệt, thế cực kỳ nguy cấp.



Quỳ bắt đầu bối rối:



– Cho hai hiệu 16, 17, 18, 19 từ Bắc ngạn vượt phù kiều sang tiếp viện Nam ngạn.



Bây giờ tiếng Lôi-tiễn xé không gian, tiếng voi rống, tiếng hổ gầm, tiếng báo gào, tiếng sói tru, tiếng ngựa hí, tiếng quân reo, tiếng vũ khí chạm nhau hoà lẫn với tiếng người bị giết, bị chém kêu thét lên từ doanh ba vọng lại. Quỳ với bộ tham mưu chột dạ. Lát sau quân báo:



– Đệ tam doanh bị địch tấn công. Quân Giao đã tiến tới trung ương. Đệ nhất, đệ nhị doanh bị Lôi-tiễn bắn vào, bốc cháy khắp nơi.



Quỳ hoảng hốt ra mặt. Y yên trí mặt Như-nguyệt đã có Triệu Tiết, Diêu Tự. Y cùng Ôn Cảo, Vương Mẫn với Liêu-đông tam ma, Hoa-sơn tứ lão rời hành doanh tới đệ tam doanh.



Dưới ánh đuốc chập chờn, Quỳ đưa mắt quan sát: Hai trại quân đã bị phá tan nát. Lều bốc cháy ngùn ngụt, quân Tống nằm la liệt trên mặt đất; kẻ thì chết, người thì quằn quại bị thương. Ba trại còn lại đang dùng lá chắn chống nỏ thần. Quân sĩ dùng đao, cung tên chống với thú binh. Thiên-tử binh Đại-Việt như đàn hổ đói, được thú binh yểm trợ đang chém giết quân Tống. Quân Việt dàn trận thành ba mũi tấn công, khi chĩa vào chỗ nào, quân Tống bị đánh ngã chỗ đó.



Quỳ ra lệnh cho tướng kị binh Vương Mẫn:



– Hồi chiều tế tác báo cho biết Hoằng-Chân, Chiêu-Văn dựa vào chân núi Nham-biền mà đóng quân. Chúng lập phòng tuyến hướng về ta. Phía sau lưng chúng để hở, chỉ canh gác lấy lệ, vì tin rằng ta không có quân. Bây giờ y nghĩ rằng quân của chúng đột kích ta, ta mải chống trả. Vậy tướng quân cho xuất tất cả kị binh, đi vòng phía bờ sông, rồi đánh vào sau lưng y, thì diệt được y.



Quỳ nói với Liêu-Đông tam ma:



– Xin ba vị tiên sinh cùng hai trăm cao đồ theo trợ chiến cho Vương tướng quân.



Vương Mẫn, Liêu-Đông tam ma cùng đám đệ tử vội về khu trại kị binh. Trận chiến ở đệ tam doanh, ở Như-nguyệt làm cho kị binh tỉnh giầc. Tướng sĩ đã mặc giáp trụ, mang cung tên, thắng yên cương chờ đợi sẵn. Nên khi Vương Mẫn về tới nơi, y gọi chư tướng tới giảng giải về nhiệm vụ, chỉ cần nửa khắc là đoàn kị binh rầm rộ lên đường.



Địa thế Bắc Như-nguyệt tới Nham-biền về thời Lý là khu đất hoang khô quạnh. Bấy giờ thời tiết vào dịp tết, cỏ non mới mọc, cây còn trơ cành, thực là thiên thời, địa lợi cho đoàn kị binh tung hoành.



Trận chiến ở đệ tam doanh vẫn tiếp diễn ác liệt. Sau khi đánh tan hai đạo binh triều Tống, hiệu Long-dực bị ba đạo binh thiện chiến nhất bao vây chặn lại. Nhưng người người đều bỏ ra ngoài lẽ sống chết, lại có thú binh yểm trợ, nên cuộc chiến vẫn chưa phân thắng bại.



Sau hơn giờ giao chiến, Thần-nỏ, Thạch-xa đã bắn hết đá, hết tên. Nỏ binh, xa binh phá các xe bắn đá, nỏ thần, rồi cầm vũ khí chiến đấu với Thiên-tử binh.



Đứng quan sát trận chiến, Quách Quỳ để ý thấy chỗ mũi nhọn do một nữ tướng chỉ huy cạnh Dương Minh; mạnh đến nỗi mũi này đi đến đâu là binh Tống bị đánh dạt ra đến đó. Đặc biệt, đội cảm tử trên hai trăm võ sĩ được chỉ huy bởi hai đội trưởng già;, bất cứ đội trưởng, võ sĩ nào của Tống, hai lão già với đám võ sĩ Việt chỉ đưa một đao là cả người lần vũ khí đứt ra làm hai.



Quỳ hỏi:



– Nữ tướng kia là ai vậy?



– Y thị là vợ tên Dương Minh cùng chồng thống lĩnh hiệu Thiên-tử binh Long-dực. Hồi còn con gái, khuê danh là Hoàng Phương-Cúc. Thị là con của Hình-bộ thượng thư Hoàng Khắc-Dụng.



Quỳ lại chỉ vào hai cánh khác: Cánh bên phải do một thiếu niên chỉ huy. Cánh bên trái do một thiếu nữ chỉ huy. Mặt hai tướng này non choẹt, nhưng võ công rất cao thâm. Quỳ hỏi:



– Hai tướng thiếu niên kia là ai?



– Chúng là vợ chồng. Chồng tên Lý Lục, vợ tên Mai-Lục. Chúng thuộc đám Thập-bát kim cương, là Việt-kiều ở bên Chiêm về cố quốc tham chiến. Sư phụ của chúng là Mộc-tồn hòa thượng.



Nghe đến Mộc-tồn hòa thượng, mặt Quỳ cau lại thực khó coi. Quỳ nói với Hoa-sơn tứ lão:



– Xin Tứ-lão cùng quý cao đồ bao vây, giết chết đám tướng Giao-chỉ kia, thì mới mong diệt được đạo quân này.



Trong Hoa-sơn tứ lão, thì Bạch-lão có vai vế cao nhất. Từ hôm theo quân sang Nam. Lão phân chia hai trăm đệ tử làm bốn toán, mỗi toán cho được đặt thuộc quyền một lão luyện tập, để khi ra trận tiện việc chỉ huy. Cả bốn toán đều chờ đợi. Mãi tới hôm nay, anh em lão mới được Quách Quỳ nhờ đến. Lão phân chia: Xích-lão đánh Mai-Lục, Thanh-lão đánh Lý Lục, còn Bạch-lão, Hắc-lão đánh Dương Minh, Phương-Cúc.



Thoáng một cái, các lão với đệ tử đã xông vào trận chiến. Bạch-lão tung người lên, lão dùng một ưng trảo chụp Dương Minh đang đứng trên bành voi chỉ huy. Trảo của lão phát ra kình lực khiến cho tên quản tượng suýt ngã xuống. Lão kinh ngạc vô cùng, khi thấy trảo sắp tới cổ Dương Minh, mà viên tướng này coi như không biết tới, lão mừng thầm. Nhưng lão chợt cảm thấy phía trước mình có một kình lực mạnh đến nghiêng trời lệch đất đè xuống. Kinh hoàng lão vội biến chỉ thành chưởng đỡ. Ầm một tiếng, người lão bật tung về sau, rơi xuống đất, khí huyết trong người lão chạy nhộn nhạo cực kỳ khó chịu. Bấy giờ lão mới nhìn đối thủ của mình, chỉ là một Thiên-tử binh già. Lão chưa kịp định thần, thì đối thủ đã phóng một chỉ hướng đỉnh đầu lão, chỉ lực phát ra tiếng véo chói tai. Kinh hãi, lão trầm người xuống, rồi rút kiếm đánh cắt ngang vào luồng lực đạo. Choang một tiếng, kiếm của lão bị gẫy làm năm sáu mảnh. Lão ném chuôi kiếm rồi đẩy ra một chưởng, hắt tất cả những mảnh vụn về phía đối thủ. Viên Thiên-tử binh cũng đẩy một chưởng, đánh ngược lại. Hai chưởng chạm nhau đến bùng một tiếng. Cả hai người cùng lảo đảo lùi lại.



Bạch-lão quát lên:



– Cao nhân là ai, xin cho biết cao danh quý tính?



Sau khi quát, lão tưởng đối thủ không biết tiếng Biện-kinh. Nào ngờ viên Thiên-tử binh hỏi ngược lại cũng bằng tiếng Biện-kinh:



– Hoa-sơn tứ lão danh trấn Trung-nguyên về đạo đức, về võ đạo; thế mà sao lại sang đây lăn mình vào chỗ chết, cướp nước người chỉ vì cái mộng ngông cuồng của gã hủ Nho Vương An-Thạch? Xin Bạch-lão giải thích cho?



Bạch-lão liếc nhìn bên cạnh, Hắc-lão đang đấu chưởng với một viên Thiên-tử binh già, hơi yếu thế.



Quách Quỳ đứng xa đã lược trận, y thấy Bạch, Hắc là hai đệ nhất cao nhân đương thời, mà bị hai Thiên-tử binh đánh cho đến luống cuống chân tay thì kinh ngạc không ít. Y đến gần quan sát, chợt y chửi thầm:



– Mình đáng chết thực, thì ra hai Thiên-tử binh này là Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân. Hèn chi Hoa-sơn nhị lão không đàn áp nổi.



Y lên tiếng:



– Ngừng tay!



Bốn người ngừng tay lùi lại. Quách Quỳ xá một xá:



– Thì ra tiền bối Phu-Quốc, người chẳng từng là Phụ-quốc đại tướng quân tổng lĩnh thị vệ đời vua Nhân-tông bản triều đó ư? Còn vị tiền bối kia, người chửng từng là một tao nhân trên giòng Tương-giang, hồ Động-đình sao? Tại sao hai vị lại giả trang làm Thiên-tử binh hèn hạ như thế này?



– Bọn lão phu không nhận chức tước gì của triều đình Đại-Việt, thì khi xuất trận chỉ có thể mặc quân phục của Thiên-tử binh mà thôi.



Phụ-Quốc, Bảo-Dân thấy hai viên tướng Tống đứng rất gần mình, đang chỉ huy thiết đột vây quân Việt. Hai người đưa mắt cho nhau, rồi thình lình mỗi người tung mình về hai tướng đó, tay rút kiếm xả một nhát. Hai viên tướng đang mải chỉ huy không phòng bị, bị chiêu kiếm như trời giáng. Cả hai bị đứt làm hai khúc.



Bạch-lão nổi giận rút kiếm xả vào người Phụ-Quốc, trong khi Hắc-lão xả kiếm vào người Bảo-Dân. Bốn đại cao thủ Hoa-Việt cùng cố xuất hết lực bảo vệ quân mình.



Quách Quỳ nhìn về phía trái. Mai-Lục tay kiếm, tay đao dẫn đầu đội Thiên-tử binh, không tướng nào đương nổi. Giữa lúc Mai-Lục vung kiếm chặt đầu một đô thống Tống, thì Xích-lão tung mình lên cao, lão búng tay một cái, thanh kiếm của Mai-Lục bay vọt lên cao, tay còn lại lão đoạt đao của nàng. Mai-Lục bình tĩnh, tay rút cây roi da trên lưng quất vào người lão. Lão hớt một đao, cây roi bị đứt rồi vọt người lên cao, tay lão dùng một ưng trảo chụp cổ nàng nhắc bổng khỏi bành voi.



Viên đội trưởng chăn ngựa cho các tướng ở tổng hành doanh tên Trịnh Can đang dắt ngựa cho ôn Cảo đứng sau Quách Quỳ. Y hú lên một tiếng rung động không gian, dài liên miên bất tuyệt, khiến mọi người phải bịt tai lại; rồi y tung người lên cao, tay phóng một chưởng mạnh như bài sơn đảo hải hướng Xích-lão. Xích-lão kinh hoảng vội dùng tay trái cặp Mai-Lục, tay phải xuất chiêu đỡ chưởng của Trịnh Can. Nhưng Trịnh Can lại phát tiếp một chưởng nữa, chưởng sau xô chưởng trước như hai lớp sóng nối nhau. Xích-lão kinh hãi, vội tung Mai-lục lên cao, rồi dùng cả hai tay phát chưởng, thân nhảy lùi lại ba bốn bước để tránh áp lực của hai chiêu chưởng khủng khiếp kia. Trịnh Can tiến tới bắt lấy Mai-Lục, tung nàng lên cao. Mai-Lục lộn một vòng, đáp xuống giữa trận Tống, nàng chuyển tay một cái đã đoạt được hai thanh đao của quân Tống. Đao lại vung lên, mỗi cái vung là một thân hình đổ xuống.



Về phía trái, Thanh-lão cùng mười đệ tử tung mình đến chặn ngay trước mặt mũi tấn công của Lý Lục. Lão đáp xuống giữa lúc tay phải Lý Lục đang thúc một chiêu kiếm xuyên qua ngực một viên sư trưởng, rồi tay trái đẩy xác y bay tung sang bên cạnh. Lão chuyển động tay phải một cái, đã đoạt được kiếm của Lý. Lý kinh hãi nhảy lùi liền ba bước, bốn Thiên-tử binh xả đao vào người lão cứu chúa tướng. Nhưng lão như con cá trạch, chỉ cần lách mình hai cái, lão đã đuổi kịp Lý. Tay lão xuyên qua lưới vũ khí của bốn Thiên-tử binh, chụp cổ Lý rồi nhảy về trận Tống.



Lão điểm huyệt Lý Lục, rồi trao cho một đệ tử trói lại, còn lão thì lao vào trận tuyến Việt. Trước mặt lão, hai con hổ, một con beo nhảy xổ đến. Lão vung tay một cái, chưởng phong phát ra ào ào, hai con hổ bật tung lại phía sau, nhưng khi lực đạo sắp tới con báo, thì lão cảm thấy cánh tay như tê liệt. Một mùi thơm của hương sen thoang thoảng xông vào mũi lão. Biết bị trúng độc, lão cố hít hơi điều khí tống độc ra, thì một tiếng véo, rồi hương sen ngào ngạt bốc ra, toàn thân lão như mất hết kình lực. Trong khi đó đôi hổ, với con beo lại nhảy đến vồ lão, lão nghiến răng phát chiêu, mà chưởng không ra. Quá hãi hùng, lão nhảy lùi liền hai bước, thì lạ chưa, Lý Lục chuyển tay một cái tung ra hai chưởng đánh bay hai đệ tử của lão, rồi vọt người lên voi tiếp tục chỉ huy.



Biết có người tung thuốc cứu Lý Lục, tấn công mình, lão lên tiếng:



– Kẻ nào đánh trộm? Nếu là anh hùng, hảo hán thì hãy xuất hiện cùng ta đấu mấy nghìn chiêu.



Không có tiếng đáp lại. Lão vận khí điều tức, thấy chân khí lưu thông như thường, lão tung mình lên, tay rút kiếm xả một nhát như chớp giật vào người Lý Lục, kình lực cực kỳ trầm trọng. Binh tướng Việt kêu thét lên kinh khủng, vì chiêu kiếm đó xả xuống thì Lý Lục với con voi sẽ đứt làm đôi. Từ phía trận Tống, tên mã phu Vũ Uy lách mình một cái, đoạt thanh đao của một quân thiết đột rồi chĩa ngay vào lưng Thanh-lão, nếu lão không thu chiêu về tự cứu mình, thì người lão bị xẻ làm đôi trước. Lão vội quay tay đổi chiều, thanh kiếm vòng ra sau gạt kiếm của Vũ Uy. Choang một tiếng, cả hai thanh kiếm cùng gẫy. Cả hai người cùng lảo đảo lùi lại.



Thanh-lão quát:



– Người chẳng là tên mã phu đó ư? Tại sao người lại giúp giặc đánh người nhà?



Vũ Uy không nói không rằng, lão phóng chưởng tấn công Thanh-lão, chưởng không cực kỳ dũng mãnh. Thanh-lão nghiến răng đỡ. Rầm một tiếng, lão bật lui liền hai bước.



Quách Quỳ kêu lên:



– Thiên-vương chưởng! Chiêu Lôi-đả Ân-tặc! Người chẳng là người Tống ư? Tại sao người biết xử dụng võ công Sài-sơn?



Vũ Uy tiếp tục tấn công Thanh-lão. Hai người cùng dùng hết khả năng đấu với nhau.



Quách Quỳ hỏi viên tá lĩnh hầu cận:



– Có phải hai tên mã phu này là Trịnh Can, Vũ Uy không? Tại sao chúng lại giao chiến với Thanh, Xích lão?



– Thưa nguyên soái đúng. Đây là hai tên mã phu già Trịnh Can, Vũ Uy. Không hiểu sao võ công chúng lại cao thâm đến như vậy? Dường như chúng là gian tế của Giao-chỉ.




Nói rồi y phất tay, cái mâm nhỏ trên tay Minh-Thúy bay tung lên cao. Nhấp nhô một cái, Minh-Thúy đã bắt được cái mâm, nàng xuyên bên Đông, lách bên Tây, nào chim câu, nào giò, nào lại được hứng vào mâm, ngay ngắn như cũ.



Binh tướng Tống lại vỗ tay hoan hô.



Phó tướng của Vương Mẫn là Gia Quốc quát lên:



– Xin Tam-vương lịch sự một chút với quận chúa. Người không kể gì thân thể vàng ngọc mà mời Tam-vương. Tam-vương không nhận thì thôi, tại sao lại bất kính như thế?



– Ta cứ bất kính đấy! Người muốn giết ta chăng?



Thế tử Vị-Hoàng xua tay:



– Phụ-vương, vương mẫu nghe Liêu-Đông tam vương cùng chư đệ tử hiện diện tại đây. Người sợ rằng Tam-vương với sư thúc U-bon vương; đệ tử phái Sài-sơn với phái Liêu-Đông chém giết nhau, thì thù oán Hoa-Việt càng thêm chồng chất. Vì vậy người sai chúng tôi đến đây xin Lê sư thúc cho lĩnh Tứ-vương cùng chư đệ tử đem về Thiên-trường. Người cũng sai chúng tôi mang thuốc điều trị cho nhưng tướng sĩ Việt bị trúng Hóa-công nhuyễn cân. Không ngờ... không ngờ Tam-vương vẫn vô sự, thực là may mắn.



Nhất-Sư vương cười nhạt:



– May mắn cái gì? Thằng lỏi kia! Mi tưởng tên Lê Văn địch lại chúng ta ư? Chúng ta chỉ đánh có mấy chiêu, đã khiến cho con vợ của y với các tướng Nam-man trở thành tàn tật rồi.



Nhị-Hổ lắc đầu:



– Chúng ta sang đây là do lời mời của Hy-Ninh hoàng đế để bắt bốn tên thầy chùa ăn thịt chó với tên Lê Văn đóng cũi mang về cho ngài. Còn Kinh-Nam vương ư? Y là tên mọi Nam-man đã bị triều đình cách hết chức tước đuổi khỏi Trung-nguyên. Vợ y trước đây được phong là thái công chúa, đã phản lại Thiên-triều, phản họ Triệu, nên cũng bị xóa tên trong sổ Ngọc-điệp rồi. Thế mà vợ chồng y không tự biết thân phận, còn sai con trương cờ đến đây làm oai ư?



Suốt hơn bốn mươi năm, Kinh-Nam vương với công chúa Huệ-Nhu gắn liền cuộc đời trên lưng ngựa trấn ngự biên cương, khi thì bình Tây-hạ, khi thì đuổi Liêu, giữ vững giang sơn Đại-Tống. Tất cả chư tướng Tống đều do vương đào tạo. Trong thời gian đó, vương với công chúa coi tướng sĩ như chân tay, coi binh lính như con cái. Cho nên đối với binh tướng Tống, họ kính trọng vương với công chúa như cha như mẹ. Bây giờ thình lình nghe Nhị-Hổ nhục mạ vương với công chúa, bất giác họ cùng quát lên:



– Câm cái mồm!



– Láo! Cắt lưỡi đi!



– Đồ vô luân.



Tam-Báo gầm lên:



– Các người cấm ta nói ư? Ta gọi Kinh-Nam vương là tên mọi Giao-chỉ, con Triệu Thuận-Tường (Nhũ danh công chúa Huệ-Nhu) là con điếm già đấy! Đứa nào có bản lĩnh, thì cứ bước ra đây, đa sẽ đập cho nát thây. Đã vậy ta rời khỏi đây, để mặc bọn bay cho bọn Giao-chỉ băm vằm ra.



Binh tướng đều lăm lăm vũ khí trong cái căm hận cùng cực. Vương Mẫn sẽ gật đầu một cái, kị binh Tống bao vây lấy Liêu-Đông tam ma với đám đệ tử.



Thế tử Vị-Hoàng xua tay:



– Không nên! Dù sao Liêu-Đông tam vương cũng vâng chỉ hoàng thượng tới đây trợ chiến với chúng ta. Tam vương muốn ở lại hay đi là tùy ý. Vạn vạn lần ta không thể để mất hòa khí với Tam-vương.



Binh tướng Tống, Liêu-Đông tam ma nghe lời Vị-Hoàng nói đều kinh ngạc không ít. Bởi chính tai họ nghe Tam-Hổ nhục mạ vương với công chúa, đến nỗi họ nổi nóng phải ra tay. Thế mà anh em Vị-Hoàng không có phản ứng gì, còn xin tha cho chúng.



Kỵ binh mở vòng vây ra, thầy trò Tam-ma nghênh ngang lên ngựa, đi về hướng Nam. Gia Quốc nói nhỏ với Vương Mẫn:



– Vị thế tử này tài đến đâu thì không biết, nhưng minh mẫn thì e hơn cả vương gia!



–?!?!?!



– Nếu như vừa rồi thế tử nổi nóng, khiến chúng ta băm vằm Liêu-Đông tam ma ra thì ít nhất ta cũng thiệt hại khá nhiều nhân mạng. Trong khi miệng thế gian, bọn mặt dơi tai chuột lại dèm pha rằng vương sai con giết Tam-ma là khâm sứ của triều đình.



Giữa lúc đó thì có « pháo lệnh của Quách Quỳ » gọi Vương Mẫn về. Mẫn cùng chư tướng bái biệt thế tử Vị-Hoàng với quận chúa Minh-Thúy, rồi cho rút quân.



Tuy Trung-Thành, Tín-Nghĩa nhị vương, nhị vương phi, hai tướng Trần Ninh, Tạ Duy, hai phu nhân bị trúng Hóa-công nhuyễn cân nằm mê man; tuy Ngô Ức với phu nhân Phương Dược tuẫn quốc.. nhưng sau cuộc chiến chủ lực ba hiệu Đằng-hải, Vạn-tiệp, Hùng-lược vẫn còn nguyên. Ba cặp vợ chồng Lý Ngũ, Thất, Cửu thay thế cầm quân, trận thế Việt không hề bị rối loạn. Lý Ngũ cầm cờ phất lên, ba hiệu binh Đại-Việt cùng thúc trống đổ đồi truy kích.



Vương Mẫn vội cho dàn kỵ mã ra nghênh chiến, mà trong lòng y phát run:



– Đoàn kỵ binh vô địch của ta lúc đi có sáu nghìn, do xuất kỳ bất ý mà đoạt thắng lợi lúc đầu. Nay quân số chỉ còn một nửa, mà thế của địch còn nguyên. Làm sao bây giờ?



Minh-Thúy thúc ngựa vào giữa hai hàng quân, rồi nàng lên tiếng:



– Thôi! Thôi! Khổ quá! Ngừng đi thôi!



Nước mắt đầm đìa, nàng chỉ vào các thương binh Việt, Tống, xác tử sĩ nói với Vương Mẫn:



– Chết nhiều quá rồi! Chết tức tưởi, chết vô lý như thế này chưa đủ sao?



Vương Mẫn cung tay:



– Chính bên Đại-Việt định truy kích đấy chứ!



Minh-Thúy chắp tay xá Lý Ngũ:



– Sư huynh! Sư huynh nể mặt muội mà dừng quân lại được không?



Lý Ngũ đáp lễ:



– Dĩ nhiên là được.



Minh-Thúy bảo Vương Mẫn:



– Tướng quân cho thu nhặt hết xác tử sĩ đem về một thể.



Mai-Ngũ ra lệnh cho hiệu Long-đực giúp quân Tống thu nhặt tử thi đồng đội. Hơn khắc sau, kị binh Tống đã rút khỏi chân núi Nham-biền.



Bấy giờ anh em Vị-Hoàng mới lên đồi bái kiến U-bon vương. Cả hai thất kinh, khi thấy vương ngồi bên công chúa Nong-Nụt mặt mày ủ rũ. Cạnh vương, xác của Trung-Thành, Tín-Nghĩa vương với hai vương phi. Xa hơn chút nữa là xác của Trần Ninh, Ngọc-Hương, Tạ Duy, Phương-Quế. Thế tử hỏi Lý Ngũ:



– Sự thể ra sao? Tại sao đến mười đại tướng đều tuẫn quốc thế này?



Ghi chú,



Vân-ma thượng tướng quân, Nhu-tâm hầu Trần Ninh tuẫn quốc năm 26 tuổi. Thiên-hương, Thuần-mẫn quận chúa Trần Ngọc-Hương tuẫn quốc năm 25 tuổi. Hết giặc, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu truy phong cho ngài là Anh-duệ, Chiêu-thắng, Trung-liệt, Nguyệt-đức Long-vương, phu nhân được truy phong Trang-duệ, Thuần-mẫn, Thiên-hương công chúa. Truyền lập đền thờ. Trải qua 918 năm dài của lịch sử với biết bao nhiêu lớp sóng phế hưng, cho đến nay (1995) đền thờ của ngài vẫn còn tại hai xã Chân-hộ, Hộ-trung, huyện Yên-phong, tỉnh Bắc-ninh, nay là tỉnh Hà-Bắc.



Sinh thời, ngài là tướng trẻ nhất trong Long-biên ngũ hùng, có tài trị quân cực nghiêm, đánh đâu thắng đó, nên tiểu sử của ngài bị huyền thoại hóa đi rất nhiều. Độc giả muốn thâm cứu tiểu sử ngài, xin đọc thêm các tài liệu ghi trong phần 7.1.5 phần tựa NQSH quyển 1.



Ninh-viễn đại tướng quân, Dũng-tâm hầu Tạ Duy tuẫn quốc năm 24 tuổi. Phu nhân là Lý Phương-Quế, con gái của nhân vật danh tiếng bậc nhì triều vua Lý Nhân-tông, chỉ sau có Lý Thường-Kiệt, đó là Thái-phó, Thượng-trụ quốc, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Đại-đô đốc Lý Kế-Nguyên, tước Nam-quốc công; tuẫn quốc năm 24 tuổi. Hết giặc, triều đình nghị công tâu lên, Linh-Nhân hoàng thái hậu phong cho ngài là Ninh-viễn, Trung-chính đại vương. Phu nhân được phong Trang-hòa, Ninh-tĩnh công chúa. Truyền lập đền thờ. Trải bao thỏ lặn ác tà của 918 năm dài lịch sử, hiện nay (1995) đền thờ ngài vẫn còn tại xã Lưu-xá, huyện Hưng-nhân, nay là huyện Hưng-hà, tỉnh Thái-bình. Độc giả muốn thâm cứu thêm về tiểu sử ngài, xin đọc các tài liệu trong mục 7.2.7 bài tựa, NQSH quyển 1.



Trung-Thành vương Lý Hoằng-Chân tuẫn quốc năm 37 tuổi, vương phi Nguyễn-thị Trinh-Dung tuẫn quốc năm 32 tuổi. Tín-Nghĩa vương tuẫn quốc năm 35 tuổi, vương phi Lê Ngọc-Nam tuẫn quốc năm 31 tuổi. Trước khi tuẫn quốc, chức tước của chức tước nhị vương, nhị vương phi như sau:



Trung-Thành vương: Kiểm hiệu thái sư, Thượngtrụ quốc, Thượng-thư lệnh kiêm Trung-thư lệnh, Thăng-long tiết độ sứ, Tả kim-ngô đại tướng quân, quản Khu-mật viện.



Tín-Nghĩa vương: Kiểm-hiệu thái phó, Khai phủ nghị đồng tam tư, Võ-minh quân Tiết-độ sứ, Thượng-thư tả bộc xạ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Phụ-quốc đại tướng quân, Khu-mật viện sứ.



Còn sau khi tuẫn quốc, tôi đã tìm trong tất cả thư tịch, mộ chí, bia đá, gia phả Hoa-Việt cũng không biết nhị vương được truy phong những gì? Thực đáng tiếc.



Riêng hai vương phi, được truy phong như sau:



Vương phi Trung-Thành nhũ danh Nguyễn-thị Trinh-Dung được phong Minh-đức, Thạc-hòa, Chí-nhu công chúa.



Vương phi Tín-Nghĩa nhũ danh Lê Ngọc-Nam được phong Ninh-đức, Trang-duệ, Hiếu-khang công chúa.



Cả bốn vị đều được phối thờ ở thái miếu triều Lý, nên không có đền thờ riêng. Mãi sau này, niên hiệu Hội-tường Đại-khánh thứ 9 đời vua Lý Nhân-tông (DL. 1118, Mậu-Tuất) nhân nhị vương rất linh thiêng, thường hiển linh giúp dân; vua sai lập đền thờ ở trại Thủ-lệ phía Tây Thăng-long, nay là Linh-lang đại vương từ tức đền Voi-phục. Đền nằm trong quận Ba-đình, Hà-nội (gần công viên Thủ-lệ). Đây là một di tích lịch sử rất quan trọng, nhưng tiếc rằng lưu truyền bị tam sao thất bản. Ngoài ra dân chúng còn lập nhiều đền thớ khác nữa, cho đến nay, tôi còn tìm được đền Bồng-lai ở huyện Từ-liêm, Hà-nội và ở hai xã Đại-quan, Thuần-lễ.



Hẳn lúc dựng đền, vua có sai chép tiểu sử nhị vương đầy đủ. Nhưng trong các cuộc thăng trầm của lịch sử, phổ bị mất đến năm lần. Sau mỗi lần bị mất, dân chúng theo trí nhớ lưu truyền, chép lại, nên bị sai lạc quá nhiều. Lần mất thứ nhất tướng Mông-cổ Ngột-lương Hợp-thai chiếm Thăng-long đã thu cuốn phổ đem đốt (1257). Sau đó phổ được chép lại, rồi bị quân Mông-cổ của Thoát-Hoan thu đốt hai lần nữa (1283-1285). Lần thứ tư (1385) Chế Bồng-Nga đem quân đốt phá Thăng-long, y cho đốt phá đền để trả thù trước đây (1069) nhị vương đem quân đánh Đồ-bàn. Cuối cùng, năm 1407, Trương Phụ, Mộc Thạch sang đánh giặc Hồ Quý-Ly đã đem tất cả sử sách đốt đi, hoặc chở về Kim-lăng. Sau khi vua Lê Thái-tổ dành được độc lập, dân chúng theo trí nhớ chép lại lần nữa. Tính chung cuốn phổ tại đền Voi-phục phải viết lại năm lần, nên gần như sai hoàn toàn.



Thần tích Linh-Lang đại vương từ (tức đền Voi-phục) chép rằng thần là con thứ tư vua Lý Thánh-tông. Tương truyền bà phi họ Nguyễn đang tắm ở hồ Tây bỗng có con rồng thần hiện ra phun nước thơm vào mình, về nhà mang thai, 14 tháng sinh ra Linh-Lang. Khi Triệu Tiết sang đánh nước ta, Linh-Lang ứng ngĩa tòng quân giết giặc, sau đó về hóa ra con giao long lặn xuống hồ. Nhân đó vua sai lập đền thờ.



Điều vô lý là đền được xây vào niên hiệu Chương-thánh Gia-khánh thứ 7 (1065) đời vua Lý Thánh-tông, trong khi bên dưới chép rằng vương đánh nhau với Triệu Tiết (1077).



Ba tài liệu Việt chép về sự tích này là:



– Hoàn-long huyện chí,



– Bắc-kỳ giang sơn danh thắng cổ tích bị khảo,



– ĐNNTC,



rất mơ hồ. Trong khi QTNC, TTCTGCK, TTCTBK, TS lại chép rất chi tiết.



Khi Linh-Nhân hoàng thái hậu băng hà. Nhiều nơi nhớ công đức của ngài, lập đền thờ như đã trình bầy trong NQSH quyển 1, mục 3. Tại các đền thờ ấy đều phối thờ sáu vị đương thời là phụ tá của ngài (Đã thuật trong NQSH



Nếu con dân Đại-Việt nào đọc những dòng này, mà còn tưởng nhớ đến huân công của hai vị công chúa, đi hành hương đền thờ Linh-Nhân hoàng thái hậu, sẽ thấy: Tượng của sáu công chúa đều mặc áo mầu đỏ sẫm, áo choàng giống nhau, thêu hoa văn giống nhau, nẹp áo giống nhau, duy mầu áo choàng với khăn khác nhau mà thôi. Tượng của công chúa Trinh-Dung áo choàng, khăn mầu xanh. Tượng của công chúa Ngọc-Nam áo choàng, khăn mầu tía.



Lý Ngũ thuật sơ lược cuộc chiến kinh hồn táng đởm xẩy ra từ chiều đến giờ, rồi kết luận:



– Không ngờ bọn Liêu-Đông xảo trá, thay vì chúng trao thuốc giải, chúng lại trao thuốc độc. Nên tất cả... đều qua đời!



Vị-Hoàng xua tay:



– Sư huynh lầm rồi! Phàm người trúng Hóa-công nhuyễn cân, thì công lực mất hết, người mềm xèo như trẻ sơ sinh. Từ đấy mỗi ngày lên cơn ngứa ngáy đến nổi muốn sống không nổi, mà chết cũng không xong; không thuốc nào trị được.



Mai-Ngũ hỏi:



– Trường hợp người của phái Liêu-Đông bị trúng Hóa-công nhuyễn cân thì sao? Không lẽ họ cũng chịu chết?



Minh-Thúy tiếp lời anh:



– Đúng vậy. Cho nên họ mới chế ra loại thuốc mà người bình thường uống vào thì không sao, còn người bị trúng Hóa-công nhuyễn cân thì sau khi uống sẽ cảm thấy khoan khoái vô cùng, rồi chết như ngủ vậy. Họ đặt tên đó là thuốc giải thoát. Ban nãy Tam-ma đã trao thuốc này cho ta. Vì vậy... vì vậy...



Đến đây, Minh-Thúy phải ngừng kể, bởi từ phía trước, một đoàn người ngựa rầm rập tiến tới. Ngao-binh báo với Lý Ngũ:



– Có một đoàn ngựa, không người điều khiển đang tiến về đây. Xin Đô-thống định liệu.



Lý Ngũ ra lệnh cho một tá lĩnh đem mười viên võ sĩ ra xem xét sự thể. Chưa đầy một khắc, viên tá lĩnh dẫn đoàn ngựa đến báo cáo:



– Thưa Đô-thống, trên mỗi con ngựa có một đệ tử của Liêu-Đông đặt nằm ngang. Trên lưng ba con khác có ba cái cũi, mỗi cũi giam một trong Liêu-Đông tam ma.



Lê Văn, Vị-Hoàng, Minh-Thúy với vợ chồng Lý Ngũ cùng xuống núi quan sát: Rõ ràng ai đó dùng Hoá-công nhuyễn cân đánh bọn đệ tử Liêu-Đông khiến chúng mất hết công lực, người trở thành mềm xèo. Còn Liêu-Đông tam ma thì bị trói bằng xích sắt, giam trong cũi, miệng mỗi người ngậm một cái đùi chó luộc. Binh tướng Việt thấy vậy, đều bật lên tiếng reo:



– Mộc-tồn vọng thê bồ tát.



Lê Văn chỉ đám Liêu-Đông nói với Vị-Hoàng:



– Cháu mau đem đám này về cho bố cháu, để bố cháu phát lạc.



Vị-Hoàng, Minh-Thúy cùng đội võ sĩ lên ngựa giải đám tù Liêu-Đông đi.



Sau khi nghe Lê Văn kể, Mộc-tồn hòa thượng dở khóc, dở cười, ngài phân trần:



– Hà! Từ chiều đến giờ ta luôn ở cạnh hiệu Long-dực, đánh nhau với Tống mệt muốn bở hơi tai. Ta đâu có bắt bọn Liêu-Đông! Không biết ai đã ra tay rồi mạo tên ta?



Trần Bảo-Dân mỉm cười:



– Ai bảo chú mày oai quá Ngọc-hoàng thượng đế, dữ hơn Diêm-vương lão tử, nên « người » mới mượn danh, chứ có ai mượn danh ta đâu? Kể ra những « người » có bản lĩnh làm việc này cũng không nhiều. Cao nhất phải kể sư cụ Huệ-Sinh chưởng môn phái Tiêu-sơn. Nhưng cụ thành bồ tát rồi, chắc không thể đánh gần hai trăm người thành tật như vậy. Thứ đến con nhí Bình-Dương, cu lợn Thiệu-Thái, tiên bà Bảo-Hòa, nhưng ba đứa này đang đục nhau với Tống ở Như-nguyệt, Phú-lương... đâu có thời giờ làm việc này?



Công-chúa Nong-Nụt cau mày suy nghĩ:



– Hay hai thánh tăng Minh-Không, Đạo-Hạnh? À mà hai ngài cũng đang đại chiến ở Như-nguyệt. Khó quá!



Mai-Cửu là nữ đệ tử trẻ nhất của Mộc-tồn hòa thượng, cũng là đệ tử được ngài yêu thương nhất, thỏ thẻ:



– Sư phụ! Trong thế gian, người lớn gan bằng trời cũng không dám mượn danh sư phụ. Người mượn danh này, bản lĩnh thực phi thường, vì ông ta đã bắt sống được Liêu-Đông tam ma. Bắt sống Liêu-Đông tam ma đã khó, lại còn dùng Hoá-công nhuyễn cân bắt hết đám đệ tử của chúng thì e phải có nhiều người. Như vậy con nghĩ chỉ có... chỉ có...



Mộc-tồn hòa thượng tát yêu đệ tử:



– Thầy biết rồi! Thầy biết rồi! Con thực thông minh, thông minh hơn cả Quốc-mẫu Thanh-Mai, vua bà Bình-Dương.



U-bon vương là người có tài cầm quân nhất hiện diện. Vương ra lệnh:



– Bây giờ đã sang giờ Dần. Ta cho hai hiệu Vạn-tiệp, Hùng-lược xuống hạm đội Thần-phù, Bạch-đằng ăn cơm, nghỉ dưỡng sức. Giờ Ngọ thì khởi hành tiến về Như-nguyệt để trợ cho đạo quân của tiên nương Bảo-Hòa, công chúa Thiên-Ninh. Việc tổng chỉ huy này, phi sư huynh Trung-Đạo không ai làm nổi.



Vương ra lệnh cho vợ chồng Lý Ngũ:



– Sau khi tiên nương Bảo-Hòa tái chiếm Như-nguyệt, vua bà Bình-Dương tái chiếm Phú-lương, ta đánh trận Nham-biền, thì Quách Quỳ không còn khả năng tiến công ta nữa. Vậy hai con đem hiệu Đằng-hải đóng đồn tại Bắc ngạn chiến lũy Phú-xuân làm thế ỷ dốc cho hiệu cho hiệu Thần-điện của vợ chồng Lý Bát.



Vương nói với Phu-Quốc, Bảo-Dân:



– Hai sư huynh lại về Phú-xuân với đệ chứ?



Bảo-Dân cười, vỗ vai Lê Văn:



– Tuân chỉ đại vương.



Vương hỏi Mộc-tồn, Viên-Chiếu:



– Nhị vị bồ tát chắc lại về ẩn ở trong quân Tống?



– Đúng thế.



Thấp thoáng một cái, hai ngài đã biến vào đêm tối.